Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhànước theo Luật ngân sách và thực tế áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.96 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính cốt yếu để Nhà nước điều phối toàn
xã hội, giải quyết những vấn đề khó khăn của đất nước, đem lại sự công bằng cho
người dân. Ngân sách mất cân đối làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế
và kéo theo đó nhiều vấn đề xã hội sẽ nảy sinh như: Thu vào NSNN không đủ chi
dẫn đến nợ nước ngoài nhiều, lạm phát tăng nhanh, không có nguồn tài chính để đầu
tư đúng mức vào hoạt động kinh tế…Cân đối NSNN là một vấn đề phức tạp nhưng
nó có một vai trò quan trọng đối với kinh tế đất nước, đặc biệt khi nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường. Trong nội dung bài viết dưới đây, em xin được đi vào
tìm hiểu đề tài: Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước theo Luật ngân sách và thực tế áp dụng.
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước
Trước hết hãy cùng điểm qua vài nét khái quát về lịch sử hình thành thuật ngữ
ngân sách nhà nước: Ngân sách Nhà nước là một thuật ngữ xuất hiện lần đầu tiên ở
Anh vào thế kỷ 17. Khi đó, ngân sách nhà nước được hiểu là một nguồn quỹ hoặc là
túi tiền của người quản lý ngân khố, nó là toàn bộ những khoản thu chi thuộc về
Nhà nước và do Nhà nước thực hiện. Ngày nay, ngân sách nhà nước được hiểu là
bảng kế hoạch tài chính lớn nhất của một quốc gia bao gồm tất cả các khoản thu chi
phục vụ cho chức năng và nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, thông qua đó đảm bảo
những lợi ích công cộng của xã hội.
Như vậy, có thể thấy, Ngân sách nhà nước là một phạm trù rất rộng và bao quát,
vừa liên quan đến lĩnh vực kinh tế vừa liên quan đến góc độ quản lý Nhà nước:
Về phương diện kinh tế: Ngân sách nhà nước là một khái niệm thuộc phạm
trù kinh tế học hay hẹp hơn là tài chính học. Theo đó, ngân sách nhà nước được hiểu
là bảng dự toán về các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện trong một khoảng thời hạn nhất
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag1




định, thường là một năm. Khái niệm ngân sách nhà nước định nghĩa theo phương
diện này có hai yếu tố được đề cập:
Một là, ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia,
thông qua hành vi kinh tế là xác lập nội dung thu - chi liên quan đến ngân quỹ của
nhà nước. Do đó phải được Quốc hội với tư cách là người đại diện cho toàn thể nhân
dân trong quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi hành trên thực tế để
đảm bảo cho việc thu, chi ngân sách có hiệu quả và phù hợp với người dân.
Hai là, ngân sách nhà nước có hiệu lực trong vòng một năm, tức là việc dự
toán thu, chi đã được đề ra phải hoàn thành trong năm ngân sách đó tính từ ngày
01/01 đến ngày 31/12 hàng năm. Đây là khoảng thời gian mà pháp luật quy định
nhằm giới hạn rõ việc thực hiện dự toán ngân sách nhà nước. Khoảng thời gian này
có thể trùng hoặc không trùng với năm dương lịch tùy theo tập quán của mỗi nước.
Về phương diện pháp lý: Theo quy định tại Điều 1 Luật Ngân sách Nhà nước
thì: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Với quy định này, chúng ta
thấy rằng ngân sách nhà nước chính là một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành,
dự toán về các khoản thu, chi thực hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh
đó đây còn là công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết các
hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là gì?
2.1. Khái niệm
Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước được xem xét trên những khía
cạnh sau:
Xét về bản chất, cân đối trong hoạt động NSN là cân đối giữa các nguồn thu
mà Nhà nước huy động được tập trung vào NSNN trong một năm và sự phân phối,
sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó;
Xét về góc độ tổng thể, cân đối trong hoạt động NSNN phản ánh mối tương

quan giữa hoạt động thu và hoạt động chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag2


tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu
các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của NSNN do các cơ quan có thẩm quyền
thực hiện;
Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối trong hoạt động
NSNN là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa
trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng
và nhiệm vụ được giao.
Như vậy, có thể hiểu: Cân đối trong hoạt động NSNN là một bộ phận quan
trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa
hoạt động thu và hoạt động chi NSNN nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội
mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
2.2. Đặc điểm
Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi
ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nó
vừa là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước, vừa bị ảnh hưởng bởi
các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Cân đối ngân sách nhà nước không phải là để thu chi
cân đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về mặt lượng, mà cân đối ngân sách nhà nước
nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội của Nhà nước, đồng thời các
chỉ tiêu kinh tế - xã hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân sách nhà
nước.
Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các
khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các
cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình trạng ngân
sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước.

Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên liệu.Trong quá
trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số thu, chi
ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng khoản
thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt động
chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách.
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag3


Cân đối ngân sách nhà nước phải dự đoán được các khoản thu, chi ngân sách một
cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
2.3. Vai trò
Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước thực
hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách chi tiêu hàng
năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động kinh tế
cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc thực các mục
tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong
nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự
toán được, …
Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính có
hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước đã lựa chọn
trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt chẽ giữa
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách. Trong
phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân sách nhà nước phân định nguồn thu
một cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau
thì sẽ đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra.
Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm thiểu sự
bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có một điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế - xã hội rất khó khăn

làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, có những vùng
điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc sống của
người dân được nâng lên. Vì vậy cân đối ngân sách nhà nước sẽ đảm được sự công
bằng, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có
thể huy động nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát
triển để hổ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế
kém phát triển. Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phát huy lợi thế
của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương đó dựa trên tiềm
năng có sẳn của địa phương.
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag4


II. NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Nội dung nguyên tắc
Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách Nhà Nước được quy định tại
Điều 8 Luật ngân sách nhà nước năm 2002:
“1. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế,
phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng
cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số
chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách;
2. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc
không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm
bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn;
3. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không
vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu
đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo

đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự
toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh
hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động
không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân
sách cấp tỉnh”.
Theo đó, có thể thấy, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách Nhà nước
bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường
xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn
bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi
ngân sách. Nội dung này của nguyên tắc cân đối đã phân định ranh giới giữa chi đầu
tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính sách tài khóa
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag5


của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên được sử dụng để trang trải chi
thường xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp được sử dụng để
chi đầu tư phát triển, trong đó chi đầu tư phát triển được chú trọng hơn vì nó có thể
làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước nhưng phải đảm bảo được sự
cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, bởi lẽ giữa chúng có mối
quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu công của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là
hoạt động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia, nó tạo ra
những điều kiện cở sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo
theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất
nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi đầu
tư phát triển là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN.

Hai là: Bội chi NSNN được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và nước
ngoài. Vay bù đắp bội chi NSNN phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho tiêu
dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ
động trả hết nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn
đề bội chi ngân sách là không thể tránh khỏi đối với một quốc gia nhưng chưa hẳn
bội chi NSNN là biểu hiện của sự yếu kém của nền kinh tế mà nó còn là một trong
các cách thức tạo ra sự cân đối của hoạt động NSNN trong dài hạn, đảm bảo cho nền
kinh tế - xã hội phát triển và ổn định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho
mục đích phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn
là rất cần thiết để đảm bảo NSNN được cân đối, tận dụng được nguồn vốn vay một
cách có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi không mang tính chất thu hồi
vốn và không tạo ra thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ được để dành cho
mục đích phát triển. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số
chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có
nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp
tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag6


năm dự toán thì được phép huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng
cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
Ba là: Nguyên tắc cân đối này đã tạo cho chính quyền địa phương có được
nhiều ưu thế hơn trong việc quyết định ngân sách cấp mình. Vấn đề cho phép cấp
tỉnh vay nợ là cần thiết, giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn trong
việc tạo ra những điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và đảm
bảo các vấn đề xã hội của địa phương mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này lại được
tính vào thu trong cân đối ngân sách địa phương, do vậy nhìn một cách tổng thể thì

