Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

THỰC TRẠNG THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.85 KB, 14 trang )

MỞ BÀI.......................................................................................................... 1
NỘI DUNG.....................................................................................................2
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TTHCCT........................................2
1.1 Khái niệm về TTHCCT..............................................................................................................2
1.2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh............................................................................2

2. THỰC TRẠNG THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM...3
2.1.Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.............................4
2.2. Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ hạn chế đầu tư...........................................5
2.3. Thỏa thuận thông qua thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.........6
2.4. Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa dịch
vụ......................................................................................................................................................6
2.5.Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa dịch
vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng
của hợp đồng.....................................................................................................................................7
2.6. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát
triển kinh doanh và thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thỏa thuận...................................................................................................................................7
2.7. Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa,
cung ứng dịch vụ..............................................................................................................................8
2.8. Thực trạng hoạt động thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở một số nước trên thế giới.................10

3. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TTHCCT....................................................................................................................11
3.1. Nguyên nhân............................................................................................................................11

KẾT LUẬN...................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................14

MỞ BÀI
Cạnh tranh trong kinh doanh là quyền cơ bản của chủ thể kinh doanh trên thị


trường và được pháp luật bảo hộ. Đồng thời nhà nước cũng loại bỏ những cản trở đối
với quá trình cạnh tranh của các chủ thể, trên cơ sở đó tạo nên môi trường bình đẳng,
khuyến khích các chủ thể cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
1


doanh. Một trong những hành vi có thể gây tác động xấu đến môi trường cạnh tranh
lành mạnh và cần thiết phải đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước là thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh. TTHCCT có những tác động tiêu cực làm mất động lực thúc đẩy kinh tế,
ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước và người tiêu dùng. Tuy nhiên không thể không
thừa nhận mặt hiệu quả của chúng trong việc liên kết và nâng cao năng lực của doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Thực trạng pháp
luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam”

NỘI DUNG
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TTHCCT.
1.1 Khái niệm về TTHCCT
Hiện nay cạnh tranh đang diễn ra rất phổ biến, do vậy để nền kinh tế phát triển
nhanh và ổn định, cần phải thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Để làm được
điều đó cần phải xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ điều chỉnh các các hành vi hạn chế
cạnh tranh. Như vậy hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một trong ba hành vi có
thể nguy cơ hạn chế cạnh tranh, thủ tiêu sự phát triển của nền kinh tế.
Có thể hiểu khái niệm về TTHCCT như sau: “ TTHCCT là thỏa thuận của các
đối thủ cạnh tranh trên cùng một thị trường liên quan phối hợp hành động với nhau thủ
tiêu cạnh tranh giữa chúng, nâng cao vị thế của các thành viên tham gia thỏa thuận,
cản trở sự tham gia thì trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự nhập cuộc
của các DN tiềm năng”.Hay dưới góc độ nghiên cứu trong khoa học pháp lý ta có thể
hiểu ngắn gọn như sau: “ TTHCCT là sự thống nhất ý chí của từ 2 chủ thể kinh doanh
trở lên được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở
cạnh tranh trên thị trường”.1

1.2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Bản chất của cạnh tranh là một cuộc đấu tranh giữa các chủ thể kinh doanh nhằm
giành các điều kiện có lợi nhất về sản xuất, phân phối hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên
thị trường. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp hoạt
động độc lập. Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải hoạt động độc lập với nhau
và hoàn toàn không phụ thuộc nhau về tài chính. Những hoạt động thống nhất của các
1

Giáo trình Luật cạnh tranh,Nxb, CAND,2011,Đại học luật Hà Nội, tr.125.

2


đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc trong một công ty không được pháp luật cạnh
tranh coi là thỏa thuận.
Thứ hai, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được hình thành khi có sự thống nhất về ý
chí của các bên tham gia thỏa thuận. sự thống nhất cùng hoạt động giữa các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận được thể hiện công khai hoặc không công khai.
Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh tranh, làm
sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh gây ra cho thị trường là xóa bỏ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tham gia. Khi
thỏa thuận cạnh tranh được ký kết các doanh nghiệp đang là đối thủ cạnh tranh của
nhau sẽ không cạnh tranh với nhau nữa.

2. THỰC TRẠNG THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
Sau những năm thực thi các quy định của Luật Cạnh tranh, đã có hơn 40 vụ việc
liên quan đến vi phạm các quy định của pháp luật cạnh tranh bị điều tra ,xử lý. Trong số
các vụ việc này, có 20 doanh nghiệp liên quan đến các hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền, lạm dụng vị trí thống lĩnh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã bị điều tra, xử phạt.

