Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách nhà nước và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.4 KB, 17 trang )

BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
MỤC LỤC:

Đề bài: Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
theo Luật ngân sách nhà nước và thực tiễn áp dụng.
A. Giới thiệu vấn đề:
Trong hoạt động của mỗi một nhà nước, ngân sách nhà nước chính là một
công cụ, phương tiện quan trọng nhất cho nhà nước thực hiện tốt chức năng
nhiệm vụ điều tiết nền kinh tế và quản lý xã hội. Muốn thực hiện tốt các nhiệm
vụ, chức năng đó, nhà nước luôn phải đảm bảo xây dựng được một hệ thống
ngân sách bền vững và cân đối. Bài viết sau đây đi tìm hiểu nguyên tắc cân đối
trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách nhà nước và thực tiễn
áp dụng nguyên tắc trong hoạt động ngân sách nhà nước.
B. Giải quyết vấn đề:

I.

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC.
1. Ngân sách nhà nước.
a. Khái niệm ngân sách nhà nước.
Thứ nhất, về phương diện kinh tế, ngân sách nhà nước được hiểu là bảng
dự toán về các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện trong một khoảng thời hạn
nhất định, thường là một năm.
Thứ hai, xét về phương diện pháp lý, khái niệm ngân sách nhà nước được đề
cập tại Điều 1 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 như sau: “Ngân sách nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được các cơ
Page 1



BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
quan có thẩm quyền của Nhà nước quyết định và được thực hiện trong một năm
để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Trên phương
diện pháp lý này, ngân sách nhà nước được coi là một đạo luật đặc biệt do Quốc
hội ban hành để cho phép Chính phủ thực hiện trong thời hạn xác định. Sở dĩ nói
là một đạo luật đặc biệt là do ngân sách nhà nước được Quốc hội lập ra theo một
trình tự, thủ tục đặc biệt, không hoàn toàn giống với trình tự lập pháp thông
thường; đạo luật này cũng được xác lập hiệu lực chỉ trong một năm, không
giống với các đạo luật khác thông thường là có hiệu lực vô thời hạn.
Bên cạnh đó, có một số quan điểm còn xem xét ngân sách nhà nước trên
phương diện xã hội. Trên phương diện này, ngân sách nhà nước chính là một
công cụ kinh tế của Nhà nước được sử dụng cùng công cụ pháp luật để quản lý
mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, dù xét trên phương diện nào đi chăng nữa, ngân sách nhà nước
bản chất cuối cùng vẫn là các khoản thu-chi để nhà nước thực hiện các chức
năng nhiệm vụ, là khoản tài trợ cho hoạt động của bộ máy nhà nước trong tất cả
các lĩnh vực hoạt động.
Ngân sách nhà nước là một loại hình ngân sách đặc biệt quan trọng, nên
ngoài những đặc điểm chung vốn có của một loại ngân sách, nó còn thể hiện tính
chất riêng của một loại hình ngân sách quốc gia như sau:
Ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính phải được Quốc hội biểu
quyết thông qua trước khi thi hành: Thiết lập ngân sách nhà nước không chỉ
mang tính chất nghiệp vụ kinh tế thông qua việc phải đáp ứng yêu cầu lập được
dự toán thu chi trong một năm mà còn mang tính chất nghiệp vụ pháp lý khi
ngân sách nhà nước phải qua một quá trình xem xét, biểu quyết thông qua Quốc
hội như thông qua một đạo luật làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất
định cho các chủ thể tham gia vào ngân sách nhà nước. Đặc trưng vừa mang tính
kinh tế vừa mang tính pháp lý này đã làm nên sự khác biệt cho ngân sách nhà

nước với các loại ngân sách khác. Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước cũng phản
ánh mối tương quan giữa cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp trong việc xây
dựng và thực hiện ngân sách thông qua trình tự cơ bản của quá trình xây dựng
và thực hiện ngân sách (Chính phủ-cơ quan hành pháp xây dựng kế hoạch ngân
sách để Quốc hội-cơ quan lập pháp thông qua sau đó Chính phủ sẽ phải thực
hiện theo kế hoạch đã được phê chuẩn đó).