ngân sách địa phương tôn trọng nguyên tắc phải cân bằng thu, chi theo quy định của
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 song thực chất ngân sách địa phương có bội chi
và khoản bội chi này lại không tính vào trong bội chi ngân sách nhà nước. Điều này
dẫn đến sự thiếu minh bạch trong cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra,
việc quy định tỷ lệ tối đa chung cho mọi địa phương là 30% ( trừ Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh) là chưa hợp lý vì mỗi địa phương có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau
nên nhu cầu vay nợ, khả năng quản lý nợ và hoàn trả nợ là khác nhau.
Bốn là: Nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN được thể hiện ở chỗ phải
dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập ngân sách và quản lý chi tiêu công. Điều này
thể hiện trên những nội dung sau:
Về tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính: Để kiểm soát được các nguồn tài
chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối của hoạt động NSNN phải đánh giá đúng
nguồn lực tài chính đó và lựa chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn
lực nhằm đạt được mục tiêu ngân sách đã đề ra. Điều này có nghĩa là, khi cân đối
trong hoạt động NSNN thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường
xuyên cần phải được gắn kết với nhau, trong chi tiêu NSNN cần tập trung chi vào
những khoản cần thiết, chi tiêu tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến
lược mà Chính phủ đề ra.
Về tính linh hoạt và tính tiên liệu: Trong cân đối của hoạt động NSNN,
tính linh hoạt và tính tiên liệu là cần thiết vì nó giúp nhà quản lý đưa ra cách xử lý và
điều phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag7


thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao
quyền cho người quản lý trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính đã thu
được từ các nguồn thu khác nhau mà đất nước có. Tính tiên liệu đóng vai trò quan
trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả. Nội dung này đòi

hỏi nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN phải chú ý đến sự cân đối trong ngắn
hạn và dài hạn và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh mất
cân đối ngân sách nhà nước.
Về tính trung thực: Khi sử dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động
NSNN nên dựa vào những dự toán đã được lập từ thực tế tình hình kinh tế- xã hội
của đất nước mà không có sự thiên vị về vấn đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước.
Những dự toán quá lạc quan sẽ dễ đưa đến sự vi phạm tính kỷ luật tài chính và dẫn
đến việc không thực hiện được những chiến lược, chính sách mà Nhà nước đã đề ra
do ngân sách nhà nước không bảo đảm cân đối trong quá trình hoạt động khi chưa
đưa ra những kế hoạch cụ thể.
Về thông tin, minh bạch và trách nhiệm: Đây là vấn đề rất cần thiết trong
cân đối trong hoạt động NSNN. Thông tin tốt sẽ làm tăng thêm tính trung thực và
giúp người quản lý sẽ đưa ra những quyết định hợp lý. Thông tin chính xác và kịp
thời về chi phí, đầu ra và kết quả đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện cân đối
trong hoạt động NSNN đạt hiệu quả nhất định.
2. Đặc điểm của nguyên tắc
Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách
phản ánh mối quan hệ tương tác giữa các khoản thu và nhiệm vụ chi ngân sách nhà
nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Việc cân đối trong
hoạt động ngân sách không phải chỉ là thu, chi cân đối hoặc chỉ là cân đối về mặt
lượng mà còn nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước,
đồng thời các chỉ tiêu kinh tế - xã hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi
ngân sách nhà nước. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước với
những đặc thù của nó được nhà nước xây dựng trong luật nhằm làm ổn định chính

NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag8



sách tài chính tiền tệ của đất nước, bởi lẽ nó có tác động làm thay đổi hoặc điều
chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước tham gia điều chỉnh sự
cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các khoản thu và các khoản chi, tham gia cân
đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà
nước, đồng thời nguyên tắc này còn có đặc điểm kiểm soát tình trạng ngân sách nhà
nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước với đòi hỏi của nó là nếu có
bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển tiến tới cân bằng thu, chi
trong ngân sách.
Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn là sự bình ổn
nguồn ngân sách, làm cho số bội chi ngân sách nhà nước được cân bằng so với các
nguồn thu để hoàn thiện các nhiệm vụ chi đó. Điều này có nghĩa là, đặc điểm nổi bật
của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước (nguyên tắc ngân sách
thăng bằng) chính là sự định hướng được cho ngân sách nhà nước nếu có bội chi thì
sẽ có cách giải quyết, bình ổn tối ưu, được thể hiện rõ trong khoản 2 Điều 8 Luật
Ngân sách Nhà nước: “Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay
trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm
nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển
và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn”.
Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn đòi hỏi nguồn
vay ngân sách từ trong và ngoài nước sẽ không được sử dụng cho các nhiệm vụ chi
nào khác ngoài nhiệm vụ chi cho đầu tư phát triển vì đây là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu đỏi hỏi phải có nguồn ngân sách thật sự ổn định để thực hiện nhiệm vụ và
khi nhiệm vụ hoàn thành sẽ nhanh chóng có nguồn tài chính để trả nợ. Do vậy, bắt
buộc phải tuân theo đặc điểm này để tránh sự xáo trộn trong hoạt động ngân sách
nhà nước.
3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc cân đối với hoạt động ngân sách nhà nước

NSNN: Ngân sách nhà nước


Trag9


Nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có vai trò thúc đẩy hoặc có khi lại
kiềm chế sự linh hoạt, hiệu quả của hoạt động ngân sách nhà nước của Việt Nam.
Điều này thể hiện, nếu nguyên tắc cân đối này được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo thì nó có tác dụng làm cho hoạt động
ngân sách nhà nước của Việt Nam luôn vận động phát triển theo chiều hướng tích
cực, có nghĩa là hoạt động thu ngân sách và nhiệm vụ chi ngân sách cho những mục
tiêu phát triển của đất nước do có tác động tích cực từ nguyên tắc này sẽ luôn ổn
định và phát triển, không bị xáo trộn bởi sự tác động của các yếu tố nào. Ngược lại,
nếu cơ quan có thẩm quyền mà áp dụng sai quy luật, bản chất của nguyên tắc cân đối
trong hoạt động ngân sách nhà nước thì nó thúc đẩy sự xáo trộn, mất cân đối, ổn
định của các nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể của Việt Nam.
4. Tác động của nguyên tắc cân đối đối với hoạt động ngân sách nhà nước
Về tác động tích cực: Nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có tác động
làm cho hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước của các cơ quan nhà nước được ổn
định. Đồng thời, nguyên tắc cân đối cũng có tác động làm cho hoạt động thu, chi
NSNN không những ổn định mà còn phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là, khi
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu và chi NSNN mà áp
dụng đúng nguyên tắc này cho hoạt động của mình thì khả năng thu và nhiêm vụ chi
ngân sách được tiến hành suôn sẻ không những đã đáp ứng yêu cầu đặt ra mà còn có
khả năng vượt yêu cầu đặt ra, có nghĩa là khả năng thu và nhiệm vụ chi được tiến
hành suôn sẻ không những chỉ trong một năm ngân sách nhất định mà còn có khả
năng được tiến hành suôn sẻ ở những năm ngân sách tiếp theo đó nhờ áp dụng đúng
nguyên tắc cân đối này.
Về tác động tiêu cực: Nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có khả năng
kiềm chế, làm chậm đi quá trình thu, chi NSNN. Khi các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành hoạt động thu, chi ngân sách mà không có sự áp dụng hoặc áp dụng sai bản
chất của nguyên tắc này thì khi đó hoạt động NSNN sẽ không những bị chậm đi mà

còn có khả năng mất ổn định, ảnh hưởng đến việc thực hiện các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội đã có định hướng cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag10


