ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ KIM LIÊN
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƢỜNG
CAO ĐẲNG KỸ THUẬT (QUA THỰC TẾ TỈNH HÀ NAM)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Hà Nội - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ KIM LIÊN
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƢỜNG
CAO ĐẲNG KỸ THUẬT (QUA THỰC TẾ TỈNH HÀ NAM)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 80
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Văn Phòng
Hà Nội - 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ SỰ VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NÀY
TRONG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ .......................................... 9
1.1. Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy
lý luận chính trị ...................................................................................... 9
1.1.1. Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn........................ 9
1.1.2. Biểu hiện của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy lý luận chính trị ................................................................... 17
1.1.3. Vai trò của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng
dạy lý luận chính trị ............................................................................. 22
1.2. Yêu cầu của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý
luận chính trị ........................................................................................ 25
1.2.1. Giảng dạy lý luận chính trị phải phù hợp với từng đối tượng ........... 25
1.2.2. Nội dung giảng dạy lý luận chính trị phải phù hợp với thực tiễn
đất nước, thời đại và ngành nghề đào tạo ............................................ 28
1.2.3. Chống bệnh giáo điều và kinh nghiệm trong giảng dạy lý luận
chính trị ................................................................................................ 30
Chƣơng 2: VẬN DỤNG SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƢỜNG CAO
ĐẲNG KỸ THUẬT (QUA THỰC TẾ TỈNH HÀ NAM) - THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ........................................................................ 33
2.1. Thực trạng vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy lý luận chính trị ở các trường cao đẳng kỹ thuật tại tỉnh
Hà Nam ................................................................................................ 33
2.1.1. Sự phù hợp giữa chương trình, nội dung môn học với đối tượng
sinh viên cao đẳng và yêu cầu đào tạo................................................. 33
2.1.2. Việc gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn đất nước, thời đại và
ngành nghề đào tạo .............................................................................. 38
2.1.3. Hạn chế trong vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong giảng dạy lý luận chính trị ở các trường cao đẳng (Qua thực
tế tỉnh Hà Nam) ................................................................................... 42
2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị cho sinh viên
cao đẳng khối kỹ thuật ......................................................................... 52
2.2.1. Đổi mới, nâng cao nhận thức về môn học, điều chỉnh nội dung
chương trình cho phù hợp đối tượng sinh viên cao đẳng ...................... 52
2.2.2. Có cơ chế gắn giảng dạy lý luận chính trị với thực tiễn đất nước .... 58
2.2.3. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giảng
viên, khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều trong giảng dạy lý
luận chính trị ........................................................................................ 62
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 72
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 75
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu thì
vừa tạo thời cơ lớn nhưng cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức
cho con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Muốn tận dụng được
thời cơ, vượt qua thách thức chúng ta cần xây dựng một nền tảng vững chắc
về vật chất và tinh thần trong đó vấn đề xây dựng con người có một vai trò hết
sức quan trọng. Con người xã hội chủ nghĩa cần được giáo dục toàn diện cả
về đức, trí, thể, mỹ ở tất cả các bậc học, trong đó giáo dục tư tưởng, đạo đức,
lối sống cho sinh viên ở bậc cao đẳng, đại học có ý nghĩa to lớn.
Việc giảng dạy và học tập môn lý luận chính trị là một nội dung bắt
buộc, thuộc bản chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm đào tạo
những con người xã hội chủ nghĩa vừa hồng vừa chuyên. Với tư cách là cơ sở
lý luận và phương pháp luận khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của dân tộc Việt
Nam. Trong thời gian vừa qua, việc giáo dục lý luận chính trị đã góp phần
quan trọng vào việc củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao nhận thức,
tình cảm và niềm tin của sinh viên đối với chủ nghĩa xã hội, đối với sự nghiệp
đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của
việc giáo dục lý luận chính trị, đòi hỏi các môn học Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của
Đảng cộng sản Việt Nam cần phải được giáo dục, phổ biến sâu rộng hơn, thiết
thực hơn đối với thế hệ trẻ nhất là sinh viên các trường đại học, cao đẳng
Giảng dạy lý luận chính trị là cung cấp cho sinh viên một hệ thống tri
thức lý luận tiên tiến, qua đó bồi dưỡng cho họ hình thành thế giới quan khoa
học, phương pháp tư duy sáng tạo, nhân sinh quan cách mạng và đạo đức mới
1
để phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Muốn thực hiện được điều đó đòi
hỏi cả giảng viên và sinh viên phải có nhận thức đúng đắn, phương pháp
giảng dạy và học tập khoa học thì mới vận dụng được lý luận vào hoạt động
thực tiễn. Vì vậy việc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý
luận chính trị là một yêu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, thực tế việc giảng dạy lý luận chính trị hiện nay cho thấy,
do nhiều nguyên nhân mà trình độ hiểu biết thực tiễn của một số giảng viên
còn hạn chế, giảng viên trong giảng dạy lý luận chính trị vẫn mắc bệnh kinh
nghiệm, giáo điều; bản thân sinh viên chưa có thái độ đúng đắn và hiểu biết
đầy đủ về vị trí, vai trò của môn học, còn lúng túng trong phương pháp học
tập, nghiên cứu khoa học… Nguyên nhân đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết
quả giảng dạy và học tập, nhất là ảnh hưởng đến hiệu quả của việc gắn lý luận
với thực tiễn trong giảng dạy và học tập lý luận chính trị.
