Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài tập học kì môn Luật Hành Chính Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.93 KB, 12 trang )

Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam

MỤC LỤC
NỘI DUNG
A. Đặt vấn đề…………………………………………………..
B. Giải quyết vấn đề…………………………………………
I) Các khái niệm liên quan………………………………………
II) Thẩm quyên xử phạt vi phạm hành chính và tính hợp lí của thẩm

TRANG
1
1
1
2

quyền xử phạt vi phạm hành
chính…………………………………………………………….
1) Thẩm quyền xử lí vi phạt vi phạm hành chính…………..
2
2) Đánh giá tính hợp lý của thẩm quyền xử phạt vi phạm hành 3
chính…………………………………………………………………..
III) Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và tính hợp lí của thủ tục 5
xử phạt vi phạm hành chính…………………………………
1) Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính……………………..
1.1) Thủ tục đơn giản………………………………………..
1.2) Thủ tục lập biên bản……………………………………..
2) Đánh giá tính hợp lí của thủ tục xử phạt vi phạm hành

5
6
6


7

chính………………………………………………………………….
IV) Hướng hồn thiện…………………………………………......9
C) Kết thúc vấn đề………………………………………….....
10

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Vi phạm hành chính là loại vi phạm xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội.
Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn tội phạm nhưng vi phạm hành chính
Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 1


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, tập thể, cá nhân
và cộng đồng. Chính vì vậy khi cá nhân hay tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành
chính thì Nhà nước buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định cụ thể là áp
dụng các biện pháp xử lí vi phạm hành chính nhằm mục đích khơi phục trật tự pháp luật
bị xâm hại. Để áp dụng các biện pháp đó một cách nhanh chóng, kịp thời có tính giáo
dục pháp luật đã quy định thẩm quyền và thủ tục xử lý vi phạm hành chính. Trong bài
tập học kỳ lần này em đã chọn đề tài " Đánh giá về tính hợp lí của pháp luật về thẩm
quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính".
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I) Khái niệm.
Vi phạm hành chính: là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc
vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lí nhà nước mà khơng phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành chính
Như vậy, khi đã vi phạm hành chính thì phải chịu trách nhiệm hành chính, bị truy

cứu trách nhiệm hành chính về hành vi vi phạm của mình và phải bị xử phạt vi phạm
hành chính. Vậy xử phạt vi phạm hành chính là gì?
Xử phạt vi phạm hành chính: là hoạt động của các chủ thể thẩm quyền, căn cứ
vào các quy định của pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác ( trong trường hợp cần
thiết, theo quy định của pháp luật) đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
Như vậy, việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành bởi các chủ thể có
thẩm quyền và tuân theo thủ tục nhất định. Tuy nhiên hiện nay trong văn bản quy phạm
pháp luật hành chính chưa có một văn bản định nghĩa thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính là gì? Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính là gì? Mà chỉ liệt kê những chủ
thể nào có thẩm quyền xử phạt và có những thủ tục xử phạt nào.
Để đánh giá tính hợp lí của thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính chúng
ta cần đề cập đến xem vấn đề đó có phù hợp với tình hình phát triển kinh tế- xã hội
khơng? Phù hợp với tình hình quản lí hành chính nhà nước hiện nay khơng? Và đặc biệt
là có khả năng áp dụng vào thực tế hay không là vấn đề rất quan trọng.
II) Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và tính hợp lí của thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính.
1) Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 2


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
Theo Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002( Đã được sử đổi, bổ sung năm
2007,2008) thì thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính được quy định tại các Điều từ 28
đến 40 trong Pháp lệnh bao gồm các chức danh có thẩm quyền xử phạt.
Thứ nhất: các chức danh có thẩm quyền chung, theo quy định của Pháp lệnh xử
lí vi phạm hành chính thì các hành vi vi phạm hành chính xảy ra trong các lĩnh vực
quản lí Nhà nước ở địa phương do Chủ tịch Uỷ ban nhân nhân( UBND) có thẩm quyền

ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính xảy ra trên mọi lĩnh vực trong phạm
vi một địa phương mình quản lí, Pháp lệnh cũng quy định mức xử phạt ở mỗi cấp là
khác nhau.
VD: Đối với phạt tiền, theo Pháp lệnh sửa đổi bổ sung 2008 thì Chủ tịch UBND cấp xã
có thẩm quyền phạt tiền đến 2.000.000 đồng, Chủ tịch UBND cấp huyện là 30.000.000
đồng và Chủ tịch UBND cấp tỉnh phạt tối đa là 500.000.000 đồng.
Thứ hai: các chức danh có thẩm quyền chun mơn các hành vi vi phạm xảy ra
trên các lĩnh vực của các cơ quan quản lí nhà nước chun ngành thì sẽ do các chức
danh có thẩm quyền của từng cơ quan đó xử lí.
Thẩm quyền trong xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan, bao gồm
các chức danh như: Đội trưởng đội nghiệp vụ thuộc Chi cục Hải quan, Cục trưởng cục
Hải quan, Cục trưởng cục điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan. Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung 2008 quy định thêm Cục trưởng cục kiểm tra sau thơng quan của Tổng
cục Hải quan có thẩm quyền quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi
vi phạm trong lĩnh vực Hải quan
Trong lĩnh vực kiểm lâm bao gồm các kiểm lâm viên, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm
thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt đối với những hành vi phạm trong lĩnh vực
kiểm lâm.
Trong lĩnh vực thuế, bao gồm nhân viên thuế vụ đang thi hành công vụ, Trạm
trưởng trạm thuế , Đội trưởng đội thuế, Chi cục trưởng chi cục thuế Cục trưởng cục
thuế có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt vi phạm trong lĩnh vực thuế.
Các chức danh kiểm sốt thị trường, Đội trưởng đội quản lí thị trường, Chi cục
trưởng cục quản lí thị trường, Cục trưởng cục quản lí thị trường có thẩm quỳên ban
hành quyết định xử phạt đối với các hành vi phạm trong lĩnh vực quản lí thị trường.
Như vậy, thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực chuyên môn tương đối rộng. Với mỗi chức danh thể hiện quyền hạn của mỗi
Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 3



Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
chức năng đó trong quản lí nhà nước .đánh giá thêm, rút ra nhận xét về tác dụng của
việc quy định cụ thể, chi tiết
Thứ ba: Các chức danh khác được trao quyền xử phạt hành chính, theo quy định
của Pháp lệnh thì bao gồm các chức danh như: Bộ đội biên phịng, Giám đốc cảng vụ
hàng khơng, Giám đốc cảng vụ thuỷ nội địa, Giám đốc cảng hàng hải, Thẩm phán chủ
toạ phiên toà, chấp hành viên thi hành án, Đội trưởng đội thi hành án dân sự.
Có thể nói các chức danh có thẩm quyền xử phạt đã bao quát tương đối đầy đủ
trong các lĩnh vực quản lí từ cấp xã, phường, thị trấn; huyện, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để đảm bảo nguyên tắc không một
hành vi vi phạm nào xảy ra mà khơng bị xử phạt, từ đó nâng cao trong cơng tác quản lí.
( sửa phần nhận xét này cho sâu hơn tí nữa)
2) Đánh giá tính hợp lí về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Như vậy việc quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính rất rộng, việc
quy định này mang lại một sự hợp lý nhất định được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Dựa trên sự phát triển kinh tế- xã hội ngày càng nhanh chóng, Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002( đã được sửa đổi, bổ sung 2007, 2008) được ban
hành là hết sức kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế với mong muốn, nguyện vọng
của nhân dân. Pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật ban hành trong lĩnh vực
này đã từng bước tạo ra một khung pháp lí tương đối hồn chỉnh về xử phạt vi phạm
hành chính, góp phần tích cực vào việc lập lại trật tự, kỷ cương trong quản lí hành chính
nhà nước nói chung và trên các lĩnh vực cụ thể nói riêng.
Trong đó việc quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã có sự mở
rộng thêm cho nhiều cơ quan, thủ trưởng các cơ quan và tăng mức phạt nên tạo nên tính
hợp lí trong thẩm quyền xử phạt.
Thứ hai: quy định thẩm quyền phù hợp với yêu cầu của quản lí hành chính:
-Việc quy định như trên đã tránh việc chuyển hồ sơ lên các cấp trên, giảm được
sự phức tạp của thủ tục và thời gian xem xét, tránh được sự lãng phí thời gian của cá
nhân và xã hội. Phù hợp với điều kiện xã hội phát triển mạnh mẽ ngày nay, đặc biệt là