bổ ngân sách nhà nước từ các nguồn thu đó. Hậu quả cuối cùng tất yếu xảy ra khi áp
dụng sai nguyên tắc cân đối sẽ là sự mất định hướng cho việc phân bổ NSNN, các cơ
quan có thẩm quyền sẽ không định ra được kế hoạch sẽ sử dụng nguồn thu này cho
những nhiệm vụ chi cụ thể nào. Đây là sự tác động bất lợi cho sự giàu mạnh của một
quốc gia khi nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN không được quan tâm chú
trọng.
III.THỰC TẾ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
1.Thực tế áp dụng nguyên tắc
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi ngân sách nhà
nước trong hoạt động của mình đã triệt để áp dụng nguyên tắc cân đối theo quy định
của Luật Ngân sách Nhà nước để tạo ra sự cân bằng, ổn định cho NSNN nhằm phục
vụ tốt nhất cho những nhiệm vụ quan trọng của đất nước.
Từ khâu dự toán- khâu đầu tiên trước khi bắt tay trực tiếp vào hoạt động thu,
chi cụ thể, các cơ quan có thẩm quyền trong việc dự toán NSNN cũng đã tuân thủ
nghiêm ngặt nguyên tắc cân đối để đảm bảo cho nguồn ngân sách thực sự cân đối,
ổn định tạo cơ sở cho việc thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể về các lĩnh vực khác
nhau của đất nước phải sử dụng đến ngân sách nhà nước.
Mặc dù việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN đã được tuân
thủ triệt để trong hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực
thu, chi và phân bổ ngân sách nhưng việc áp dụng nguyên tắc này thật sự không đơn
giản mà vẫn có những vướng mắc trong quá trình áp dụng nguyên tắc đó vào thực
tiễn hoạt động. Theo GS-TSKH Tào Hữu Phùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban kinh tế và

ngân sách của Quốc hội: “việc thực hiện nguyên tắc cân đối trong Luật Ngân sách
Nhà nước đã xuất hiện một số vướng mắc, tồn tại, trong đó vấn đề về phạm vi cân
đối và cách tính bội chi NSNN còn có một số điểm chưa rõ ràng, chưa đúng với quy
định của Luật Ngân sách Nhà nước, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Số thu về
phí, lệ phí hiện nay chưa được quy định rõ ràng, khoản nào trong cân đối, khoản
nào ngoài cân đối NSNN, khoản nào hạch toán trong NSNN”.
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag11


Một điểm vướng mắc nữa về thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NSNN của Việt Nam là khi thực hiện việc cân đối NSNN (cân đối các nguồn
thu với nhiệm vụ chi cụ thể của đất nước) thì chúng ta phải quán triệt nguyên tắc
tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên; nếu bội chi
phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển. Nhưng qua kết quả kiểm toán cho thấy một số
khoản thu nêu trên không được tính toán cân đối NSNN mà để lại đơn vị chi tiêu,
khi quyết toán sẽ thực hiện ghi thu, ghi chi vào NSNN. Kết quả kiểm toán cho thấy
khoản phí, lệ phí là con số không nhỏ (ước tính hàng ngàn tỷ đồng) và đây là nguồn
thu ngân sách nhà nước cần phải được đưa vào cân đối, bố trí trong dự toán hàng
năm. Nếu thực tế đó không nhanh chóng được khắc phục thì sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quá trình lên kế hoạch cho việc phân bổ nguồn NSNN của những năm tiếp
theo và như vậy việc cân đối trong ngân sách trong các năm sau đó là không thể đạt
được mà tình trạng đó nếu tiếp tục diễn ra sẽ làm cho nguồn thu và nhiệm vụ chi của
nước ta bị xáo trộn.
2. Đánh giá, nhận xét
2.1. Những thành tựu đạt được
Việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật
Ngân sách Nhà nước 2002 đã làm cho nguồn ngân sách nước ta đạt được ổn định và
không ngừng tăng lượng dự trữ qua các năm. Từ đó, những nguồn thu khác do

nhiệm vụ chi chưa phát sinh hoặc chưa cần thiết nên đã được đưa vào dự trữ trong
ngân sách nhà nước để đáp ứng cho những nhiệm vụ chi mới phát sinh.
Áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam đã
làm cho GDP của Việt Nam đạt tăng trưởng từ năm 2002 là 7%; năm 2003: 7,3%,
năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007 là 8,5%. So với
các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng
trưởng rất cao (theo ). Những con số này luôn tăng
theo các năm là do chúng ta biết cân đối giữa nguồn thu và những nhiệm vụ chi cụ
thể, nói cách khác chúng ta biết sử dụng nguồn thu ngân sách nhà nước để tập trung
đầu tư chi cho những công việc có lợi cho nguồn thu ngân sách.
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag12


Việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước thời gian
qua vào các khâu dự toán ngân sách, thu ngân sách, chi ngân sách nhà nước và quyết
toán ngân sách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam đã góp phần
làm tăng thu nhập bình quân đầu người ở mức 122,5 USD/người, tăng lên 400
USD/người năm 2000 và 637,3 USD/người năm 2005. Con số này đã đạt được 820
USD/người năm 2007. Đời sống của người dân được cải thiện, các vấn đề an sinh xã
hội được đảm bảo hơn (website tapchicongsan.org.vn). Điều này do chúng ta đảm
bảo được nguồn thu cân đối, các nhiệm vụ chi khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau
được giải quyết tốt cho nên nguồn tài chính được sử dụng để chi cho các lĩnh vực xã
hội có bước lũy tiến, có nghĩa là trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, chúng
ta đã có sự cân bằng giữa nhiệm vụ chi cho các công việc ở các lĩnh vực khác với
nhiệm vụ chi cho các lĩnh vực xã hội (chi thường xuyên).
Trong những năm qua, nước ta đã kiểm được mức bội chi NSNN ở giới hạn cho
phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi cho đầu tư phát triển, đây
là một thành công đáng ghi nhận trong vấn đề kiểm soát bội chi NSNN ở nước ta.

Theo thống kê của Cục thống kê (Bộ Tài chính), trong giai đoạn từ năm 2001- 2007,
bội chi NSNN được duy trì ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Vì
vậy, mức thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp, đây chính là kết quả của
những nỗ lực to lớn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động thu,
chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
2.2. Một số hạn chế khi áp dụng nguyên tắc
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NNSN không tránh khỏi một số điểm hạn chế sau:
Tính minh bạch trong cân đối NSNN chưa được vận dụng triệt để khi xác định
tỷ lệ bội chi NSNN. Do tính minh bạch trong cân đối ngân sách không được vận
dụng triệt để nên mặc dù nguyên tắc cân đối này có được áp dụng trong quá trình
thu, chi NSNN nhưng vẫn không thể phát huy được tác dụng làm cân bằng cho ngân
sách để thực hiện những công việc phát sinh trước đất nước, do vậy, không thể định

NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag13


hướng, lên kế hoạch cho quá trình thu, chi ngân sách nhà nước cho những năm ngân
sách sau đó.
Thu NSNN của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu, thu từ các cơ sở kinh doanh. Bên cạnh đó, do là nước xuất khẩu dầu thô nên
thu từ dầu thô cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Thu từ tài sản, từ thuế
thu nhập cá nhân, các khoản phí còn tương đối hạn chế...
Chính vì thế, áp lực cân đối NSNN là rất lớn. Từ những tồn tại nêu trên cho thấy
sự cân đối trong hoạt động NSNN vẫn chưa được đảm bảo triệt để, xuất phát từ
những biến động của nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể cho nên nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN mặc dù được áp dụng nhưng nguyên tắc này vẫn không có
khả năng đảm bảo tuyệt đối cho sự cân đối ngân sách vì những biến động luôn xảy

ra mà không thể kiểm soát được mà nguyên tắc này lại có sự ổn định tương đối nên
không thể chi phối trong mọi trường hợp cụ thể mặc dù hoạt động thu, chi NSNN đã
có áp dụng nguyên tắc này.
IV. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM
Để có thể phát huy nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN ở Việt Nam thì
điều quan trọng nhất là các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành hướng dẫn cụ thể
nguyên tắc này thông qua việc ban hành những văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền
của mình để cho các cơ quan trực tiếp thực hiện thu, chi NSNN ở trung ương và địa
phương hiểu đúng bản chất từ đó áp dụng đúng và hợp lý nguyên tắc này trong hoạt
động của mình thì mới thu được sự cân đối trong NSNN.
Tiếp tục nâng cao năng lực của cán bộ, công chức thông qua những lớp tổ
chức nghiên cứu về nguyên tắc cân đối để cho cán bộ, công chức thật sự hiểu bản
chất của nó và tiến hành áp dụng trong thực tế nguyên tắc này thật sự phù hợp với
bản chất của nguyên tắc nhằm thu được kết quả cân đối tốt nhất.
Cần tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN chưa thật cần
thiết và kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu NSNN để
NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag14