Những con số này được công bố vào ngày 28/12/2010, tại hội thảo “5 năm thực thi
pháp luật cạnh tranh trong kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam” 2 do Hội
đồng Cạnh tranh Việt Nam và Dự án hỗ trợ thương mại đa biên Giai đoạn III phối hợp
tổ chức.3 Tuy nhiên, theo đánh giá của dư luận, số vụ vi phạm trên thực tế lớn hơn rất
nhiều so với số vụ đã bị xử lý.
Luật Cạnh tranh được ban hành ngày 3/12/2004, đã trao cho 2 cơ quan tiến hành tố tụng
cạnh tranh (Hội đồng Cạnh tranh và Cục Quản lý Cạnh tranh) hai nhiệm vụ lớn: kiểm
soát các hành vi hạn chế cạnh tranh và kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Trong đó, kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh là nhiệm vụ có tính chất
phức tạp nhất, đa ngành nghề, yêu cầu năng lực rất lớn của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc thực hiện song song các điều tra, phân tích kinh tế - kỹ thuật để xử lý
phù hợp với các quy định của pháp luật.
Để đánh giá sát hơn thực tiễn, tại các cuộc hội thảo, các cơ quan tiến hành tố tụng
cạnh tranh, ngành Tư pháp, cộng đồng doanh nghiệp, giới học thuật và các cơ quan
quản lý nhà nước đã cùng đánh giá, nhìn nhận những vấn đề có tính chất thời sự và thiết
2
3

VCC - www.hoidongcanhtranh.gov.vn
EU-Viet Nam MUTRAP III - www.mutrap.org.vn

3


thực đối với Việt Nam như thực trạng thực thi luật cạnh tranh 5 năm qua ở Việt Nam,
kinh nghiệm điều trần xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, các kiến nghị hoàn thiện về
thực thi Luật trong lĩnh vực hạn chế cạnh tranh và các vấn đề tố tụng liên quan đến các
vụ án hành chính về xử lý vụ việc cạnh tranh…Dưới đây là những hình thức thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh và những thực trạng mà trên thị trường đang diễn ra ngày một tăng.
2.1.Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp

Đây là loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh kinh điển và phổ biến nhất. Trong nền
kinh tế đang trên đà phát triển như hiện nay, dưới sức ép của môi trường cạnh tranh, các
doanh nghiệp luôn phải tìm moi cách cắt giảm chi phí sản xuất nhằm hạ giá thành sản
phẩm, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, bản
chất của loại hình ấn định giá là việc thống nhất cùng hành động ấn định giá một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Các hình
thức thỏa thuận này đã làm thiệt hại một phần không nhỏ cho nền kinh tế, mới đây trên
thị trường có rất nhiều vụ vi phạm diễn ra, điển hình là vụ việc về thỏa thuận ấn định
giá được xử lý, đó là vụ việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm ký văn bản thỏa thuận tăng
mức phí tối thiếu đối với dịch vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô vào cuối năm 2008. Theo
bản thỏa thuận, mức phí bảo hiểm tăng từ 1,3% lên 1,56% và có hiệu lực từ 1/10/2008.
Sau một năm điều tra, vụ việc đã được đem ra xử lý. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
đã kết luận 19 doanh nghiệp bảo hiểm này đã vi phạm Điều 8 và khoản 2 Điều 9 Luật
cạnh tranh và áp dụng mưc phạt 0,025% tổng doanh thu trong năm tài chính trước đó
đối với tất cả các doanh nghiệp( tổng mức phạt khoảng 1,7 tỷ đồng) 4. Qua tìm hiểu về
vụ việc trên ta thấy: 19 doanh nghiệp bảo hiểm "bắt tay" nâng phí bảo hiểm đã thao
túng thị trường bảo hiểm xe cơ giới. Theo phản ánh từ một số khách hàng và doanh
nghiệp cùng tham gia trong lĩnh vực bảo hiểm tại Việt Nam được biết, trong ngày
15/9/2008, tại hội nghị CEO các nhà bảo hiểm phi nhân thọ lần thứ VI, 15 doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đã ký thỏa thuận kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm xe
cơ giới. Đến ngày 1/10/2008, có thêm 4 doanh nghiệp nữa tiếp tục đăng ký tham gia,
nâng tổng số lên 19 thành viên. Điều đáng nói là 19 doanh nghiệp này đã “bắt tay” nhau
nâng phí bảo hiểm và hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp khác cùng kinh doanh
trên thị trường.