trong cơng cuộc cơng nghiệp hố- hiện đại hoá của đất nước và sự hội nhập với các
nước trên thế giới thì đây là một bước tiến quan trọng .
Ví dụ: trước đây trong pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 1995 quy định Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân( UBND) xã, phường, thị trấn có thẩm quyền phạt tiền đến
Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 4


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
200.000 đồng và tịch thu tang vật đến 500.000 đồng,nên nhiều vụ việc phải chuyển lên
cấp trên mặc dù chỉ là 300.000 đồng làm mất nhiều thời gian, hiện nay Chủ tịch UBND
xã có thẩm quyền phạt 2.000.000 đồng.
-Vi phạm hành chính xảy ra nhiều ở mọi lúc, mọi nơi với số lượng lớn, do vậy là
sẽ quá tải nếu chỉ trao quyền xử phạt cho một vài cơ quan, nên việc trao thẩm quyền xử
phạt rộng hơn là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, sẽ giảm bớt được gánh nặng cho các
cơ quan có thẩm quyền chung như UBND các cấp.
Ví dụ: Việc quy định Bộ đội biên phịng có thẩm quyền xử phạt là rất phù hợp
với tình hình bn lậu hiện nay ngày càng gia tăng và mức xử phạt đã tăng lên.
-Thẩm quyền rộng và được chia ra theo ngành và theo lãnh thổ nhằm đảm bảo
những mục tiêu nhất định đề ra tránh sự chồng chéo, trùng lặp trong việc xử phạt vi
phạm hành chính.
Việc quản lí theo lãnh thổ, cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo tính tồn diện
trong xử phạt vi phạm hành chính, có thể ngăn chặn được tất cả các hành vi phạm hành
chính xảy ra trong phạm vi địa giới hành chính của mình.
Các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm theo ngành hướng tới mục đích đấu
tranh chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực mình quản lí.
Sự phân định thẩm quyền chính là cơ sở pháp lý quan trọng để Chính phủ quy
định chi tiết về thẩm quyền xử phạt hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể để các cơ
quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử phạt trong phạm vi của mình. Việc phân định

thẩm quyền như trên xuất phát từ yêu cầu " phân cấp" trong quản lí hành chính nhà
nước, chính sự chuyển giao quyền lực từ cơ quan quản lí cấp trên xuống cấp dưới, từ
trung ương xuống địa phương. Đây là sự phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mỗi cơ quan hành chính nhà nước, tránh sự chồng chéo, lẫn lộn trong xử phạt
hành chính.
Thứ ba phù hợp với tình hình phát triển khách quan của xã hội: mức phạt tiền
của một số chủ thể cũng đã tăng lên đáng kể. Ví dụ: Chủ tịch UBND huyện, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh là 30.000.000 đồng, của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương là 500.000.000 đồng, đã thể hiện mức độ răn đe và sự nghiêm minh
của pháp luật hiện hành,phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay,nhằm hạn chê vi
phạm hành chính xảy ra.

Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 5


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
Chính vì vậy việc pháp luật quy định thẩm quyền như trên là hồn tồn có thể
áp dụng được vào thực tế của quản lí hành chính nhà nước, đây là một điều rất khả
quan đáp ứng trong tình hình đất nước phát triển và cải cách bộ máy hành chính hiện
nay.
Tuy nhiên hiện nay trong việc quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
như vậy vẫn có những điểm chưa hợp lí như sau:
Thứ nhất: Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 đã được sửa đổi bổ
sung 2007, 2008 đã liệt kê cụ thể các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính nhưng đây là một điểm khơng hợp lí vì khi các cơ quan chuyên ngành mới được
thành lập, xuất hiện nhu cầu bổ sung chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính. Tuy nhiên Pháp lệnh thì khơng thường xuyên sửa đổi bổ sung được.
Thứ hai: các quy định hiện hành về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chưa

thực sự gắn với hành vi hoặc nhóm hành vi nhất định. Hạn chế này khiến các chức danh
có thẩm quyền xử phạt trong ngành có phạm vi quản lí bao gồm nhiều lĩnh vực rất lúng
túng trong xác định thẩm quyền vụ việc cụ thể.
Thẩm quyền xử phạt của các chức danh cơ sở được quy định khá thấp và phần
lớn họ không được áp dụng các hình thức phạt bổ sung cũng như các biện pháp khắc
phục hậu quả, và phải chuyển lên cấp trên gây ra tình trạng quá tải của cơ quan cấp trên.
III) Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và tính hợp lí của thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính.
1)Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính cũng là hoạt động của Nhà nước nên hoạt động này
cũng phải tuân theo thủ tục do pháp luật quy định. Hơn nữa, xử phạt vi phạm hành
chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các chủ thể nhất định nên thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính khơng chỉ đảm bảo cho hoạt động quản lí nhà nước mà cịn
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể. Xuất phát từ nguyên tắc :" Mọi
vi phạm hành chính phải được phải được phát hiện kịp thời và bị đình chỉ ngay. Việc xử
lí vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, cơng minh, triệt để..." và "
Việc xử lí vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân
người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện
pháp xử lí thích hợp" Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm2002 đã sửa đổi, bổ sung

Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 6


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
năm 2007, 2008 quy định hai thủ tục xử lí vi phạm hành chính là thủ tục đơn giản và
thủ tục lập biên bản như sau:
Đầu tiên đối với cả hai thủ tục xử phạt thì đều phải đình chỉ hành vi phạm hành
chính.

1.1) Thủ tục đơn giản.
Gọi là thủ tục đơn giản vì theo thủ tục này,khi phát hiện hành vi vi phạm hành
chính,người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt ngay. Điều kiện để áp dụng
thủ tục này là:
- Hành vi vi phạm hành chính bi xử phạt cảnh cáo
- Phạt tiền từ 10.000- 200.000 đồng.
- Nhiều hành vi vi phạm hành chính do một người thực hiện mà hình thức xử
phạt đối với hành vi này đều phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000- 200.000 đồng đối
với cá nhân, tổ chức bi xử phạt có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền.
1.2) Thủ tục lập biên bản.
Trường hợp xử phạt theo thủ tục có lập biên bản khi phát hiện vi phạm hành
chính thuộc lĩnh vực của mình quản lí thì người có thẩm quyền xử phạt đang thi hành
cơng vụ kịp thời lập biên bản theo quy định tại Điều 55- Pháp lệnh xử lí vi phạm hành
chính 2002 sửa đổ bổ sung 2008. Biên bản lập xong phải được giao cho cá nhân, tổ
chức vi phạm một biên bản. Nếu mức phạt vượt quá thẩm quyền xử phạt thì người lập
biên bản phải gửi lên người có thẩm quyền xử phạt.
Thủ tục này khác thủ tục đơn giản ở chỗ, khi phát hiện hành vi vi phạm người có
thẩm quyền xử phạt khơng ra quyết định xử phạt ngay mà lập một biên bản vi phạm
hành chính, sở dĩ phải lập biên bản vì;
- Hành vi vi phạm phức tạp nên trong thời gian ngắn( ngay khi phát hiện vi
phạm) và với những biểu hiện bên ngoài của hành vi được nhận biết một cách trực tiếp
thường không đủ để đánh giá chính xác các loại vi phạm, tính chất, mức độ của vi phạm
khơng thể ra quyết định xử phạt ngay. Trong khi đó xử phạt vi phạm hành chính phải
đúng người, đúng vi phạm nên việc ghi lại các sự kiện,hiện tượng, tình tiết, số liệu liên
quan đến vi phạm làm căn cứ để sau đó xử phạt là cần thiết.
Hành vi vi phạm hành chính được phát hiện nhưng người phát hiện không đủ
thẩm quyền xử phạt lại khơng có mặt tại hiện trường chứng kiến hành vi vi phạm xảy ra