không làm mất cân đối NSNN, không lãng phí nguồn thu NSNN vào những hoạt
động chi không cần thiết, không hiệu quả. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện
cho người dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách
của các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp những thông tin chính
xác, đầy đủ và kịp thời cho người dân biết qua các phương tiện truyền thanh, báo
chí. Có sự phối hợp, giám sát chặt chẽ này giữa Nhà nước và nhân dân sẽ góp phần
thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm của người sử dụng và quản lý NSNN. Từ đó,

nguyên tắc cân đối sẽ được tuân thủ triệt để làm cho NSNN thật sự đạt được cân
bằng, ổn định.
Nguyên tắc ngân sách cân đối phải luôn được nghiên cứu để có những sửa
đổi, bổ sung trong luật phù hợp vớ những biến động của hoạt động ngân sách ở Việt
Nam, nhằm kiểm soát tốt hoạt động thu, chi NSNN.
LỜI KẾT
Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là một vấn đề quan trọng được
đặt ra đối với mỗi nhà nước, nó đảm bảo cho nhà nước thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình. Đặc biệt khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nhà
nước phải phát huy vai trò vượt trội của mình để can thiệp tới vấn đề này nhằm ổn
định tình hình, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào nền kinh tế với
mục tiêu phát triển đất nước. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là một
vấn đề rất quan trọng nhưng lại khá phức tạp. Bởi lẽ, trong bối cảnh thế giới ngày
nay, những thay đổi bất thường trong kế hoạch thu, chi của mỗi quốc gia do sự tác
động của tình hình chiến tranh, nạn khủng bố và thiên tai đang là trở ngại lớn cho
việc thực thi nguyên tắc cân đối ngân sách ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Quá trình tiếp cận đề tài em gặp khó khăn trong việc tìm hiểu nguồn tài
liệu về Ngân sách nhà nước.Sẽ có nhiều thiếu sót trong quá trình phân tích, giải
quyết đề tài, kính mong nhận được ý kiến nhận xét của quý thầy cô.Em xin chân
thành cảm ơn!./.

˜ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO™

NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag15


1.


Trường ĐH Luật Hà Nội. Giáo trình Luật ngân sách nhà nước.

Nxb. CAND. Hà Nội – 2010;
2.

Luật ngân sách nhà nước năm 2002

3.

Nghị định số 60/2003/NĐ - CP ngày 6/6/2003 quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;
4.

Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 hướng dẫn thực

hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách
Nhà nước;
5.

Cân đối ngân sách nhà nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện

-Người thực hiện: Quách Hồng Thơ. Giáo viên hướng dẫn: Lê Huỳnh
Phương Chinh;
6.

Website:




˜ MỤC LỤC™

NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag16


LỜI MỞ ĐẦU:............................................................................................................1
NỘI DUNG:................................................................................................................1
I. KHÁI QUÁT CHUNG...........................................................................................1
1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước………………………...…………………………1
2. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là gì?................................................2
2.1. Khái niệm…………………………………………………………………….….2
2.2. Đặc điểm...............................................................................................................3
2.3. Vai trò....................................................................................................................4
II. NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC................................................ 5
1.Nội dung nguyên tắc.................................................................................................5
2. Đặc điểm của nguyên tắc.........................................................................................8
3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc cân đối với hoạt động ngân sách nhà nước...............9
4. Tác động của nguyên tắc cân đối đối với hoạt động ngân sách nhà nước.............10
III.THỰC TẾ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM...........................................................11
1.Thực tế áp dụng nguyên tắc....................................................................................11
2. Đánh giá, nhận xét..................................................................................................12
2.1. Những thành tựu đạt được...................................................................................12
2.2. Một số hạn chế khi áp dụng nguyên tắc..............................................................13
IV. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Ở VIỆT NAM...........................................................................................................14
LỜI KẾT:..................................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:...............................................................16

NSNN: Ngân sách nhà nước

Trag17



×