4

Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh số 14/QĐ-HĐXL ngày 29/7/2010 về xử lý vụ việc cạnh tranh số
KNCT- HCCT- 0009


4


Sau khi nhận được phán ánh, cơ quan quản lý cạnh tranh Bộ Công thương đã ra
quyết định điều tra và đi đến kết luận thông tin nâng mức phí bảo hiểm của khách hàng
là hoàn toàn có thật và tại thời điểm ký kết thỏa thuận các công ty này đã vi phạm luật
hạn chế cạnh tranh. Vào thời điểm các doanh nghiệp ký kết, thị phần của 19 công ty
trên chiếm tới 99,79% nên dễ dàng thao túng thị trường, vi phạm nghiêm trọng các quy
định về hạn chế cạnh tranh. “Hành vi thoả thuận nêu trên của 19 doanh nghiệp bảo hiểm
là hành vi vi phạm quy định tại khoản 2, Điều 9 của Luật Cạnh tranh về các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh bị cấm do thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia
thỏa thuận vượt quá ngưỡng 30% trên thị trường dịch vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại
Việt Nam”, Cục Quản lý cạnh tranh kết luận.
Liên quan đến việc các thành viên của Hiệp hội thống nhất cách tính giá chung.
Vụ việc diễn ra vào thời điểm năm 1977, Hiệp hội taxi được thành lập với sự tham gia
của 14 doang nghiệp thành viên. Sau khi hiệp hội được lập ra, các doanh nghiệp thuộc
thành viên hiệp hội này đã thống nhất tăng giá cước taxi từ 6.000VNĐ/km đầu tiên lên
12.000VNĐ/2 km đầu tiên và 5.000VNĐ/km tiếp theo.Mức giá này duy trì thống nhất
trong tất cả các thành viên của Hiệp hội. Các thành viên của hiệp hội đã thu được lợi
nhuận trực tiếp từ hành vi thỏa thuận này mà không cần sự nỗ lực phát triển nào.
2.2. Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ hạn chế đầu tư
Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ là việc thống nhất mua sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng 5. Thỏa
thuận này thống nhất không đưa thêm vốn vào để mở rộng sản xuất, cải tiến chất lượng
hàng hóa, dịch vụ hoặc để mở rộng phát triển khác 6. Trong thị trường tự do, lợi ích của
người tiêu dùng không chỉ có được từ cạnh tranh về giá mà còn có được từ cạnh tranh
về chất lượng, mẫu mã, tính năng của sản phẩm…Sự cạnh tranh này buộc các doanh
nghiệp phải tăng cường đầu tư và phát triển công nghệ và kỹ thuật. Do vậy những thỏa
thuận hạn chế đầu tư, hạn chế phát triển công nghệ và kỹ thuật sẽ kìm hãm cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp và gây thiệt hại tới lợi ích của người tiêu dùng.


5
6

Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP
Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP

5


2.3. Thỏa thuận thông qua thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung
ứng dịch vụ.
Nhằm giảm sức ép cạnh tranh và tạo ra sự độc quyền trong khi vực thị trường đã
được phân chia, các doanh nghiệp thỏa thuận việc phân chia thị trường theo lãnh thổ,
loại hình hay quy mô của khách hàng, hay theo bất kỳ tiêu chí nào khác.
Trong nền kinh tế chuyển đổi của Việt Nam hiện này thì đây là hình thức thỏa
thuận nữa cũng rất phổ biến là hình thức thỏa thuận trên cơ sở hiệp hội ngành nghề ,
đây là tình trạng phối hợp hành động giữa các DN là đối thủ cạnh tranh trong hiệp hội.
Cho đến nay Việt Nam vấn chưa có Luật hoặc pháp lệnh nào quy định việc hình thành
và tổ chức của các hiệp hội. Cho đến khi luật cạnh tranh được ban hành, các hiệp hội
vẫn có thể công khai về giá sản phẩm dịch vụ mà hiệp hội cung cấp. Một số hiệp hội
ràng buộc các thành viên trong việc định giá, điều này có thể thấy sự xuất hiện hiện
tượng 7 công ty thuộc hiệp hội phân bón Việt Nam, chiếm 85% thị phần trên thị trường
cung cấp phân bón trong nước, thỏa thuận giữ giá bán tối thiểu. Sự thống nhất bán giá
bán tối thiều dường như đã góp phần đẩy giá phân bón tăng cao trong nhiều năm nay,
gây bất lợi cho nông dân. Tương tự như vậy, giá tân dược tăng giá quá cao so với khu
vực và thê giới cũng đặt ra nhiều nghi vấn về những thỏa thuận độc quyền đã nâng giá
hàng hóa khi tiêu thụ tại Việt Nam.
Ngoài ra, các hiệp hội còn thống nhất phương thức tính giá( ví dụ một hiệp hội
taxi quy định giá dịch vụ tối thiểu cho mỗi km và phương thức tính giá cước cho các