Nguyễn Ngọc Lam – 352506


Page 7


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
nên cần lập biên bản để cung cấp thông tin cho người có thẩm quyền ra quyết định xử
phạt.
2) Đánh giá tính hợp lí của thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Việc quy định hai thủ tục xử phạt hành chính tạo nên sự linh hoạt trong hoạt
động xử phạt vừa nhanh chóng, vừa chính xác trong những khả năng và điều kiện cho
phép. Các thủ tục hành chính hiện nay được rút gọn để phù hợp với tình hình vụ việc cụ
thể mà ở đây là sự kịp thời.
-Phù hợp với thực tế quản lí hành chính nhà nước rất phong phú đa dạng kịp
thời trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể các tình huống bất thường, khẩn cấp phát
sinh trong quản lí. Các ván đề cụ thể xảy ra đối với các đối tượng cụ thể, trong điều
kiện, hoàn cảnh xác định vấn đề, giải quyết vấn đề đó thường phải dựa trên những căn
cứ xác đáng liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức. Nếu khơng kịp
thời thì việc giải quyết thiếu chính xác, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đối tượng
liên quan, ý nghĩa kinh tế- xã hôi, tư tưởng và sự nghiêm minh của pháp luật bị suy
giảm.
- Phù hợp với thẩm quyền của từng cá nhân, tổ chức nhất định:Việc quy định
hai thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và người thi hành cơng vụ, cá nhân, tổ chức vi phạm.
Ví dụ: đối với hành vi điều khiển xe môtô vượt đèn đỏ, đi vào đường cấm, không đội
mũ bảo hiểm .... thì người có thẩm quyền xử phạt có thể quyết định ngay, cá nhân có
thể nộp phạt tại chỗ, vụ việc giải quyết nhanh chóng, đơn giản.
Như vậy việc quy định hai thủ tục xử phạt vi phạm hành chính mang lại những
thuận lợi to lớn trong việc giả quyết vi phạm hành chính, giảm bớt sự phiền hà trong thủ
tục hành chính nói chung và thủ tục xử phạt nói riêng, tiết kiệm thời gian của xã hội.
Như vậy các thủ tục xử phạt hành chính trên được pháp luật quy định cụ thể và có khả
năng áp dụng trên thực tế khá cao, bởi vì phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của

xã hội và nhu cầu quản lí xã hội của Nhà nước ta.
Tuy nhiên một vấn đề thì khơng thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, vấn đề
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính cũng khơng nằm ngồi quy luật. Những vấn đề
chưa hợp lí cụ thể là:
Thứ nhất: Về việc áp dụng thủ tục đơn giản, chúng ta đều biết điều kiện để áp
dụng thủ tục đơn giản là vi phạm phải đơn giản, rõ ràng ngay khi phát hiện vi phạm,
Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 8