Từ những lý do vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn nêu trên,
là một giảng viên giảng dạy các môn lý luận chính trị ở trường cao đẳng kỹ
thuật, tác giả nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị, tác giả đã lựa chọn vấn đề
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị ở các
trường cao đẳng kỹ thuật (Qua thực tế tỉnh Hà Nam)” là đề tài luận văn thạc
sĩ của mình. Sau khi hoàn thành đề tài, tác giả mong muốn sẽ đóng góp một
phần nhỏ bé vào việc làm phong phú, sâu sắc hơn về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong thời gian qua đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau. Tiêu biểu
một số công trình sau:
- Đề tài “Đổi mới tư duy lý luận ứng dụng vào việc đổi mới nội dung,
chương trình bài giảng và giáo trình giảng dạy lý luận Mác - Lênin, theo yêu cầu
2
đổi mới về giáo dục lý luận Mác - Lênin trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ V” Giáo sư Nguyễn Đức Bình - chủ nhiệm đề tài cấp bộ, năm 1991.
Nội dung của đề tài khẳng định tính cấp thiết của việc thực hiện nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc đổi mới nội dung, chương
trình bài giảng và giáo trình các môn học lý luận Mác - Lênin. Muốn đổi mới
về giáo dục lý luận Mác - Lênin trước tiên phải đổi mới tư duy lý luận và ứng
dụng nó vào trong đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình các môn học
Mác-Lênin theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V.
- “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao tư
duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường chính trị hiện nay” của
Nguyễn Đình Trãi, tạp chí triết học, số 1/1999.
Tác giả đã làm rõ sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn với tư cách là
một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và nêu ra vị trí, vai trò của
nguyên tắc này với việc nâng cao tư duy lý luận cho giảng viên ở các trường
chính trị tỉnh, thành phố như một yêu cầu tất yếu khách quan trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đề tài “Những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hình thành
chương trình trung cấp lý luận chính trị trong các trường đào tạo cán bộ của
Đảng và Nhà nước ở tỉnh, thành phố đến năm 2000”, thạc sỹ Tống Trần Sinh
- đề tài cấp bộ, tháng 4/1995.
Đề tài chứng minh tính hợp lý, đúng đắn của việc đào tạo lý luận chính
trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở các trường chính trị tỉnh, thành
phố; chỉ ra cơ sở khoa học và thực tiễn của việc hình thành chương trình trung
cấp lý luận chính trị. Thực chất là làm rõ tính thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong việc thiết kế nội dung, chương trình, giáo trình sao cho phù hợp với
đối tượng học viên ở các trường chính trị tỉnh, thành phố.
- Đề tài “Thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ giảng dạy của các trường
chính trị tỉnh, thành phố” thạc sỹ Tống Trần Sinh - đề tài cấp bộ, tháng 1998.
3
Sau khi Thạc sỹ Tống Trần Sinh - chủ nhiệm đề tài cấp bộ nghiên cứu,
đề xuất hình thành chương trình trung cấp lý luận chính trị dành cho các
trường đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước ở các tỉnh, thành phố năm 1995
thành công. Ngay sau đó ông tiếp tục nghiên cứu, khảo sát thực trạng tình
hình đội ngũ cán bộ giảng viên ở các trường chính trị tỉnh, thành phố nhằm
tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng nội dung,
chương trình đào tạo, bồi dưỡng trung cấp lý luận chính trị ở các trường chính
trị tỉnh, thành phố trước những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó.
Qua đây cho chúng ta thấy quan điểm quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn thể hiện nhất quán trong việc tổ chức thực hiện của hệ thống
các trường chính trị tỉnh, thành phố.
- “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh” PGS.TS Trần Văn Phòng trong sách “Tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh”, Nxb Lao động, Hà Nội 2002.