Page 2


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
Ngân sách nhà nước mang tính pháp lý cao: Ngân sách nhà nước không
chỉ là một kế hoạch tài chính thông thường mà còn là một đạo luật. Xuất phát từ
vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị-xã hội
của ngân sách nhà nước nên cần phải có một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh để ngân
sách nhà nước được thực hiện một cách thiết thực và hiệu quả nhất. Cơ chế pháp
lý đó chỉ có thể được tạo ra thông qua quá trình “luật hóa” bản dự toán ngân
sách nhà nước để nó có giá trị pháp lý như một đạo luật, được đảm bảo thực thi
bằng quyền lực của nhà nước đối với tất cả các chủ thể liên quan; giúp cơ quan
quyền lực đại diện cho nhân dân cả nước là Quốc hội kiểm soát quá trình thực
hiện thu chi của Chính phủ, bảo vệ lợi ích cho toàn thể nhân dân-đối tượng đóng
góp chủ yếu vào ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước phục vụ lợi ích chung của toàn thể quốc gia, không
phân biệt đối tượng thụ hưởng các lợi ích đó. Ngân sách nhà nước không chỉ
phục vụ cho các nhiệm vụ chi mang lại lợi ích kinh tế đơn thuần mà vì sự phát
triển của nền kinh tế của đất nước, vì lợi ích của các chủ thể trong xã hội thụ
hưởng ngân sách mà phải đáp ứng nhiều nhiệm vụ chi không mang lại lợi ích cụ
thể. Điều này làm nổi bật sự khác biệt giữa ngân sách nhà nước và ngân sách các
tổ chức kinh tế-cá nhân khác, bởi đối với một tổ chức kinh tế hay cá nhân, ngân

sách của họ sẽ không đáp ứng những nhiệm vụ chi không mang lại lợi ích kinh
tế.
b. Vai trò của ngân sách nhà nước.
Với bất kì một quốc gia nào, ngân sách nhà nước đều giữ vai trò rất quan
trọng trong đời sống kinh tế-xã hội:
- Ngân sách nhà nước là công cụ có hiệu lực của Nhà nước để điều chỉnh thu nhập
của toàn xã hội, hạn chế sự phân hóa giàu nghèo nhằm đảm bảo sự công bằng xã
hội, góp phần giải quyết các vấn đề của xã hội như trợ cấp thất nghiệp, chính
sách trợ giúp cho những người có thu nhập thấp, thực hiện chính sách đền ơn
đáp nghĩa, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai…Để thực hiện được các hoạt động đó,
Nhà nước cần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ các khoản thu từ thuế,
phí, lệ phí và các khoản thu khác, trong đó công cụ thuế được sử dụng hiệu quả
và là công cụ chính. Nhà nước sử dụng ngân sách để điều tiết hoạt động kinh tế
của quốc gia, đảm bảo kinh tế phát triển ổn định và tạo thế cân bằng giữa các
ngành nghề, địa phương của đất nước. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển của đất nước ta có nhiều biến

Page 3


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
động, lạm phát, giá cả gia tăng thì vai trò điều tiết của ngân sách nhà nước, bình
ổn thị trường càng được thể hiện một cách rõ ràng hơn bao giờ hết.
- Ngân sách nhà nước đóng vai trò là công cụ hướng dẫn tiêu dùng của xã hội
bằng cách ngân sách nhà nước hàng năm đều có những khoản dự toán để định
hướng việc chi tiêu cho xã hội, khoản chi nào là phù hợp, cần thiết để cân đối
với các khoản thu trong năm, tránh tình trạng chi tiêu lãng phí tràn lan, thâm hụt
ngân sách nhà nước.
Nói tóm lại, ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế

xã hội, được biểu hiện trên ba khía cạnh: Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai
trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế), chống độc quyền; giải quyết các vấn đề xã
hội (điều tiết trong lĩnh vực xã hội); góp phần ổn định thị trường giá cả, chống
lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường).
Ngân sách nhà nước được xây dựng và thực hiện trên tinh thần các nguyên
tắc cơ bản như sau:
Nguyên tắc ngân sách nhất niên: Nguyên tắc hàm chứa hai nội dung cơ
bản: Mỗi năm, Quốc hội sẽ biểu quyết ngân sách một lần theo kì hạn do luật
định và bản dự toán ngân sách nhà nước này chỉ có hiệu lực thi hành trong một
năm, Chính phủ là người chịu trách nhiệm thi hành bản dự toán này. Nguyên tắc
này đã được ghi nhận trong Luật Ngân sách nhà nước, nhằm mục đích giúp Nhà
nước kiểm soát kịp thời các khoản thu-chi của quốc gia, tránh sự lãng phí, tồn
đọng thu-chi qua các năm, đảm bảo dân chủ cho người dân bằng việc tham gia
quản trị nguồn tài chính của đất nước thông qua người đại diện là Quốc hội.
Nguyên tắc ngân sách đơn nhất: được hiểu thông thường là mọi khoản thu
và chi tiền tệ của quốc gia trong năm đều được trình bày trong một văn kiện duy
nhất là bản dự toán ngân sách được Chính phủ trình Quốc hội quyết định để thực
hiện. Tuy chưa có ghi nhận nào cụ thể về nguyên tắc này trong các quy định
pháp luật nhưng Luật ngân sách cũng đã có quy định “Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp được quyền quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước
các cấp trong trường hợp cần thiết”, đây chính là một cách vận dụng linh hoạt
nguyên tắc này. Nguyên tắc được đặt ra nhằm mục tiêu đảm bảo tính khả thi cho
dự toán ngân sách nhà nước trong quá trình thực hiện, giúp cho cơ quan quyền
lực dễ dàng kiểm soát thống nhất và tập trung hoạt động của ngân sách nhà
nước. Trên cơ sở kế hoạch tập trung của ngân sách nhà nước sẽ có thể phát huy
những điểm mạnh, hạn chế những yếu kém trong dự toán ngân sách năm sau.