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
người có thẩm quyền có thể ra quyết định xxử phạt ngayvà hình thức,mức phạtphải
thuộc thẩm quyền của người phát hiện vi phạm thì mới được ra quyết định tại chỗ,
khơng cần phải biên bản, lưu giữ thông tin chi tiết về vụ vi phạm.
Điều kiện mức phạt thuộc thẩm quyền của người phát hiện vi phạm hành chính,
mức phạt được xác định để áp dụng thủ tục đơn giản là mức phạt cụ thể áp dụng với
từng hành vi, trong khi đó mức phạt để xác định thẩm quyền xử phạt là mức cao nhất
của khung tiền phạt. Như vậy, sẽ có trường hợp mức phạt nằm trong giới hạn phạt theo
thủ tục đơn giản nhưng người phát hiện hành vi vi phạm lại khơng có thẩm quyền xử
phạt.
Ví dụ: Chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành nhiệm vụ phát hiện hành vi nào đó bị
phạt hành chính( khung phạt từ 150.000- 250.000 đồng) nếu khơng có tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ thì bị phạt 200.000 đồng, phạt theo thủ tục đơn giản nhưng mức cao
nhất của khung tiền phạt là 250.000 đồng nên không thuộc thẩm quyền của chiến sĩ
công an nhân dân.
Các hành vi vi phạm hành chính phải thuộc lĩnh vực quản lý của người xử phạt
mới được áp dụng thủ tục đơn giản, nên sẽ có trường hợp phát hiện ra mà khơng có
thẩm quyền xử phạt theo thủ tục đơn giản, mà chỉ có quyền đình chỉ theo Điều 53- Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 được sửa đổi bổ sung 2007,2008 như vậy sẽ

làm bở lọt vi phạm, điều này là rất vơ lý.
Thứ hai: Về người có thẩm quyền lập biên bản Căn cứ Điều 55 của pháp lệnh thì
phải thoả mãn những điều kiện thì người có thẩm quyền mới được lập biên bản: có
thẩm quyền xử phạt, đang thi hành công vụ, hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực quản lí của
người lập biên bản.
Những người có thẩm quyền là những người đựơc quy định từ Điều 29- 41 của pháp
lệnh này,phần lớn những người có thẩm quyền xử phạt thường khơng có mặt tại hiện
trường nên khơng có điều kiện lập biên bản và trên thực tế có những bất cập như: một
người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thuộc các lĩnh vực quản lí khác
nhau.
Ví dụ:một người săn bắt động vật rừng vào thời vụ cấm săn bắt, rồi đưa lên xe tải chở
đi tiêu thụ. Trên đường đi tiêu thụ vận chuyển chạy quá tốc độ nên bi cảnh sát giao
thơng giữ lại,khi đó hành vi săn bắt động vạt rừng mới bị phát hiện. Tuy nhiên, Canhr
sát giao thông chỉ có thẩm quyền lập biên bản với hành vi điều khiển xe ôtô chạy quá
Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 9


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
tốc độ còn việc săn bắt động vật rừng trái phép khơng thuộc thẩm quyền,nếu muốn lập
biên bản thì phải goi cơ quan Kiểm lâm hoặc chủ tịch UBND tới mới đúng thẩm quyền.
Như vậy, trường hợp này chỉ thêm phức tạp trong thủ tục xử phạt, không đem lại hiệu
quả cao.
Ví dụ: Hiện nay Bộ đội biên phịng phát hiện hành vi mang hàng hoá cấm
xuất,nhập khẩu qua biên giới nếu không lập biên bản ngay mà đợi cơ quan Hải quan
đến thì sẽ gây tẩu tán, tiêu huỷ phương tiện.
Thứ ba: Hiện nay chỉ quy định hai thủ tục xử phạt vi phạm hành chính là theo
thủ tục đơn giản và thủ tục lập biên bản, dẫn đến trong thực tế có những hành vi mà
khơng biết làm theo thủ tục nào.