Tác giả đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt là về tư tưởng
triết học trong hệ thống tư tưởng của Người. Một trong những nội dung quan
trọng và có ý nghĩa sâu sắc liên quan trực tiếp công tác giáo dục và đào tạo
cán bộ đó chính là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tác giả đã
tìm hiểu và hệ thống lại những quan điểm của Hồ Chí Minh nhìn nhận dưới
góc độ triết học về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một giải pháp
cơ bản nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Đây được coi là
một trong những di sản lý luận mà Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta.
- “Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn” của Vi Thái
Lang, Tạp chí Triết học, số 1/1999.
Quan điểm mà tác giả đưa ra trong bài viết này về mối quan hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn được vạch rõ trên cả bình diện bản thể luận và
nhận thức luận. Quan hệ này là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ
thể; nên khi nắm được tính chất biện chứng của quá trình này để nhận thức và
4
vận dụng sẽ thiết lập được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ
nghĩa thực dụng thiển cận cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý
luận suông.
-“Tổng quan về dạy và học các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh” của Tiến sĩ Nguyễn Duy Bắc trong sách “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về dạy và học môn học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh trong trường đại học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2004
Tác giả đã tổng quát những vấn đề nổi bật của việc giảng dạy môn Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường đại học, qua đó chỉ ra vai trò, thực
trạng của việc giảng dạy môn Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng
thời đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập môn Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học.
- “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc khắc phục
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều” của PGS.TS Trần Văn Phòng trong
sách “Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2007.
Tác giả của bài viết đã chỉ rõ thực chất của sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn; phân tích, chỉ ra nguyên nhân và phương hướng khắc phục bệnh
kinh nghiệm, bệnh giáo điều, từ đó đề ra biện pháp để quán triệt tốt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
- “Mấy suy nghĩ về việc nâng cao chất lượng đào tạo - giảng dạy triết
học trong các trường đại học ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thái Sơn, Tạp
chí Triết học, số 8/2010.
Tác giả đã phân tích thực trạng giảng dạy triết học trong các trường đại
học ở nước ta hiện nay, từ đó đặt ra các vấn đề cần suy nghĩ, giải quyết về
chương trình, phương pháp giảng dạy, cách thức tổ chức dạy học. Từ đó, tác
giả đã đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng việc giảng dạy và học
tập môn triết học trong các trường đại học.
5
- “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy môn triết học
Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh, thành phố (Qua thực tế Trường Đào
tạo cán bộ Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội)”, tác giả Tạ Ngọc Lan, Luận
văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội - 2011.
Tác giả của luận văn đã làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, thực trạng việc vận dụng nguyên
tắc này trong giảng dạy môn triết học Mác - Lênin đồng thời đã đề xuất một
số giải pháp nhằm quán triệt tốt hơn nguyên tắc này trong giảng dạy.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự thống
nhất giữ lý luận và thực tiễn, thực trạng vận dụng nguyên tắc này trong giảng
dạy các môn lý luận chính trị ở các trường cao đẳng kỹ thuật (qua thực tế tỉnh
Hà Nam), luận văn đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng nhằm vận
dụng hiệu quả hơn nguyên tắc này trong giảng dạy lý luận chính trị cho đối
tượng sinh viên cao đẳng khối kỹ thuật.
3.2. Nhiệm vụ:
+ Phân tích, làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn;
+ Phân tích, chỉ rõ thực trạng vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn lý luận chính trị ở các trường cao
đẳng kỹ thuật (qua thực tế tỉnh Hà Nam);
+ Đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng nhằm vận dụng có
hiệu quả hơn nguyên tắc này trong giảng dạy lý luận chính trị cho đối tượng
sinh viên cao đẳng khối kỹ thuật.
6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng: Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy
lý luận chính trị.
4.2. Phạm vi: Các trường cao đẳng kỹ thuật (qua thực tế tỉnh Hà Nam).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sử dụng phương pháp lịch sử và lôgic; phân tích và tổng hợp.
- Sử dụng kết quả khảo sát, thăm dò ý kiến.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong giảng dạy lý luận chính trị. Từ đó, thấy được vai trò quan trọng của môn
học nhằm tạo hứng thú trong nghiên cứu học tập môn lý luận chính trị cho
sinh viên ở các trường cao đẳng kỹ thuật.
- Luận văn mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm mang lại hiệu quả
cao hơn khi vận dụng nguyên tắc này vào giảng dạy các môn lý luận chính trị
ở các trường cao đẳng kỹ thuật.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của sự vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị ở trường
cao đẳng khối kỹ thuật. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt
nguyên tắc này trong công tác giảng dạy, đặc biệt đối với các môn lý luận
chính trị.
- Ngoài ra, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho quá
trình giảng dạy, học tập môn lý luận chính trị trong các trường cao đẳng, đại
học hiện nay.
