Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Các điều kiện có hiệu lực có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành – Một số vấn đề lí luận và thực tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.33 KB, 22 trang )

Bài tập học kì Dân sự 2

Bài làm

Lời mở đầu
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia nhiều
mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc thiết lập với nhau những quan hệ
để thông qua đó chuyển giao cho nhau những lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu
vầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trò to lớn là một tất yếu đối với đời sống
xã hội. Quan hệ trao đổi lợi ích vật chất đó được gọi là hợp đồng. Để thiết lập
một hợp đồng và để nó có hiệu lực cần phải có những quy định nhất định của
pháp luật. Tuy nhiên, có nhiều hợp đồng bị tuyên vô hiệu do các bên không am
hiểu về các điều kiện đó, hoặc do một bên không hiểu biết nên bị bên kia lừa dối,
hoặc do nhầm lẫn... Do vậy, cần phải tìm hiểu về cá điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng để có thể xem xét và thiết lập một hợp đồng không trái với pháp luật và
mang lại hiệu quả cao nhất cho bản thân. Trong khuôn khổ bài tập lớn, em xin
trình bày quan điểm của mình về vấn đề :”Các điều kiện có hiệu lực có hiệu lực
của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành – Một số
vấn đề lí luận và thực tiến”

Nội dung
I.

Một số vấn đề lí luận chung về điều kiện có hiệu lực của hợp

đồng dân sự
1.
Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự
1.1.
Khái niệm
Trong quá trình sản xuất cũng như trong cuốc sống hàng ngày, không thể thiếu


được đó là sự giao lưu dân sự, đó là sự chuyển giao tài sản, quyền tài sản hoặc
thực hiện một dịch vụ nào đó giữa người này với người khác, giữa tổ chức này
với tổ chức khác, giữa pháp nhân này với pháp nhân khác. Sư giao lưu đó được
thực hiện thông qua thỏa thuận giữa các bên, trên cơ sở đó pháp luật buộc các
1|Page


Bài tập học kì Dân sự 2

bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đó. Sự thỏa thuận đó được gọi là hợp
đồng. Khái niệm hợp đồng dân sự cần phải được xem xét trên nhiều phương
diện khác nhau. Theo phương diện khách quan, thì hợp đồng dân sự là do các
quy phạm pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ cac
hội phát sinh trong dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà trong
đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Điều 388 BLDS năm 2005
đã định nghĩa về khái niệm hợp đồng dân sự :”Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Sự thỏa thuận là yếu tố bắt buộc phải có trong hợp đồng. Không thể có hợp đồng
nếu không có sự thỏa thuận giữa các bên. Song, nếu sự thỏa thuận của các bên
không nhằm tạo ra mục đích tạo lập ra hiệu lực pháp lí thì cũng không hình
thành hợp đồng. Điều 1101 Bộ dân Luật của Pháp quy định :”khế ước là một
hiệp ước (hợp đồng) do một hoặc nhiều người cam kết với một hay nhiều người
khác để cho, để làm hay không làm một việc gì”. Bộ Dân luật Bắc kì 1931 cũng
quy định:” Hiệp ước là một hay nhiều người hiệp ước với nhau lại để lập ra hay
chuyển đi, đổi lại hay tiêu đi một quyền lợi thuộc về việc hay về người…”. Pháp
lệnh về Hợp đồng dân sự cũng đã đưa ra khái niệm tuy nhiên đầy đủ và khái
quát nhất là khái niệm hợp đồng dân sự được quy định tại BLDS năm 2005.
Khái niệm hợp đồng dân sự có thể được xem xét trên ba phương diện : là căn cứ,

là sự kiện pháp lý – giao dịch dân sự nhằm mục đích xác lập, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự; là chính quan hệ pháp luật phát sinh từ sự kiện pháp lý
– giao dịch dân sư đó; là hình thức ghi nhận quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên
dưới dạng văn bản. Tuy nhiên, không phải lúc nào hợp đồng dân sự cũng được
thể hiện dưới dạng văn bản.
1.2.
2|Page