doanh nghiệp thành viên); kìm giữ giá( Ví dụ như lãi suất ngân hàng, mức phí bảo
hiểm…); phân chia khu vực ảnh hưởng và thậm chí còn ép các đơn vị không phải là
thành viên phải tuân thủ những quy định HCCT này.
Sự thỏa thuận ở mức độ tương đối cao giữa các doang nghiệp trong các hiệp hội
ở Việt Nam hiện nay đã ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng nói riêng và toàn xã
hội nói chung. Mức độ tác hại của sự thỏa thuận giữa các doanh nghiệp hoàn toàn giống
như tác động tiêu cực của tập đoàn kinh tế, đặc biệt là ở việc lạm dụng vị thế độc quyền
trong việc nâng giá hoặc làm giảm chất lượng sản phẩm trong trường hợp giá phải chịu
sự quản lý của nhà nước.
2.4. Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua,
bán hàng hóa dịch vụ
Đây là loại thỏa thuận trong đó các bên thống nhất cắt, giảm số lượng, khối lượng
sản xuất mua bán hàng hóa cung ứng dịch vụ trên thị trường hoặc thống nhất ấn định
lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ ở mức đủ để tạo khan
6


hiểm trên thị trường. Việc kiểm soát hay hạn chế này thường làm bóp méo nguồn cung
trên thị trường, tạo sự khan hiếm giả tạo và đẩy hàng hóa lên cao, gây thiệt hại cho
người tiêu dùng, hành vi thỏa thuận này bị cấm triệt để theo pháp luật của các nước.
Ví dụ như vụ việc: Thời điểm năm 2003, các nhà sản xuất kinh doanh thuộc Hiệp
hội mía đường đã thống nhất ngừng cung ứng đường trong vòng một tháng. Theo lý
giải của Hiệp hội này thì hành vi này không tạo ra sự khan hiếm mà chỉ giảm lượng
cung đang vượt quá cầu và việc ngừng cung ứng đường sẽ chấm dứt khi các doanh
nghiệp thương mại đẩy mạnh tiêu thụ hết số đường đang nắm giữ và nâng giá bán lên
mức hợp lý. Tuy nhiên đến đầu năm 2004 dù có sự tăng đột biến về nhu cầu tiêu thụ
khiến chi giá đường trên thị trường tăng mạnh nhưng hiệp hội mía đường vẫn tiếp tục
yêu cầu các thành viên giảm sản lượng, lý do đưa ra là nhằm ngăn chặn hành vi nhập
lậu đường trái phép trong tương lai khi mà ngành bị thiếu hụt về lượng cung.
2.5.Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua,

bán hàng hóa dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng
Nhằm giảm sức ép cạnh tranh các doanh nghiệp có thể cùng nhau thỏa thuận
trước các điều kiện hay điều khoản tiêu chuẩn sẽ được áp dụng khi mua bán hàng hóa
dịch vụ; các hiệp hội cũng có thể áp đặt các thành viên của mình nghĩa vụ phải sử dụng
các điều khoản mua bán chung được hiệp hội xác định trước. Những điều khoản tiêu
chuẩn này thường được coi là có tác dụng hạn chế cạnh tranh đáng kể trừ khi các bên
liên quan vẫn có quyền tự do lựa chọn việc có áp dụng những tiêu chuẩn này hay không
trong từng hợp đồng cụ thể.
2.6. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia
thị trường hoặc phát triển kinh doanh và thỏa thuận loại bỏ khỏi thị
trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận
Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận
hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức: Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng
của mình không mua, bán hàng hóa, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không
tham gia thảo thuận…Loại thỏa thuận này được áp dụng với các doanh nghiệp đang
muốn gia nhập thị trường hoặc phát triển kinh doanh không phải là các bên của thỏa
thuận bằng cách tẩy chay hoặc phong tỏa mạng lưới phân phối, tiêu thụ hoặc nguồn
cung cấp hàng hóa dịch vụ của mình…nhằm ngăn chặn các doanh nghiệp khác gia nhập
7


thị trường hoặc mở rộng thị phần. Điển hình có một vụ việc xảy ra ở Quảng Ngãi: Công
ty Mai Linh khai trương tuyến xe khách chất lượng cao Quảng Ngãi-Đà Nẵng, 26 chủ
xe thuộc năm HTX vận tải ở Quảng Ngãi đã đồng loạt phản đối, không cho xe khách
chất lượng cao Mai Linh tham gia đưa rước khách tuyến Quảng Ngãi-Đà Nẵng. Sau đó,
26 chủ xe trên cùng ký tên vào đơn kiến nghị, cho rằng việc Sở GTVT Quảng Ngãi cấp
phép cho Công ty Mai Linh tham gia đưa rước khách tuyến Quảng Ngãi-Đà Nẵng là bất
hợp lý, dẫn tới việc “bóp chết” họ vì họ không thể cạnh tranh với xe Mai Linh.Tỉnh