7
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn chia làm 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn và sự vận dụng nguyên tắc này trong giảng dạy lý luận chính trị.
Chương 2: Vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy lý luận chính trị ở các trường Cao đẳng Kỹ thuật (qua thực tế tỉnh
Hà Nam) - Thực trạng và giải pháp.
8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VÀ SỰ VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NÀY
TRONG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
1.1. Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy lý luận chính trị
1.1.1. Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
1.1.1.1. Phạm trù thực tiễn và phạm trù lý luận
* Phạm trù thực tiễn
Trước khi triết học Mác ra đời thì chưa một đại biểu triết học nào hiểu
được bản chất của thực tiễn cũng như vai trò của nó đối với nhận thức, lý
luận. Ở thời kỳ cận đại, Điđơrô - nhà triết học duy vật người Pháp đã đồng
nhất hoạt động thực nghiệm khoa học với hoạt động thực tiễn. Đây là quan
niệm đúng nhưng chưa đủ. Hêghen cho: giới tha hoá thành giới tự nhiên, xã
hội, lịch sử, con người là thực tiễn - tức hoạt động có ý chí của ý niệm, hoạt
động của tinh thần, như thế hoạt động tinh thần là hoạt động thực tiễn. Trong
“Bút ký triết học” V.I.Lênin đã chỉ ra hết sức đúng rằng, “Đối với Hêghen,
hành động, thực tiễn là một “suy lý-lô-gích, một hình tượng lô-gích” [22, tr.
234]. Suy lý lô-gích là hoạt động tư duy, hoạt động tinh thần nói chung. Do
vậy, đây là quan niệm duy tâm về thực tiễn. Phoiơbắc xem xét thực tiễn
“trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó” [24, tr. 9]. Về thực chất
Phoiơbắc chưa hiểu thực tiễn cũng như vai trò của thực tiễn nói chung và đối
với nhận thức nói riêng. Ông chỉ đánh giá cao hoạt động lý luận, coi đó là
hoạt động đích thực, chân chính của con người. Một số đại biểu của chủ nghĩa
xét lại hiểu thực tiễn là hoạt động tự nhận thức có tính sáng tạo tự do. Quan
niệm này về thực chất là quan niệm duy tâm vì cho thực tiễn là hoạt động tự
nhận thức - tức hoạt động tinh thần. Các nhà thực dụng Mỹ như S.Piếc-xơ
9
(Ch.Peirce 1839-1914), U.Giêm-xơ (W.Jemes 1842-1910) và G.Đi-uây
(J.Dewey 1859-1952) cho thực tiễn là hành động của con người với tư cách là
“vật” chịu sự tác động của hoàn cảnh và phản ứng lại hoàn cảnh, chứ không
phải là hoạt động vật chất trực quan, cảm tính nhằm cải tạo hoàn cảnh. Như
vậy, theo các nhà thực dụng Mỹ, tất cả những hoạt động phản ứng lại hoàn
cảnh của con người đều được coi là thực tiễn. Từ đó, theo họ kích thích và
phản ứng cũng là những nội dung cơ bản của thực tiễn. Thậm chí, W.Jemes
coi “kinh nghiệm” tôn giáo là thực tiễn, tức là hoạt động tinh thần thuần tuý.
Khắc phục những sai lầm, kế thừa những tư tưởng đúng đắn, hợp lý
đồng thời dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung và khoa học tự
nhiên nói riêng cùng với hoạt động của các ông trong phong trào đấu tranh
của quần chúng lao động, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đưa ra
quan điểm đúng đắn về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Đây là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức
macxit nói riêng và của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung.
Theo Từ điển Triết học do nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva xuất bản
năm 1986: “Thực tiễn - đó là hoạt động của con người nhằm đảm bảo cho xã
hội tồn tại và phát triển, và trước hết nó là quá trình khách quan của sản xuất
vật chất - quá trình này là cơ sở của đời sống con người, đồng thời nó cũng là
hoạt động cải tạo - cách mạng của các giai cấp và tất cả các hình thức hoạt
động thực tiễn xã hội khác nhằm biến đổi thế giới. Thí nghiệm khoa học cũng
là một trong những hình thức của thực tiễn” [43, tr. 343].
Trong giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
của Bộ Giáo dục Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2009
thì “Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội”.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất - là hoạt động mà chủ thể sử dụng
10
phương tiện vật chất, công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất theo
hình thức và mức độ khác nhau nhằm cải tạo chúng theo mục đích của mình.
Kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn là những sản phẩm thỏa mãn nhu
cầu vật chất và tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn của con người luôn mang tính lịch sử cụ thể, nó chỉ
diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó, bị giới hạn bởi điều kiện lịch sử
cụ thể. Nó có quá trình hình thành, phát triển, kết thúc hoặc chuyển hóa sang
giai đoạn khác. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự chi phối của mỗi giai
đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện và mục đích hoạt động.