Page 4



BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
Nguyên tắc ngân sách toàn diện: nguyên tắc được hiểu là mọi khoản thu
chi đều phải được ghi cụ thể, rõ ràng trong bảng dự toán ngân sách nhà nước
hàng năm đã được Quốc hội quyết định; các khoản thu và chi không được phép
bù trừ cho nhau mà mọi khoản thu phải bù trừ cho mọi khoản chi (tức là tổng
các khoản thu sẽ được phục vụ cho tổng các khoản chi). Nguyên tắc này đảm
bảo bản dự toán ngân sách nhà nước được thể hiện rõ ràng, đầy đủ và minh
bạch, tránh bị thất thoát, thâm hụt do gian lận hoặc tính toán sai. Nguyên tắc
cũng đã được ghi nhận trong các quy định của Luật ngân sách nhà nước năm
2002 (Điều 3, Điều 6).
Nguyên tắc ngân sách thăng bằng: Lúc đầu các nhà tài chính học cho rằng,
sự thăng bằng ngân sách nhà nước là một ý niệm kế toán nhiều hơn là ý nghĩa về
phương diện kinh tế hay pháp lý. Theo đó, sự thăng bằng của ngân sách nhà
nước được hiểu là tổng số thu phải cân bằng với tổng số chi trong năm ngân
sách. Còn các nhà tài chính học đương đại đưa ra nguyên tắc cân bằng ngân sách
dựa trên nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi
thường xuyên, trường hợp còn bội chi thì số dư bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu
tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.
Quan điểm này đã được các nhà làm luật Việt Nam thừa nhận và vận,
dụng, quy định cụ thể trong luật ngân sách nhà nước, đó chính là nguyên tắc cân
đối ngân sách nhà nước đang đi tìm hiểu sau đây.
2. Cân đối ngân sách nhà nước:
a. Định nghĩa cân đối ngân sách nhà nước.
Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề mà bất cứ quốc gia nào cũng cần
phải quan tâm và hướng đến. Mỗi một quốc gia với các điều kiện kinh tế-chính
trị-xã hội khác nhau lại có mục tiêu nhiệm vụ khác nhau trong vấn đề cân đối
ngân sách. Vậy, xét về các góc độ khác nhau, cân đối ngân sách nhà nước thực
sự là gì?
Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu

mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một năm
và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
trong năm đó.
Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương
quan giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa

Page 5


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản
thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước.
Xét về phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà
nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách
nhà nước, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ được giao.
Cân đối ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về số
lượng biểu hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu hiện
qua các khía cạnh khác nhau.
Nói tóm lại, có thể hiểu cân đối ngân sách nhà nước là một bộ phận quan
trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác
giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội
mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
b. Đặc điểm của cân đối ngân sách nhà nước.
Xem xét phân tích các khía cạnh cho thấy, cân đối ngân sách có những đặc
điểm như sau:
Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ giữa thu và chi ngân
sách nhà nước trong dự toán đã được đặt ra, thể hiện các mục tiêu chiến lược
kinh tế xã hội của quốc gia.

Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi và có tính
chất tương đối.
Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tiên liệu, phải dự
đoán được các khoản thu-chi một cách cụ thể và tương đối chính xác nhằm xác
định các mục tiêu kinh tế xã hội.
c. Vai trò, ý nghĩa của cân đối ngân sách nhà nước.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, cân đối ngân sách không chỉ đóng
vai trò góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách thuế, chính
sách chi tiêu..; góp phần phân bổ sử dụng nguồn lực tài chính của quốc gia có
hiệu quả mà bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước còn đảm bảo thực hiện
công bằng xã hội, tạo tiền đề cho Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý xã
hội về mọi mặt.
Page 6


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng với bất cứ
một nhà nước nào, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi nhà nước
khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong đời sống kinh tế xã hội. Để thực hiện
cân đối ngân sách nhà nước cần có những nguyên tắc, phương pháp, yếu tố cụ
thể. Một trong những nguyên tắc được áp dụng đó chính là nguyên tắc cân đối
ngân sách nhà nước .
II.

NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO QUY
ĐỊNH CỦA LUẬT NGÂN SÁCH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
1. Nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước.
Trên quan điểm phân tích ở trên, cân đối ngân sách nhà nước là vấn đề rất


quan trọng và cần thiết giúp Nhà nước thực hiện các chức năng nhiệm vụ của
mình. Nó có vai trò quyết định đến vấn đề ổn định và phát triển của một quốc
gia, luôn được các quốc gia chú trọng và quan tâm thể hiện qua các quy định của
pháp luật về cân đối ngân sách. Với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển theo
hướng hội nhập với cộng đồng kinh tế quốc tế, vấn đề cân đối ngân sách lại càng
quan trọng hơn bao giờ hết. Nhằm thực hiện có hiệu quả cân đối ngân sách nhà
nước, vấn đề cân đối ngân sách nhà nước đã được xây dựng thành nguyên tắc
ghi nhận trong Luật ngân sách nhà nước-đạo luật quy định chung nhất về các
vấn đề liên quan đến ngân sách.
Hoạt động ngân sách nhà nước, về bản chất chính là các hoạt động quản
lý trong quá trình thu chi ngân sách nhà nước. Dưới góc độ nghiên cứu của các
nhà khoa học kinh tế xã hội thì “nguyên tắc cân đối thu chi trong hoạt động
ngân sách nhà nước được hiểu là tư tưởng chủ đạo để cân đối các khoản thu,
chi trong quá trình xây dựng và thực hiện dự toán ngân sách nhà nước. Việc xây
dựng và thực hiện chỉ tiêu chi ngân sách nhà nước phải phù hợp với khả năng
thu của ngân sách nhà nước đồng thời việc xác định và thực hiện các khoản chi
phải phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và có tích lũy” (Theo cuốn “Từ điển
giải thích từ ngữ luật học” (chuyên ngành luật kinh tế, luật môi trường, luật tài
chính ngân hàng năm 1999).

Page 7


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
Dưới góc độ luật thực định, nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước được
quy định cụ thể trong Luật ngân sách nhà nước năm 2002 như sau:
“Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế,
phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày
càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải

nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.
Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vốn vay trong nước
và nước ngoài. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên
tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và
bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả nợ đến hạn (Điều 8 Luật Ngân sách
nhà nước năm 2002).

• Nội dung chính của nguyên tắc
Thứ nhất, nguyên tắc đặt ra mối quan hệ qua lại giữa các khoản thu và
các khoản chi trong mọi hoạt động của ngân sách nhà nước. Theo đó, yêu cầu
đòi hỏi các khoản thu từ thuế phí và lệ phí phải lớn hơn số chi thường xuyên
trong năm ngân sách, tránh tình trạng các khoản chi thường xuyên vượt quá giới
hạn đáp ứng của các khoản thu thường xuyên, gây ra thâm hụt ngân sách. Bên
cạnh đó, nguyên tắc cũng yêu cầu các khoản thu thường xuyên và ổn định của
ngân sách (thu từ thuế, phí và lệ phí) phải được sử dụng cho các khoản chi
thường xuyên, trong đó các khoản chi đầu tư phát triển phải được ưu tiên và chú
trọng hơn các khoản chi khác nhằm thực hiện các chiến lược xây dựng cơ sở hạ
tầng cho nền kinh tế, làm tiền đề thúc đẩy kinh tế phát triển nhưng vẫn đảm bảo
được sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây chính là
mục tiêu hàng đầu, là đích đến lý tưởng khi thực hiện cân đối ngân sách nhà
nước của bất kì nhà nước nào. Tuy nhiên, xét trong trường hợp còn bội chi thì
yêu cầu số bội chi đó phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển để tiến tới cân bằng
thu-chi ngân sách.
Page 8