Đặc điểm của hợp đồng dân sự


Bài tập học kì Dân sự 2

Hợp đồng dân sự có các đặc điểm cơ bản sau:
-

Hợp đồng dân sự có sự thỏa thuận của các bên

Khi nói đến hợp đồng bao giờ cũng nói đến sự thỏa thuận ít nhất của hai bên
( bên bán tài sản và bên mua tài sản, bên thuê tài sản và bên cho thuê tài
sản…). Hợp đồng là giao dịch dân sự, nhưng không phải mọi giao dịch dân sự
đều là hợp đồng bởi lẽ “giao dịch dân sự có thể là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quyền , nghĩa vụ dân
sự” (Điều 121 BLDS), mỗi bên của giao dịch dân sự có thể là một hoặc nhiều
bên, có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác.
Hợp đồng được tạo lập là do sự hợp tác của hai hay nhiều bên, giữa các bên
có sự thỏa thuận, sự thỏa thuận này đủ đê lập nên hợp đồng. Sự thỏa thuận
đó không cần phải theo bất cứ một công thức nào nhưng để có sự thỏa thuận
thì các bên phải thể hiện ý chí của mình ra bên ngoài dưới một hình thức
nhất định làm cho bên kia có thể nhận biết được.

Hợp đồng chỉ được thành lập khi có sư thỏa thuận của các bên. Sự thỏa
thuận này phải liên quan đến bản chất của hợp đồng. Nếu một người muốn
bán tài sản mà bên kia lại tưởng là người đó muốn cho thuê tài sản thì không
phải là hợp đồng. Có một số hợp đồng không hề có sự biểu hiện của sự bàn
bạc thỏa thuận giữa các bên, dường như là một bên ấn định điều khoản cho
bên này, tuy nhiên, thực chất trong hợp đồng đó các bên đã ngầm hiểu và
công nhận các điều khoản đó rồi.
-

Hợp đồng dân sự là căn cứ làm thay đổi, phát sinh, thay đổi hoặc

chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Sự thỏa thuận của các bên mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để hình
thành hợp đồng. Muốn được pháp luật thừa nhận sự thỏa thuận đó là hợp
đồng thì sự thỏa thuận đó phải làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền
3|Page


Bài tập học kì Dân sự 2

và nghĩa vụ dân sự. Có những sự thỏa thuận không làm phát sinh một nghĩa
vụ pháp lí nào, đó là trường hợp các bên thỏa thuận theo quy chế luật định
như việc kết hôn có thỏa thuận nhưng không phải là hợp đồng. Vì mục đích
hai người nam nữ kết hôn với nhau không làm phát sinh hay chấm dứt một
nghĩa vụ dân sự nào mà chỉ mong muốn được lập gia đình, tự đặt mình vào
sự chi phối của các quy chế do Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định. Hoặc
trường hợp một người nhờ bạn chở hộ đồ nhưng trên đường đi do bị trượt
chân mà bị rơi vỡ đồ thì không thể nói giữa hai người đó phát sinh một hợp
đồng vận chuyển hàng hóa được để đòi bồi thường thiệt hại.
2.


Khái niệm , ý nghĩa pháp lí của điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

dân sự
2.1.
Khái niệm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
Pháp luật coi trọng việc tự do thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, sự tự do ấy
phải trong khuôn khổ của pháp luật. Tức là, giới hạn sự tự do ý chí của các
chủ thể khi giao kết hợp đồng bao giờ cũng được đặt ra trong mối liên hệ với
lợi ích của người khác, lợi ích của xã hội và trật tự cộng đồng. Nếu để các bên
tự do vô hạn thì hợp đồng đó không khác gì công cụ bóc lột cuả người giàu
với người nghèo, kẻ mạnh chà đạp kẻ yếu, lợi ích chung của xã hội bị coi
thường. Nếu các hợp đồng chỉ dựa trên ý chỉ của cá nhân thì hợp đồng đó đã
thoát khỏi sự điều chỉnh của pháp luật. Vì thế, một hợp đồng chỉ có giá trị
pháp lí, được pháp luật coi trọng và bảo vệ khi ý chí của các bên phù hợp với
ý chí của nhà nước. Những giới hạn nhất định cho quyền tự do ý chí cuẩ các
bên chủ thể được gọi là những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự.
Theo Từ điển Luật học, “điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự là các yếu
tố cần và đủ được pháp luật quy định cho giao dịch dân sự để giao dịch dân
sự đó được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
bên”.
4|Page