Quảng Ngãi đã đề nghị Công ty Mai Linh tạm ngừng hoạt động từ ngày 11-3 và tổ chức
hai cuộc họp. Trong cuộc họp chiều ngày 18-3, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi
Nguyễn Xuân Huế kết luận: Sở GTVT Quảng Ngãi cấp phép cho Công ty Mai Linh
tham gia đưa rước hành khách tuyến Quảng Ngãi-Đà Nẵng là hoàn toàn đúng quy định.
Ông Huế yêu cầu 26 chủ xe không được ngăn cản hoạt động của xe Mai Linh. Thay vì
cản trở xe Mai Linh thì các chủ xe nên tập trung vào việc nâng cao chất lượng phương
tiện và cung cách phục vụ để cạnh tranh7.
2.7. Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc
cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
TTHCCT ở Việt Nam trong thời gian quan đã diễn ra không chỉ dưới hình thức
thỏa thuận theo chiều ngang mà còn có cả hình thức thỏa thuận theo chiều dọc. Hiện
tượng đấu thầu khép kín đã trở thành một chủ đề “nóng” và đã được khẳng định là một
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ
bản ở nước ta. Người bị hại trong những thông đồng đấu thầu không chỉ là nhà nước mà
trước hết là các doang nghiệp kinh doanh đúng đắn, lấy tiêu chí là chất lượng tốt nhất
với chi phí thấp nhất, sau đó là lợi ích của toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Về bản chất, hiện tượng thông đồng đấu thầu là một sự thỏa thuận theo chiều
dọc. Mức độ tác hại đến nền kinh tế là ở chỗ, đó không những là sự thảo thuận giữa các
doanh nghiệp với nhau mà còn là sự thảo thuận giữa DN với cơ quan nhà nước tạo
thành một sự đấu thầu khép kín. Khi trao đổi với báo chí Bộ trưởng Kế hoạch đầu tư –
Võ Hồng Phúc nói: “ …như các công trình xây dựng cơ bản trong lĩnh vực giao thông
hoàn toàn khép kín trong Bộ giao thông vẫn tải, bên ngoài chẳng ai biết cả, toàn bộ quá
trình thực hiện dự án, từ khảo sát, thiết kế, thi công, giám sát đều thuộc bộ giao thông
vận tải, chủ đầu tư cũng thuộc giao thông vân tải”. Những hiện tượng tương tự nêu trên
không chỉ xảy ra ở Bộ giao thông vận tải mà còn ở nhiều bộ khác, nó đã có tác động
7

Theo Báo Pháp Luật TP.HCM đưa tin, vào sáng ngày 30/3/2009.

8



tiêu cực đến môi trường cạnh tranh của nước ta trong lĩnh vực xây dựng cũng như các
lĩnh vực khác của toàn bộ nền kinh tế.
Hậu quả của đấu thầu khép kín dẫn đến tỷ lệ thất thoát là bao nhiêu? Về vấn đề
này sẽ không có câu trả lời chính xác, song có thể dựa váo một số báo cáo để xem xét:“
Thanh tra nhà nước năm 2002 đã tiến hành thanh tra 17 dự án có tổng mức đầu tư là
9.385 tỷ đồng, tổng giá trị vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra là 6.407 tỷ đồng. TỔng
số sai phạm về tài chính phát hiện ở 17 dự án là 871 tỷ đồng chiếm 13.6%.8
Năm 2003 đã thanh tra 14 dự án lớn với tổng mức đầu tư là 8.193 tỷ đồng, trong dó giá
trị vốn đầu tư được thanh tra là 6.950 tỷ đồng. Qua thanh tra đã phát hiện ra nhiều sai
phạm về kinh tế do làm trái các quy định của nhà nước là 1.235 tỷ đồng, chiếm 19%
Các địa phương đã tiến hành thanh tra 2.138 dự án, công trình với tổng mức giá trị vốn
đầu tư được thanh tra là 4.685 tỷ đồng, đã phát hiện sai phạm và kiến nghị xử lý 136 tỷ
đồng, khoảng 2.9%
Qua số liệu kiểm toán nhà nước năm 2002, 2003 và đầu năm 2004 cho thấy, trong 648
dự án với giá trị khoảng 6.000 tỷ đồng có sai sót 159 tỷ đồng, chiếm 2,6 % giá trị kiểm
toán”.
“ Đấu thầu khép kín”là một hiện tượng đặc biệt, có thể nói đây là sản phẩm của
cơ chế bảo vệ nguồn vốn ngân sách. Thực trạng này không những làm ảnh hưởng
nghiệm trọng đến môi trường cạnh tranh, lãng phí nguồn nhân lực của nhà nước và xã
hội mà nguy hiểm hơn, nó còn tọa điều kiện để hình thành những mầm mống quan hệ
bất chính giữa cơ quan quản lý nhà nước và các DN, từ đó xuất hiện nhóm thế lực ngầm
trong hoạt động kinh doanh.
Nếu như hình thức đấu thầu khép kín như trên thường được sử dụng ở những dự án có
quy mô lớn sử dụng hơn 30% vốn ngân sách nhà nước và phải công khai ở mức độ cao
thì ở các dự án có quy mô nhỏ hơn thường xuất hiện hình thức thỏa thuận giữa các nhà
thầu là các DN định ra người thắng thầu hoặc làm sai lệch giá trúng thấu, đẩy sát lên
trần giá. Đây là một hình thức thảo thuận theo chiều ngang liên kết nhằm loại bỏ đối
thủ, hình thức tiêu cực này tạo nên trên thực tế không ít các trường hợp đấu thầu, tranh