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
Thứ hai, trong quá trình hoạt động ngân sách nhà nước của một quốc gia,
do nhiều yếu tố, việc bội chi ngân sách nhà nước (chi ngân sách nhiều hơn thu)

là việc khó tránh khỏi. Trong trường hợp này, nguyên tắc đưa ra yêu cầu phần
bội chi ngân sách bù đắp bởi nguồn vay trong nước hoặc nước ngoài thì phải
đảm bảo được sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển chứ không được sử dụng
cho mục đích tiêu dùng. Tức là các khoản vay ngân sách nhà nước nhằm bù
khoản thu thiếu hụt không được sử dụng cho mục đích tiêu dùng không có tính
chất thu hồi vốn, mà phải dùng đầu tư phát triển tạo cơ sở vật chất hạ tầng kĩ
thuật cho nền kinh tế phát triển. Các khoản đầu tư đó sẽ đáp ứng yêu cầu thu hồi
vốn để phục vụ trả nợ khi đến hạn.
• Cơ sở của nguyên tắc
Muốn lí giải được cơ sở để các nhà làm luật đưa ra nguyên tắc cân đối
ngân sách như một nguyên tắc căn bản trong hoạt động ngân sách nhà nước, cần
phải có được cái nhìn tổng quan về các khoản thu và khoản chi được đề cập
trong nguyên tắc.
Thứ nhất, thuế, phí và lệ phí là một khoản thu nằm trong cơ cấu các khoản
thu của ngân sách nhà nước, ổn định, thường xuyên và chiếm tỉ trọng lớn trong
tổng thu ngân sách nhà nước. Trong đó thuế là nguồn thu chiếm tỷ trọng chủ yếu
trong tổng thu ngân sách nhà nước (khoảng 90%), mang tính pháp lý cao, được
quy định bằng các văn bản luật. Phí và lệ phí là các khoản thu mang tính chất
đối giá và hoàn trả trực tiếp khi tổ chức, cá nhân sử dụng các dịch vụ mà Nhà
nước đã sử dụng ngân sách để cung cấp, đầu tư. Ví dụ như viện phí là một khoản
thu mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp khi cá nhân sử dụng dịch vụ
khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế, bệnh viện thuộc quyền quản lý, đầu tư từ
ngân sách của nhà nước.
Thứ hai, chi thường xuyên là các khoản chi mang tính định kì, lặp đi lặp
lại: chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa,
thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục, thể thao, khoa học và công nghệ, chi cho
Page 9


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH

May 8, 2012
hoạt động của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, chi cho các hoạt
động sự nghiệp kinh tế, chi quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội. Các
khoản chi thường xuyên là các khoản chi nhằm đáp ứng thực hiện các chức năng
nhiệm vụ của Nhà nước nên mang tính ổn định cao, không trực tiếp tạo ra các
giá trị thu hồi vốn về cho Nhà nước.
Thứ ba, chi đầu tư phát triển là các khoản chi mang tính tạo lập xây dựng
cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và phát triển sản xuất và để dự trữ hàng hóa, tạo ra
các điều kiện vật chất để tăng trưởng kinh tế, tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Các khoản chi đầu tư phát triển điển hình có thể kể đến như các khoản chi
đầu tư xây dựng cơ bản, chi cho quỹ dự trữ tài chính, chi hình thành bổ sung vốn
cho doanh nghiệp nhà nước…Là một khoản chi quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn
trong cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước, tạo ra nguồn tài sản cố định
và năng lực thúc đẩy kinh tế phát triển nhưng chi đầu tư phát triển lại mang tính
chất không ổn định và dễ dẫn đến tình trạng thất thoát lãng phí ngân sách trong
quá trình thực hiện chi ngân sách.
Có thể dễ dàng thấy được chi thường xuyên là khoản chi cần thiết cho mọi
hoạt động của nhà nước, có thể ví như là một khoản chi “cứng” mà dự toán ngân
sách hàng năm đều phải có nhưng không mang lại hiệu quả thu hồi vốn trực tiếp
cho ngân sách nhà nước. Bản thân chi thường xuyên là một khoản chi có tính
chất phí tổn, không mang tính tích lũy nên đương nhiên, để giữ cho ngân sách
không rơi vào tình trạng thâm hụt “chi nhiều, thu ít”, chúng ta phải đảm bảo sao
cho khoản thu chủ yếu của ngân sách là thu từ thuế, phí và lệ phí (khoản thu hoa
lợi) sẽ có khả năng đáp ứng được khoản chi thường xuyên, hơn thế nữa còn phải
góp phần tích lũy ngày càng cao vào cho các khoản chi đầu tư phát triển. Tích
lũy cho chi đầu tư phát triển là một khoản tích lũy không mang rủi ro mà chỉ
mang lại hiệu quả đầu tư về lâu dài, là động lực thúc đẩy cho kinh tế đi lên. Tất
nhiên, ngoài các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí, nguồn thu ngân sách nhà nước
vẫn còn có các khoản thu khác như thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước, thu từ
vay nợ, viện trợ trong và ngoài nước, nhưng xét cho cùng, các khoản thu này chỉ