Hoạt động thực tiễn phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm người,
nhưng không thể tách rời các quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục đích, đối
tượng, phương tiện và lực lượng trong hoạt động thực tiễn, do vậy, hoạt động
thực tiễn của con người mang tính xã hội sâu sắc. Hoạt động thực tiễn là hoạt
động mang tính tất yếu, nhưng là tất yếu có ý thức của con người. Đó là sự ý
thức về phương pháp, ý thức về đối tượng, nhất là sự ý thức về mục đích của
quá trình hoạt động.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng và phong phú, song có thể chia làm ba
hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội,
hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động
trực tiếp tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất
cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt
động của con người trực tiếp tác động vào xã hội, cải biến các quan hệ xã hội
theo hướng tiến bộ. Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các
nhà khoa học tác động làm cải biến những đối tượng nhất định trong một điều
kiện nhất định và theo một mục đích nhật định. Trong đó, hoạt động sản xuất
vật chất giữ vai trò quyết định vì nó là cơ sở cho các hoạt động khác.
Các hình thức hoạt động của thực tiễn tuy có sự khác nhau nhưng
chúng thống nhất, có chung chủ thể hoạt động, có cùng mục đích, chúng bổ
11
trợ, ảnh hưởng lẫn nhau, do đó sự phân biệt giữa các hình thức hoạt động thực
tiễn chỉ mang tính tương đối.
* Phạm trù lý luận
Trong Từ điển Triết học do nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva xuất bản
năm 1986 định nghĩa:
“Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người,
là toàn bộ những tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc
lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgíc khách quan của các khái
niệm lôgíc khách quan của các sự vật” [43, tr. 342-343].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích
trữ lại trong lịch sử” [30, tr. 497].
Lý luận chính là một cấp độ cao của quá trình nhận thức của con người,
dựa trên trình độ, kết quả thâm nhập vào bản chất của đối tượng nhận thức, có
thể phân chia thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Đây là những tri
thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng, hình thức và trình độ phản
ánh cũng khác nhau.
Tri thức kinh nghiệm là những tri thức được chủ thể thu nhận từ sự
quan sát trực tiếp sự lặp đi, lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Loại tri thức này có hai
loại: tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri
thức kinh nghiệm thông thường thu được thông quá quá trình sinh hoạt và
hoạt động hàng ngày của con người, nó giúp con người giải quyết nhanh một
số vấn đề đơn giản, cụ thể trong quá trình tác động trực tiếp với đối tượng. Tri
thức kinh ghiệm khoa học là kết quả của quá trình thực nghiệm khoa học, nó
đòi hỏi chủ thể phải tích lũy một lượng tri thức nhất định trong hoạt động sản
xuất cũng như hoạt động khoa học. Có thể thấy tri thức kinh nghiệm mới chỉ
mang lại những tri thức bên ngoài, chưa phải là bản chất của sự vật, hiện
12
tượng, tri thức đó có thể đúng ở hoàn cảnh này nhưng chưa chắc đúng ở hoàn
cảnh khác. Đây là những tri thức riêng lẻ, rời rạc về vẻ bề ngoài sự vật do vậy
ở trình độ tri thức kinh nghiệm tri thức chưa thể nắm được mối liên hệ bản
chất, tất yếu, bên trong của sự vật, hiện tượng dẫn đến độ chính xác, tin cậy
chưa cao. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm cũng có vai trò hết sức quan trọng,
cần thiết, giúp con người có thể điều chỉnh những hoạt động của mình, đưa ra
những quyết định, hành động kịp thời trong những hoàn cảnh nhất định, góp
phần mang lại hiệu quả trong nhiều hoàn cảnh. Đồng thời tri thức kinh
nghiệm còn là cơ sở để hình thành nên tri thức lý luận.
Tri thức lý luận là tri thức phản ánh gián tiếp, khái quát về bản chất và
quy luật của các sự vật, hiện tượng. Tri thức lý luận có những cấp độ khác
nhau tuỳ phạm vi phản ánh và vai trò phương pháp luận của nó. Có thể chia
tri thức lý luận thành tri thức lý luận ngành và tri thức lý luận triết học.
Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành, vận động
và phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo
tri thức cũng như phương pháp luận cho hoạt động của ngành đó. Lý luận triết
học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con người, là thế
giới quan, phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con người.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ
bản là chức năng phản ánh hiện thực khác quan và chức năng phương pháp
luận cho hoạt động thực tiễn.