Bài tập học kì Dân sự 2

Theo quy định tại điều 122 BLDS về Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự thì “ Để giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
Người tham gia giao dịch có năng lực trách nhiệm hành vi dân sự
Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,

không trái với đạo đức xã hội
Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong những trường hợp pháp luật quy định”.
Hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự do đó có thể hiểu điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự cũng là những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
dân sự, đó là những điều kiện do pháp luật quy định mà một hợp đồng muốn
phát sinh hiệu lực phải thỏa mãn.
Theo quy định tại Điều 122 và Điều 410 BLDS 2005 thì để một hợp đồng dân
sự có hiệu lực cần phải có những điều kiên sau
+ Về chủ thể, người tham gia phải có năng lực hành vi dân sự
+Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật
và không trái với đạo đức xã hội.
+ Người tham gia phải hoàn toàn tự nguyện
+Tuân thủ điều kiện về hình thức của hợp đồng trong trường hợp pháp luật
có quy định.
2.2.

Ý nghĩa pháp lí của việc quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp

đồng dân sự

5|Page


Bài tập học kì Dân sự 2

Việc quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa to lớn đối với
việc xác lập hợp đồng và giải quyết các hậu quả pháp lí của nó
-


Việc quy định này tạo hành lang pháp lí an toàn cho các chủ thể

tham gia hợp đồng. Khi các bên tham gia hợp đồng có quyền tự do, tự
nguyện tham gia hợp đồng nhưng sự tự do đó ở trong khuôn khổ pháp
luật. Pháp luật quy định rõ nếu các bên trong hợp đồng không tuân thủ
các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì chế tài đối với hành vi đó là hợp
đồng đó bị vô hiệu, các bên tham gia sẽ phải chịu hậu quả bất lợi cho
mình. Quy định này của pháp luật đã tạo ra hành lang pháp lí an toàn cho
các bên tham gia giao kết hợp đồng dân sự, đồng thời bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các bên trong hợp đồng.
Đây là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng dân sự.
Khi tham gia vào quan hệ hợp đồng dân sự, các bên chủ thể phải đáp ứng
những quyền và nghĩa vụ nhất định. Đặc biệt, sự thỏa thuận của các bên
sẽ ghi trong hợp đồng, do đó, nếu bên nào vi phạm thì dựa vào hợp đồng
để giải quyết. Hợp đồng là căn cứ pháp lí quan trọng và cơ bản để giải
quyết các tranh chấp đó. Ngoài ra, quy định của pháp luật về điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng cũng là một căn cứ pháp lí không thể thiếu trong
quá trình giải quyết tranh chấp. Bởi lẽ bên cạnh sự thỏa thuận thì pháp
luật cũng quy định những điều khoản cần thiết để bảo vệ lợi ích hợp pháp
của các bên liên quan. Ví dụ như trong hợp hợp đồng được giao kết do bị
ép buộc thì hợp đồng đó sẽ bị tuyên vô hiệu, và quyền lợi của người bị ép
buộc xác lập hợp đồng đó được bảo vệ.
Việc quy định này cũng góp phần ổn định quan hệ dân sự nói riêng
và quan hệ pháp luật nói chung. Các quy định về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng là cơ sở pháp lí buộc các chủ thể tham gia hợp đồng phải thực
hiện, từ đó có thể hạn chế được tình trạng áp đặt, mỗi hợp đồng lại có
những quy định khác nhau tùy nghi theo các chủ thể khác nhau. Lúc đó, sẽ
6|Page



Bài tập học kì Dân sự 2

gây ra sự phức tạp trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp
đồng.
Nhiều nước trên thế giới cũng đưa ra những quy định về điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng. Như Bộ Luật Dân sự Pháp, tại Điều 1108 có quy định các điều
kiện đó là:
+Các bên phải hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận
+Các bên giao kết đầy đủ năng lực giao kết hợp đồng
+Đối tượng của hợp đồng phải được xác định
+Căn cứ của hợp đồng phải hợp pháp
Đó là những điều kiện để hợp đồng dân sự có hiệu lực.
II.

Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự và hậu quả

pháp lí của việc không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng theo quy định của pháp luật
1.
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của
pháp luật hiện hành
1.1.
Điều kiện về năng lực chủ thể
Pháp luật dân sự không có điều khoản nào quy định rõ về chủ thể của hợp
đồng dân sự. Tuy nhiên, với bản chất của một giao dịch dân sự, ta có thể hiểu
chủ thể của hợp đồng dân sự là một cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, các chủ thể kể
trên phải có khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và
nghĩa vụ dan sự.