Page
10


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
chiếm một phần nhỏ trong tổng thu ngân sách nhà nước, không có khả năng đáp
ứng được khoản chi thường xuyên khổng lồ của mỗi năm ngân sách. Trong
trường hợp này, để đảm bảo cho ngân sách cân bằng, không bội chi ngân sách,
yêu cầu “các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn số chi thường xuyên
và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển” là hoàn toàn hợp
lý để có thể tạo ra ngân sách cân đối.
Trường hợp các điều kiện kinh tế xã hội phát triển theo chiều hướng làm
bội chi ngân sách, nguyên tắc đặt ra là số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát
triển. Điều này đặt ra trên cơ sở nhằm đảm bảo cho nguồn lực ngân sách nhà
nước được tập trung ưu tiên cho các khoản chi đầu tư phát triển xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế. Số bội chi ngân sách không thể lớn hơn số chi đầu tư phát triển
khiến cho nguồn lực ngân sách nhà nước sử dụng sang các mục đích khác ngoài
chi đầu tư phát triển nếu như xảy ra trường hợp số thu mang tính chất hoa lợi
nhỏ hơn số chi thường xuyên của ngân sách nhà nước.
Về khoản 2 Điều 8 Luật ngân sách nhà nước quy định “Bội chi ngân sách
nhà nước được bù đắp bằng nguồn vốn vay trong nước và nước ngoài. Vay bù
đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho
tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân
sách để chủ động trả nợ đến hạn” có thể hiểu như sau: Vay nợ là một trong
những hình thức huy động vốn ngân sách nhà nước hiệu quả, thu hút vốn cao để
tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhằm đầu tư cho các dự án, kế hoạch lớn
cần đến nguồn vốn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nguồn vốn vay trong nước
và nước ngoài này chỉ có thể để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước cho mục
đích phát triển chứ không sử dụng vào mục đích tiêu dùng. Bởi lẽ, nếu các

khoản vay được sử dụng cho mục đích tiêu dùng thì sẽ là sự lãng phí nguồn vốn
đầu tư cũng như làm mất đi khả năng thu hồi vốn để trả nợ. Sử dụng nguồn vốn
vay nợ để phục vụ mục đích tiêu dùng không kiểm soát sẽ dẫn đến tình trạng nợ
công tràn lan, tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đặc biệt, với nguồn vay
nợ nước ngoài, nếu như vay nợ quá lớn, không nhằm mục đích đầu tư phát triển
Page
11


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
để thu hồi vốn sẽ khiến cho nền kinh tế trong nước phụ thuộc vào nước ngoài,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế. Nguồn vốn vay nợ để
bù đắp bội chi ngân sách đã là vốn vay đương nhiên sẽ phải trả nợ, chính vì thế
ngân sách nhà nước cần phải có sự chủ động trả nợ nguồn vốn vay này khi đến
hạn, tránh tình trạng để nợ ngân sách quá hạn hay ngân sách vỡ nợ, không có
khả năng chi trả.
Nói tóm lại, nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước được đặt ra trên cơ sở
các yêu cầu về cân đối ngân sách nhà nước phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh
tế chiến lược của nhà nước đặt ra. Bên cạnh đó, nguyên tắc cũng được phát triển
trên cơ sở những tính toán khoa học và ý niệm kế toán, quan điểm về ngân sách
thăng bằng mà các nhà tài chính đương đại đã đưa ra. Nguyên tắc là sự kết hợp
giữa quan điểm về vấn đề được xem xét dưới góc độ kinh tế cũng như góc độ
pháp luật thực định, các nhà làm luật đã thể hiện rõ ràng bằng quy định trong
luật ngân sách nhà nước-đạo luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình thực hiện hoạt động ngân sách nhà nước.
• Ý nghĩa của nguyên tắc đối với hoạt động ngân sách nhà nước
Luật ngân sách nhà nước là một đạo luật quan trọng trong hệ thống pháp luật cả
nhà nước ta, được ban hành để chi phối các hoạt động liên quan đến việc hình
thành, quản lý, sử dụng và định đoạt các khoản tiền công mang tính chất là tài