Lý luận là sản phẩm của quá trình tư duy của con người, nó được nảy
sinh trên cơ sở thực tiễn, là sự tổng kết những tri thức về tự nhiên, xã hội và
con người. Đặc trưng của lý luận là mang tính hệ thống, tính khái quát hóa,
trừu tượng hóa cao, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn,
nó có thể phản ánh bản chất của cấc sự vật, hiện tượng. Như vậy có thể khái
quát, lý luận là hệ thống những tri thức khoa học được khái quát từ thực tiễn,
phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự
13
vật, hiện tượng trong thế giới khác quan và được biểu đạt bằng hệ thống các
nguyên lý, quy luật, phạm trù.
1.1.1.2. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Giữa thực tiễn và lý luận có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau,
điều đó được thể hiện:
Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và là tiêu chuẩn của lý
luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.
Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức
được khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của
con người. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như
thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các
yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá
trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những lý luận
đã được khái quát. Mặt khác hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh
những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết, thông
qua đó lý luận được bổ sung và mở rộng. Chính vì vậy, theo Lênin, "Nhận
thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó, trong những
quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, tự nó và vì
nó" [22, tr. 227].
Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không chỉ
là nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối
quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm
phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng
kích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá trình đó
diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày
càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
14
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri
thức khái quát về thế giới để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người,
nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con
người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu
cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo nên
những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người, nhu cầu đó chỉ được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã
hội theo mục đích của con người, đó thực chất là mục đích của lý luận. Tức lý
luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận. Tính chân lý
của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được
thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp luận của lý luận đối với hoạt
động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để
kiểm nghiệm. Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ
sung vào kho tàng tri thức nhân loại; những kết luận chưa phù hợp thực tiễn
thì tiếp tục được điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý luận
nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý khi thực tiễn đạt đến tính toàn, phổ biến vẹn của nó.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý duy nhất của lý luận, nhưng vì thực tiễn
luôn vận động và phát triển, đồng thời, thực tiễn cũng rất phong phú và đa
dạng, do đó ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu chuẩn khác
như tiêu chuẩn lôgic, tiêu chuẩn giá trị... Song các tiêu chuẩn đó vẫn phải dựa
trên nền tảng của thực tiễn. Chính vì vậy, chúng ta có thể nói khái quát, thực
tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, ngược lại lý luận phải được
vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, ban đầu hoạt động của
con người chưa có lý luận chỉ đạo, song con người phải hoạt động để đáp ứng
15
nhu cầu tồn tại của mình. Thông qua các hoạt động đó, con người khái quát
thành lý luận, từ đó những hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất
thiết phải có lý luận soi đường. Chính nhờ có lý luận soi đường mà hoạt động
thực tiễn của con người mới trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục
đích mong muốn.
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng
định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện.
Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển cũng như như các mối quan hệ
của thực tiễn, những hạn chế, thất bại có thể có trong quá trình hoạt động.
Như vậy, lý luận không chỉ giúp con người hoạt động có hiệu quả mà còn là
cơ sở khắc phục những hạn chế trong hoạt động thực tiễn của con người. Mặt
khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng của con người...
Chính vì vậy, C.Mác đã cho rằng, vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ
bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất,
một khi nó thâm nhập vào quần chúng.
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, song nó còn có tính lịch sử, cụ
thể. Do đó khi vận dụng lý luận, chúng ta cần phân tích cụ thể mỗi tình hình
cụ thể để tránh giáo điều, máy móc. Lý luận có thể lạc hậu so với thực tiễn,
khi vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của
thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận,
hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận
vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả hoặc không, hoặc kết quả chưa
rõ ràng, trong trường hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực tiễn quy định.
Tính năng động của lý luận đòi hỏi phải điều chỉnh lý luận cho phù hợp với
thực tiễn.
16
1.1.2. Biểu hiện của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy lý luận chính trị
Thứ nhất, thực tiễn giảng dạy lý luận chính trị phải được hướng dẫn
bởi một lý luận khoa học nếu không sẽ rơi vào thực tiễn mù quáng, vòng vo.
Trong công tác giảng dạy lý luận chính trị thì nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thực tiễn công tác
giảng dạy lý luận chính trị luôn đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, điều
đó đòi hoạt động này cũng phải luôn được dẫn dắt bởi một hệ thống tri thức lý
luận khoa học và lý luận dạy học khoa học, tiến bộ. Có như vậy, công tác
giảng dạy lý luận chính trị mới thật sự đảm bảo được đúng nội dung, phương
pháp, cũng như đảm bảo những mục tiêu mà học phần cần hướng tới, góp
phần tạo khả năng tiếp thu tốt nhất cho người học, cũng như tạo cảm hứng
cho cả người học và người dạy.