thầu chỉ là hình thức, các bên dự thầu đã tự dàn xếp với nhau thông thầu từ trước. “
Theo thanh tra Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn có một dự án, đoàn thanh tra
phát hiện ra 5 hồ sơ dự thầu giống nhau về lời lẽ, lời lẽ, thậm chí giống nhau cả trong
việc sai lỗi chính tả…”. Phát triển nền kinh tế thị trường, vì nhu cầu cạnh tranh trong
việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ mới có đấu thầu, thành quả lớn nhất mà quy luật cạnh
8

Tạp chí Thanh tra Việt Nam ngày 18/5/2002

9


tranh đem lại cho xã hội là người tiêu dùng luôn luôn được hưởng hàng hóa với giá rẻ,
dịch vụ chất lượng tốt nhất với chi phí hợp lý, DN cạnh tranh luôn luôn phải vận động
cải tiến công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng và
xã hội. Một trường hợp khác nữa: Sự việc diễn ra vào cuối năm 2003 , khi công ty supe
phốt phát và hóa chất Lâm Thao công bố mời dự thầu thanh lý 4 lô tài sản cố định. Có
98 doanh nghiệp và cá nhân ở nhiều tỉnh thành phía Bắc đăng ký tham gia dự thầu.
Trong vụ đấu thầu này 14 hộ kinh doanh cá thể ở Văn Môn cùng nhau liên kết bằng
cách bầu ra hai người đứng ra “ làm cái” trong vụ đấu thầu này vừa tham gia vụ liên
minh lại vừa tham gia bỏ thầu như một đại diện bỏ thầu với giá thấp nhất để cho các
nhà cái trúng thầu.Họ cam kết với nhau nếu trúng thầu thì tất cả mọi người sẽ tham gia
làm chung.
2.8. Thực trạng hoạt động thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở một số nước trên
thế giới
Tương tự như luật cạnh tranh của nhiều nước, luật chống độc quyền của Nhật
Bản cấm các thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh cùng phối hợp hoạt động để hạn
chế cạnh tranh, bao gồm các loại hợp đồng, thỏa thuận, các hành vi phối hợp hoạt động
để chi phối giá cả, hạn chế sản lượng, công nghệ phát triển sản phẩm, phân chia thị
trường,khách hàng,thông đồng trong bỏ thầu hoặc tẩy chay các đối tượng khác.

Dưới đây là một ví dụ về việc hai doanh nghiệp đã có hành vi TTHCCT:
Công ty phát thanh cáp Atys và cáp Seco Nhật Bản
Công ty phát thanh cáp Atys và công ty phát thanh cáp Seco, là hai nhà cung cấp hệ
thống cáp duy nhất tại một địa phương ở Nhật Bản. Họ thương thu phí sử dụng truyền
hình cáp của người dân địa phương là 300 yên/ tháng và những người dân ngoài địa
phương là 400- 500 yên/tháng. Tuy nhiên từ giữa năm 2003, Atys và Seco đã cùng gửi
thư đến những người sử dụng dịch vụ của họ để thông báo về việc tăng phí. Cả hai
thừa nhận là do chi phí giữa họ nên cả hai đều phải chịu thua lỗ.
Vì vậy, Atys và Seco đã thỏa thuận với nhau và chấm dứt cạnh trnah về giá và xóa bỏ
việc giảm giá cho những người sử dụng cư trú ở các khu nhà ở và các khu liên hợp.
Hai bên cũng nhất trid là sẽ điều chỉnh giá dịch vụ. Theo quyết định Ủy ban cạnh tranh
Nhật Bản, Atys và Seco bị yêu cầu chấm dứt việc thực hiện hành động trên. Đối với
trách nhiệm hình sự của họ, vụ việc này sẽ được chuyển cho công viên để điều tra thêm.