sản của nhà nước, được thể hiện trong quỹ ngân sách nhà nước. Nói cách khác,
luật ngân sách được ban hành chính là để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thu nộp ngân sách nhà nước. Tất cả các hoạt động của ngân
sách nhà nước đều phải thực hiện theo các quy định bắt buộc của luật ngân sách.
Trong các quy định của luật ngân sách, như đã trình bày ở trên, xác định được
tầm quan trọng của vấn đề cân đối ngân sách nhà nước đối với sự tồn tại và phát
triển của một nền kinh tế quốc gia vững mạnh, các nhà làm luật đã đưa ra
nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước như một tư tưởng chủ đạo, kim chỉ nam
cho các hoạt động chủ yếu của ngân sách nhà nước. Với sự bảo đảm thực hiện
bằng quyền lực nhà nước, nguyên tắc được thể chế dưới dạng quy phạm pháp
Page
12


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
luật cụ thể, giúp các chủ thể liên quan đến ngân sách nhà nước dễ dàng áp dụng
vào quá trình tham gia ngân sách nhà nước. Nguyên tắc cũng đã thể hiện sự thận
trọng trong chính sách tài khóa của nhà nước ta trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường đang có nhiều biến động, chịu nhiều ảnh hưởng, tác động của kinh tế thế
giới trong đó có cả tác động tích cực cũng như tiêu cực. Hướng đến cân đối ngân
sách nhà nước không chỉ là mục tiêu của riêng nước ta mà là mục tiêu hàng đầu
của bất cứ nhà nước nào, chính bởi vì vậy, việc đưa ra nguyên tắc cân đối ngân
sách nhà nước làm nguyên tắc căn bản cho mọi hoạt động của ngân sách nhà
nước quy định trong văn bản pháp luật đã tạo lập nền tảng pháp lý cho quá trình
thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước có sử dụng đến ngân sách, cải
thiện tình trạng thâm hụt ngân sách, tiến tới cân bằng ngân sách. Bên cạnh đó,
nguyên tắc cũng chính là phương hướng giúp phát triển nền tài chính công lành
mạnh làm động lực thúc đẩy đất nước đi lên hội nhập với kinh tế thế giới. Có thể
nói nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước được quy định trong văn bản luật có

một ý nghĩa lớn đến các hoạt động thu chi ngân sách, đưa các hoạt động vào một
khuôn khổ thích đáng để hướng ngân sách nhà nước đạt đến cán cân thăng bằng
hay chính là tình trạng cân đối ngân sách.
2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước.
Nền kinh tế của Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, còn gặp nhiều
khó khăn vướng mắc bởi các yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Trong điều
kiện kinh tế xã hội đang cần nhiều nguồn lực để phát triển như vậy, tình trạng
bội chi ngân sách nhà nước là điều không thể nào tránh khỏi.
Theo số liệu thống kê về tình trạng bội chi ngân sách ở nước ta trong một
số năm gần đây cho thấy bội chi ngân sách nhà nước là thực trạng diễn ra phổ
biến, thường dừng lại ở con số xấp xỉ 5% GDP.
Năm 2007: Bội chi NSNN năm 2007 được Quốc hội quyết định là 56.500
tỷ đồng; ước cả năm là 56.500 tỷ đồng, chiếm 4,95% GDP (tính theo Thống kê
Page
13


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
tài chính Chính phủ - GFS là 1,7%GDP), bằng mức Quốc hội quyết định, được
đảm bảo bằng các nguồn vay bù đắp bội chi đúng với dự toán năm.
Năm 2008: Bội chi NSNN năm 2009 Quốc hội quyết định là 87.300 tỷ
đồng, bằng 4,82% GDP, được bù đắp từ nguồn vay trong nước 71.300 tỷ đồng,
vay nước ngoài: 16.000 tỷ đồng.
Năm 2009: Dự toán bội chi NSNN năm 2009 là 4.82% GDP. Bước vào
năm 2009, căn cứ tình hình kinh tế thế giới và trong nước đang gặp rất nhiều
khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu lan rộng, diễn biến phức tạp, khó
lường và theo chiều hướng xấu, nguồn thu NSNN gặp khó khăn, yêu cầu tăng
chi là rất lớn để thực hiện các giải pháp kích thích kinh tế và đảm bảo an sinh xã