Các môn lý luận chính trị gồm: Môn Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối cách mạng của Đảng
cộng sản Việt Nam. Đây là những môn học có tính khái quát hóa, trừu tượng
hóa cao; là môn học mang đậm tính đảng, thể hiện ró tính giai cấp và là môn
học mang tính định hướng chính trị sâu sắc.
Để giảng dạy các môn lý luận chính trị đạt hiệu quả cao, trước hết,
trong quá trình giảng dạy lý luận chính trị, đòi hỏi người giảng viên cần nắm
vững hệ thống tri thức khoa học mang tính khái quát, trừu tượng, tính đảng
của những môn học này. Bên cạnh đó đòi hỏi người giáo viên còn phải có vốn
sống thực tiễn hết sức đa dạng, phong phú và một phương pháp giảng dạy linh
hoạt, phù hợp với từng môn học, bài học và phù hợp với từng đối tượng người
học. Các môn lý luận chính trị có vai trò đặc biệt quan trong trong sự nghiệp
giáo dục nói chung, trong việc giáo dục tư tưởng, phẩm chất chính trị, năng
lực tư duy lý luận cho sinh viên nói riêng. Chính vì vậy, trong bản thân môn
lý luận chính trị đòi hỏi sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
17
Trong nội dung môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin bao gồm lý luận khoa học về những quy luật phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy, về cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân bị áp bức, bóc lột;
về phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa; lý luận khoa học về xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đây là những lý luận được hình thành từ lâu, có quá trình kế
thừa, bổ sung và phát triển một cách sáng tạo, trở thành nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, lý luận khoa
học của môn học khi được giảng dạy vừa phải đảm bảo tính hệ thống, đầy đủ,
chính xác, với những tri thức trừu tượng nhưng cũng cần giải thích rõ từng
nội dung để làm giàu tính khoa học của nó.
Môn tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận khoa học về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam như lý luận về dân tộc thuộc địa, cách mạng
giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; lý luận về Đảng cộng sản Việt Nam; lý luận về đại đoàn kết dân tộc, về
nhà nước của dân, do dân, vì dân; lý luận về văn hóa, đạo đức và xây dựng
con người mới. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh nước ta, là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại.
Chính vì vậy, khi giảng dạy môn học này, đòi hỏi người giảng viên phải nắm
vững tri thức môn học, đồng thời phải tìm hiểu sâu sắc cuộc đời hoạt động
cách mạng cũng như tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đảm
bảo tính hệ thống, chính xác của tri thức, tránh giải thích lý luận suông, giải
thích vòng vo hoặc kể chuyện, dẫn chứng lan man.
Với môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, là những
lý luận khoa học về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách
mạng giải phóng dân tộc từ khi Đảng ra đời năm 1930 đến năm 1975, đồng
thời là lý luận khoa học về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trên một số lĩnh vực: công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đường lối xây dựng nền
kinh tế thị thường định hướng xã hội chủ nghĩa; đường lối xây dựng hệ thống
18
chính trị; đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa và giải quyết các vấn đề
xã hội; đường lối đối ngoại. Đây là những tri thức khoa học mang tính lôgic
và tính lịch sử sâu sắc, vì vậy đòi hỏi người giảng viên trong quá trình giảng
dạy phải đảm bảo tính hệ thống, chính xác cũng như tính lịch sử của tri thức
môn học
Cùng với việc nắm vững tri thức khoa học các môn lý luận chính trị
đồng thời đòi hỏi giảng viên cũng phải nắm vững lý luận dạy học để thực hiện
được mục tiêu, chương trình dạy học, góp phần tạo khả năng tiếp thu tốt nhất
cho sinh viên, nhất là sinh viên cao đẳng kỹ thuật. Lý luận dạy học là lý luận
đòi hỏi người giảng viên phải tuân thủ trong quá trình giảng dạy. Tùy từng
môn học, bài học, tùy từng đối tượng học mà giảng viên vận dụng những
phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp; đặt ra mục đích, yêu cầu cho phù
hợp nhất.
Thực tiễn của giảng dạy lý luận chính trị là người giảng viên thực hiện
việc giảng dạy với từng bài, với những đối tượng khác nhau trong những thời
điểm khác nhau nhằm mục đích giáo dục tư tưởng chính trị, góp phần hình
thành thế giới quan khoa học, tư duy biện chứng sáng tạo, nhân sinh quan
cách mạng và đạo đức mới cho sinh viên, từ đó đào tạo nên những con người
xã hội chủ nghĩa vừa hồng vừa chuyên để phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc.