10


Vụ việc của Atys và Seco là một dấu hiệu cảnh báo đối với các doanh nghiệp muốn
dùng cách “ thông đồng” để thu lợi nhuận lớn ngay trước mắt thay vì sử dụng chính
năng lực cạnh tranh và khả năng thực tế của mình để thu hút khách hàng9
-Mỹ là một nước mà chủ nghĩa tư bản đã có bước phát triển nhanh trong thế
kỷ XIX. Sự tích tụ tư bản dưới hình thức Tơrớt đã làm cho một số nghành công
nghiệp ở Mỹ như sắt thép, đường,thuốc lá… rơi vào những tập đoàn tư bản lớn.Sự
lạm dụng vị thế của những tập đoàn này trên thị trường vào cuối thế kỷ XIX làm
cho người dân Mỹ
họ đã gây sức ép để cho nhà nước phải ban hành những đạo luật chống Tơrớt. 10
Trên thực tế hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Mỹ theo luật Sherman là
nghiêm cấm mọi hành vi ngăn cản thương mại theo chiều ngang và chiều dọc. Theo
chiều ngang, các thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh về những khía cạnh, cạnh tranh
quan trọng như giá cả và sản lượng có thể được coi là phạm pháp và phải chị hình phạt

rất nặng về tiền hoặc bỏ tù.Tác động thực tế hoặc sự hợp lý của giá cả hoặc phân chia
thị trường được thỏa thuận không được chấp nhận là lý do cho thỏa thuận chiều ngang.
Bản thân của các thỏa thuận này là vi phạm pháp luật.

3. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TTHCCT
3.1. Nguyên nhân
Qua những vụ việc này, nguyên nhân dẫn đến vi phạm cạnh tranh đa phần đều do
các doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận, bất chấp pháp luật và không từ thủ đoạn để
chống phá các doanh nghiệp khác. Ngoài ra, còn do kiểu kinh doanh độc quyền, mà
không ít các nhà doanh nghiệp lớn đã ngang nhiên phá giá, chèn ép người tiêu dùng và
các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác.
Trên thực tế, Luật Cạnh tranh chưa thực sự đi vào cuộc sống bởi sự hiểu biết về
Luật Cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn nhiều hạn
chế do họ thiếu chuyên gia có kiến thức về luật. Hơn nữa, vì chưa nhận thức đúng, nên
doanh nghiệp “ngại va chạm”, “ngại can dự vào các vấn đề liên quan đến pháp lý”, dẫn
đến việc sử dụng không hiệu quả công cụ Luật Cạnh tranh để bảo vệ quyền lợi của
9

Theo Cục quản lý cạnh tranh Việt Nam về kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc quản lý kiểm soát hành vi hạn chế cạnh
tranh
10
Mở đầu bằng đạo luật Sherman năm 1890 luật Clayton năm 1914 hai luật cơ bản cho chính sách chống Tơrớt của
Mỹ.

11


mình. Nhiều khi doanh nghiệp này biết doanh nghiệp khác vi phạm Luật Cạnh tranh,
ảnh hưởng đến lợi ích của mình, nhưng đành nhắm mắt cho qua mà không dám khởi
kiện. Bởi nếu khởi kiện, họ phải tự thu thập tài liệu, chứng minh các vấn đề liên quan...