hội, do vậy Chính phủ đã báo cáo và được Quốc hội chấp thuận tăng mức bội
chi không quá 7% GDP.
Kết quả thực hiện bội chi NSNN năm 2009 ở mức 6,9% GDP, trong phạm
vi Quốc hội cho phép, được sử dụng toàn bộ cho đầu tư phát triển theo đúng quy
định của Luật Ngân sách nhà nước, tập trung cho các công trình, dự án kích
thích kinh tế thực hiện trong năm 2009.
Năm 2010: Bội chi ngân sách nhà nước dự toán là 119.700 tỉ đồng, chiếm
6.2 %, nguồn bù đắp bội chi ngân sách vay trong nước là 98.700 tỉ đồng, vay
ngoài nước là 21.000 đồng. Sau quá trình thực hiện, cho thấy bội chi ngân sách
năm 2010 chiếm 5.8% GDP, giảm 0.4% so với dự toán.
Năm 2011: Bội chi ngân sách nhà nước dự toán là 120.600 tỷ đồng, chiếm
5.3 % GDP.
(Trích từ Báo cáo Ngân sách nhà nước hàng năm của Bộ tài chính).
Xem xét các bản dự toán ngân sách nhà nước qua các năm đồng thời kết
hợp với các kết quả báo cáo về tình trạng cân đối ngân sách nhà nước qua các
năm cho thấy, trong những năm qua chúng ta đã kiểm soát được mức độ bội chi
ngân sách ở mức giới hạn cho phép (tương đối ở mức 5% GDP trên năm, tùy
Page
14


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
theo điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi và khó khăn theo từng năm) và nguồn vốn
vay chủ yếu là chi cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng đã tích lũy
được một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Trong vấn đề
xử lý bội chi ngân sách nhà nước, nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước đã
được triệt để áp dụng, xử lý các khoản thu ngân sách từ thuế, phí, lệ phí đã đáp
ứng được các khoản chi thường xuyên yêu cầu, số bội chi nhỏ hơn số chi đầu tư
phát triển. Những điều này có thể minh chứng qua các con số chi cho đầu tư

phát triển đang ngày càng chiếm tỉ trọng cao hơn trong tổng số thu cân đối ngân
sách nhà nước qua các năm: Dự toán năm 2007 bố trí 99.450 tỷ đồng cho chi
đầu tư phát triển, tăng 27,5% so dự toán năm 2006, chiếm 27,8% tổng chi
NSNN; Dự toán năm 2008 bố trí 99.730 tỷ đồng, chiếm 25,0% so với tổng chi
NSNN; dự toán năm 2009 bố trí 112.800 tỷ đồng, tăng 13,1% so dự toán năm
2008, chiếm 23,0% tổng chi cân đối NSNN (báo cáo ngân kế hoạch ngân sách
hàng năm của Bộ tài chính).
Ví dụ: theo cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 mà Bộ tài chính
công bố, tổng chi cân đối ngân sách nhà nước là 582.200 tỉ đồng trong đó chi
đầu tư phát triển chiếm 125.500 tỉ đồng, lớn hơn số bội chi ngân sách nhà nước
dự toán là 119.700 tỉ đồng. Các số liệu dự toán này chính là được xây dựng trên
cơ sở nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước đã đề cập ở trên.
Nói tóm lại, trong quá trình thực hiện các hoạt động ngân sách nhà nước,
đặc biệt là quá trình xây dựng dự toán cân đối ngân sách nhà nước, các cơ quan
xây dựng đã đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc cân đối ngân sách nhà
nước được quy định tại luật ngân sách nhà nước, thực hiện đúng các yêu cầu
nguyên tắc đặt ra, phấn đấu hướng đến mục tiêu cân đối ngân sách nhà nước.
C. Kết thúc vấn đề:
Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là một nguyên tắc
có vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn trong quá trình thực hiện các hoạt động
của ngân sách nhà nước. Trong bối cảnh đất nước đang tiến đến mục tiêu công
Page
15


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để có được một nền kinh tế phát triển nhanh,
mạnh tạo động lực đưa đất nước đi lên hội nhập quốc tế, trong quá trình thực
hiện ngân sách nhà nước chúng ta luôn luôn cần phải phát huy tinh thần nguyên

tắc để tiến tới cân đối ngân sách nhà nước, xây dựng ngân sách nhà nước vững
mạnh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật ngân sách nhà nước – Đại học Luật Hà Nội – NXB Tư
pháp – 2007.
Page
16


BÀI TẬP HỌC KÌ LUẬT TÀI CHÍNH
May 8, 2012
2. Giáo trình Luật ngân sách nhà nước – Đại học Luật Hà Nội – NXB Tư
pháp – 2005.
3. Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tài chính, Hà Nội, 2007.
4. Luật NSNN năm 2002.
5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học
(Phần luật tài chính), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999.
6. />17088?7x259sag=7x259sag
7. />8. />p_pers_id=&p_folder_id=2201649&p_recurrent_news_id=15240150

Page
17



×