Lý luận và thực tiễn giảng dạy phải thống nhất với nhau, điều đó phụ
thuộc vào cả giảng viên và sinh viên. Đối với người giảng viên lý luận chính
trị, trong quá trình giảng dạy, ngoài việc trang bị tri thức các môn lý luận
chính trị một cách đầy đủ, chính xác đòi hỏi người giảng viên phải gắn với
thực tiễn giảng dạy, bám sát tình hình giảng dạy ở đơn vị mình, nắm chắc về
đối tượng được giảng dạy để có phương pháp, cách thức đúng đắn, giúp sinh
viên hiểu, nắm vững tri thức khoa học các môn lý luận chính trị. Quan trọng
hơn, người giảng viên còn giúp sinh viên biết cách vận dụng lý luận môn học
19
vào cuộc sống. Điều này chỉ thực hiện được khi người giảng viên nắm chắc
được tri thức môn học cũng như nắm chắc và vận dụng sáng tạo những lý
luận dạy học, những nguyên lý giáo dục một cách khoa học, hợp lý, phù hợp
đối tượng.
Đối với sinh viên, cũng cần nêu cao sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong quá trình học tập, tiếp thu tri thức các môn lý luận chính trị. Về
điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Học lý luận không phải để nói
mép… Học để áp dụng vào việc làm. Làm mà không có lý luận thì không
khác nào đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp, vừa vấp váp. Có lý luận thì
mới hiểu được mọi chuyện trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho
đúng, làm cho đúng” [29, tr. 47]. Người chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác Lênin là học tập tinh thần xử trí mọi việc đối với mọi người và đối với bản
thân mình; là học tập những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để
áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta. Học để làm, lý
luận đi đôi với thực tiễn” [32 tr. 292]. Đây là những câu nói ngắn gọn mà sâu
sắc, thông qua đó, Người đã yêu cầu giáo dục lý luận chính trị phải biết gắn lý
luận với thực tiễn cuộc sống, công tác. Để làm được điều này, đòi hỏi sinh
viên phải nắm vững tri thức môn học, đồng thời phải vận dụng một cách sáng
tạo tri thức môn lý luận chính trị vào thực tiễn cuộc sống, vận dụng phương
pháp tư duy biện chứng vào học tập các môn học khác. Thông qua học tập lý
luận chính trị giúp sinh viên tin tưởng hơn vào chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý thức công dân. Để làm
được điều này vai trò của người giảng viên là hết sức quan trọng, họ phải
thấm nhuần những lý luận dạy học khoa học, tích cực, từ đó đem áp dụng,
định hướng cho hoạt động giảng dạy của mình. Điều này cũng sẽ lan tỏa tới
sinh viên, tạo nên một sự thống nhất trong toàn bộ hoạt động giảng dạy, học
tập các môn lý luận chính trị.
20
Thực tiễn giảng dạy cũng không ngừng vận động, biến đổi, do vậy,
cũng luôn đặt ra yêu cầu phải bổ sung, phát triển lý luận giảng dạy và cả
những nội dung của các môn lý luận chính trị cho phù hợp tình hình thực
tiễn. Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đó phải được
thể hiện cả ở sự thống nhất giữa lý luận dạy học với thực tiễn giảng dạy
các môn lý luận chính trị, cũng như được thể hiện trong từng nội dung,
phương pháp giảng dạy môn học này.
Thứ hai, giảng dạy lý luận chính trị phải phản ánh đúng đắn thực tiễn
đất nước, thời đại và được chứng minh bằng thực tiễn nếu không sẽ rơi vào
kinh viện, giáo điều.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn khẳng định tầm quan trọng của việc quán triệt sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn. Người dùng nhiều cách nói khác nhau: “lý luận đi đôi với thực
tiễn” [32, tr. 292], “lý luận phải liên hệ với thực tiễn” [31, tr. 498], “lý luận
cùng thực hành phải luôn đi đôi với nhau” [28, tr. 249]… Dù có nhiều cách
diễn đạt khác nhau nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh chính
là phải nhận thức đúng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Điều này càng đúng đối với việc giảng dạy lý luận chính trị. Các môn
lý luận chính trị với đặc thù là được khái quát hóa, trừu tượng hóa từ thực
tiễn, trải qua quá trình bổ sung, phát triển để ngày càng hoàn thiện hơn. Đồng
thời những tri thức môn học đã trở thành kim chỉ nam cho hành động của con
người, chính vì vậy việc giảng dạy lý luận chính trị phải gắn với thực tiễn và
thông qua giảng dạy lý luận chính trị góp phần giải đáp và làm sáng tỏ hơn
những vấn đề thực tiễn nảy sinh.
Các môn lý luận chính trị có nội dung rất trừu tượng, từ tri thức triết
học Mác - Lênin, kinh tế chính trị Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học
trong môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đến nội dung
21