Ví dụ: hành vi vi phạm hành chính có mức phạt trên 100.000 đồngnhưng xảy ra
quá lâu trong thực tế,khơng phải mọi hành vi hành chính đều được phát hiện kịp thời,
có những trường hợp đã vi phạm quá lâu mới phát hiện ra được, nếu chưa hết thời
hiễuử phạt thì vẫn phải phạt theo thủ tục có lập biên bản. Tuy nhiên biên bản là loại văn
bản dùng để ghi chép ngay tại chỗ sự việc đang diễn ra hoặc vừa mới xảy ra nhằm cung
cấp thông tin về sự việc được ghi chép là cơ sở tiến hành hay kiểm tra hoạt động của
cơ quan nhà nước. Trong trường hợp này, việc lập biên bản hầu như khơng cịn ý nghĩa
vì sự việc xảy ra q lâu
IV) Hướng hoàn thiện.
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Cần phân cấp mạnh mẽ hơn nữa cho các chức danh có thẩm quyền xử phạt cấp
cơ sở bởi đó là lực lượng chủ yếu kiêm tra, phát hiện vi phạm. Việc tăng cường về mức
phạt cho các chức danh này nhằm hai mục đích là nâng cao ý thức trách nhiệm, hiệu
quả hoạt động của họ và giảm tải cho các chức danh có thẩm quyền cao hơn.
Thẩm quyền xử phạt cần gắn liền với thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc
phục hậu quả. Xác định rõ biện pháp khắc phục gắn với hành vi vi phạm trong các Nghị
định của Chính phủ.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định thẩm quyền xử phạt cần giảm bớt
số lượng các chức danh có thẩm quyền xử phạt đối với một hành vi nhất định.
Quy định về các chức danh có thâm quyền xử phạt thể hiện rõ ràng, cụ thể bên
cạnh đó trong những trường hợp có thể cần áp dụng các quy định theo hướng mở trong

Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 10


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam
các vị trí tương đương, tránh việc sửa đổi bổ sung khi có cơ quan chuyên ngành mới
được thành lập.

Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Thủ tục đơn giản được áp dụng để xử lí nhanh chóng đối với một số vụ vi phạm
đơn giản, rõ ràng không cần thời gian để xác minh thêm : như những hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực trật tự, an tồn giao thơng đường bộ, trật tự an tồn giao
thơng đô thị. Tuy nhiên mức tiền xử phạt theo thủ tục đơn giản cần được tăng lên đến
500.000 đồng vì các khung tiền phạt được quy định cho thủ tục đơn giản là rất ít hoặc
khơng có.
Cần cụ thể hơn thủ tục xử phạt như quy định về trách nhiệm của người có thẩm
quyền trong việc nghiên cứu làm sáng tỏ vụ việc, xác định tích chất, mức độ vi phạm
của hành vi. Đồng thời khi xem xét quyết định xử lí người có thẩm quyền phải giải
quyết một vấn đề, vụ việc có đúng thẩm quyền hay khơng.
Về mẫu biên bản và mẫu quyết định xử phạt, mẫu tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm nên trao cho các Bộ, ban ngành cho phù hợp với từng lĩnh vực.
C) Kết thúc vấn đề
Như vậy, qua sự phân tích và đánh giá về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính chúng ta có thể thấy rằng , pháp luật dã quy định về vấn đề trên đã khá cụ
thể, tuy nhiên vẫn có những thiếu sót và hạn chế nhất định đòi hỏi các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải quy định chặt chẽ hơn để góp phần hồn thiện hệ thong pháp
luật hành chính nói chung và vấn đề xử phạt vi phạm hành chính nói riêng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Ngọc Lam – 352506

12

Page 11


Bài tập học kì mơn Luật Hành Chính Việt Nam


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, NXB.CAND, Hà
Nội 2007, 2008
2.Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002( sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008).
3.Viện khoa học pháp lí , Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học về Pháp lệnh xử lí vi phạm
hành chính năm 2002, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
4. Đặc san về xử lí vi phạm hành chính, Tạp chí luật học, tháng 9/2003. Thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính. TS. Bùi Thị Đào.
5. Nguyễn Thị Thủy, Thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội
2001.
6. Nguyễn Thị Dung, Khóa luận tốt nghiệp “ Ban hành văn bản pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính. Thực trạng- Giải pháp, Hà nội 2009.
7. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính- Thực trạng quy định, thực tiễn áp dụng và
hướng hồn thiện, Tạp chí luật học, TS. Trần Minh Hương số 8/2008.
8.Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 15/2008

/>
Nguyễn Ngọc Lam – 352506

Page 12



×