để chứng minh có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hạn chế cạnh tranh.
Bên cạnh đó, cũng rất khó để các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện và áp dụng
tốt Luật cạnh tranh. Hơn nữa tính độc lập của các cơ quan như Cục Quản lý Cạnh tranh,
Hội đồng Cạnh tranh vẫn chưa rõ ràng, ngay cả tên tuổi của những thành viên trong Hội
đồng Cạnh tranh cũng chưa được doanh nghiệp biết đến nhiều...
3. 2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ nhất: Nên có sự phân biệt giữa thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc, bởi 2
thỏa thuận này có sự khác nhau về bản chất mà mức độ gây hại của từng hành vi đối
với thị trường. Thỏa thuận ngang là dạng thỏa thuận được thực hiện giữa các chủ thể
với tư cách là đối thủ của nhau trên thị trường liên quan.
Thứ hai, về lý luận cũng như trên thực tế, không nên coi thị phần là căn cứ duy
nhất để kết luận một hành vi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hợp pháp hay bất hợp
pháp như hiện nay. Bởi lẽ thông thường một doanh nghiệp có thể kinh doanh nhiều
ngành nghề khác nhau cho nên cùng một lúc doanh nghiệp đó cũng tham gia vào nhiều
thị trường liên quan khác nhau và trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh một vụ việc chỉ
được xem xét trong một thị trường liên quan.
Thứ ba, cần quy định một chế tài riêng cho loại hành vi đấu thầu thông đồng để
phù hợp với thông lệ quốc tế và nhằm ngăn chặn những tác hại tiêu cực của nó đối với
nền kinh tế, có thể nói hiện tượng thông đồng đấu thầu ở Việt Nam trong thời gian quan
diễn biến rất phức tạp, đặc biệt đối với những dự án có quy mô lớn; vậy cần có những
quy định chế tài riêng cho các loại hành vi Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này.
3.2.2. Tổ chức quản lý nhà nước về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thứ nhất, thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của
đội ngũ cán bộ, công chức trong Cục quản lý cạnh tranh. Ngoài ra cần bổ sung đầy đủ
cán bộ cho bộ máy tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh, bên cạnh đó việc trau dồi và
nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức cho các cán bộ trong Cục cũng là điều
hết sức quan trọng.
12



Thứ hai, Cần nâng cao vị trí pháp lý của các cơ quan quản lý, trao cho các cơ
quan này các quyền lực phù hợp tạo đối trọng với quyền lực kinh tế trên thị trường các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Thứ ba , xây dựng chương trình giảng dạy và kế hoạch tiếp cận thực tiễn về pháp
luật cạnh tranh trong các trường Đại học, cao đẳng thuộc ngành kinh tế và Luật, đồng
thời phối hợp chặt chẽ với các Viện nghiên cứu có lên quan về chính sách kinh tế và
pháp luật.
3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ nhất, cần phải đảm bảo nguyên tắc độc lập trong hoạt động của các cơ quan
quản lý cạnh tranh, công việc của các cơ quan quản lý cạnh tranh có thể ảnh hưởng sâu
sắc đến lợi ích của các chủ thể kinh doanh cũng như lợi ích của người tiêu dùng và của
toàn xã hội. Để làm được điều này, trước hết phải bắt đầu từ cơ chế trao quyền lực, cơ
quan quản lý cạnh tranh phải hoạt động độc lập theo nguyên tắc của Tòa án.
Thứ hai, cần phải xác định nguồn thông tin để phục vụ cho công tác quản lý, hiện
này hệ thống thông tin và nguồn thông tin chưa thực sự đầy đủ và chính xác chưa đáp
ứng được nhu cầu công tác của Cục quản lý cạnh tranh. Vì vậy cần thiết phải có sự liên
hệ chặt chẽ giữa cơ quan thông tin đại chúng với các tổ chức hiệp hội, đặc biệt là hiệp
hội người tiêu dùng.
Thứ ba, cần xây dựng một cơ chế đảm bảo tính khoa học, công bằng và khách
quan cho quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Do vậy cùng với việc kiện toàn bộ máy
cơ quan Cục quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh thì việc tiếp tục hoàn thiện hệ
thống Tòa hành chính ở Việt Nam là hết sức quan trọng nhằm góp phần bảo vệ môi
trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.

KẾT LUẬN
Việc tìm hiểu về thực trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam đã góp
phần điều chỉnh nhận thức của các doanh nghiệp trong việc sản xuất, kinh doanh, tuân
thủ các quy định của luật pháp, đảm bảo lợi ích người tiêu dùng; mặt khác thu hút sự
quan tâm đặc biệt của giới doanh nghiệp nước ngoài đang và dự định hoạt động tại Việt

Nam.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật cạnh tranh, Nxb, CAND,
2011
2. Luật số 27/2004/QH11 ngày 3/12/2004 về cạnh tranh
3. Nghị định của Chính phủ số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định
chi tiết thi hành một số điều Luật cạnh tranh
4. Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh số 14/QĐ-HĐXL ngày
29/7/2010 về xử lý vụ việc cạnh tranh số KNCT- HCCT- 0009
5. VCC - www.hoidongcanhtranh.gov.vn
6. EU-Viet Nam MUTRAP III - www.mutrap.org.vn
7. Tạp chí Thanh tra Việt Nam ngày 18/5/2002
8. Báo Pháp Luật TP.HCM đưa tin, vào sáng ngày 30/3/2009.
9. />
14



×