-

Chủ thể cá nhân

Đây là chủ thể phổ biến và thường xuyên nhất của các giao dịch dân sự, đặc
biệt là hợp đồng dân sự. Theo quy định tại Điều 17 BLDS 2005 thì :” năng lực
7|Page


Bài tập học kì Dân sự 2

hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”. Và tại khoản 1 Điều 122 BLDS
cũng có quy định điều kiện của giao dịch dân sự là phải có sự tự nguyện của
cá nhân. Quy định này là hết sức cần thiết bởi lẽ bản chất của hợp đồng là sự
thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể khi tham gia hợp đồng. Luật
Dân sự Việt Nam quy định mỗi cá nhân ở mỗi độ tuổi khác nhau sẽ có năng
lực hành vi dân sự khác nhau và có khả năng tham gia xác lập và thực hiện
những hợp đồng khác nhau. Quy định này giống với Luật pháp của các nước
nhưng khác về độ tuổi. Ở BLDS Việt Nam thì người đủ mười tám tuổi trở lên
là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (Điều 18, Điều 19 BLDS) trừ
những trường hợp quy định tại Điều 22 BLDS. Còn theo quy định của các
nước Thái Lan, Nhật Bản thì độ tuổi có năng lực hành vi dân sự dầy đủ là 20
tuổi.
Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền tham gia xác lập
một hợp đồng dân sự nào đó và họ phải tự chịu trách nhiệm về hợp đồng mà
mình đã xác lập. Những người này có đầy đủ tư cách chủ thể, toàn quyền
tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách
nhiệm về những hành vi do họ thực hiện. Những người từ đủ mười tám tuổi
trở lên được suy đoán là người có năng lực hành vi đầy đủ. Họ chỉ bị mất

nằng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có quyết
định của Tòa án về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
Đối với người từ độ tuổi 15 đến dưới 18 tuổi thì có năng lực hành vi dân sự
chưa đầy đủ hay nói cách khác là có năng lực hành vi dân sự một phần. Theo
Điều 20 BLDS thì :”
Người từ đủ 6 đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân
sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch phục vụ cho

8|Page


Bài tập học kì Dân sự 2

nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy
định khác
Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng đủ để thực hiện nghĩa
vụ được xác lập , thực hiện giao dịch và phải chịu trách nhiệm trong phạm vi
tài sản họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”
Như vậy, họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những
nghĩa vụ khi tham gia các hợp đồng để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu
hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Người đại diện của những cá nhân này có
thể yêu cầu tuyên bố một hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên thực
hiện mà không cần sự đồng ý của họ và Tòa án xem xét trong những trường
hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu đó tại Điều 130 BLDS. Những hợp đồng nào
mà người đại diện không tuyên vô hiệu thì mặc nhiên nó có hiệu lực.
Theo khoản 2 Điều 20 BLDS thì người đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể xác
lập hợp đồng dân sự trong phạm vi tài sản của họ mà không cần có sự đồng ý
của người đại diện. Quy định như vậy không có nghĩa là pháp luật thừa nhận
người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi là người có năng lực dân sự đầy đủ mà
vẫn coi họ là những người có năng lực hành vi dân sự một phần bởi lẽ họ chỉ

được thực hiện những giao dịch phù hợp với lứa tuổi. Ví dụ như hợp đồng
vay tiền tại ngân hàng thì chủ thể phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên.
Đối với người dưới 6 tuổi, họ là người chưa có năng lực hành vi dân sự do đó
mọi giao kết hợp đồng đều phải thông qua người đại diện.
Đối với người mất năng lực hành vi thì mọi hợp đồng dân sự của những
người này đều phải do người đại diện xác lập. Còn đối với người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự thì các hợp đồng dân sự liên quan đến tài sản của họ
phải có sự đồng ý của người đại diện, trừ những hợp đồng nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên, nhu cầu sinh hoạt hằng ngày ở đây
9|Page


Bài tập học kì Dân sự 2

không được hiểu là nhu cầu mua rượu uống đối với người nghiện rượu, hay
nhu cầu mua ma túy đối với người nghiện ma túy.
Đối với cá nhân là người nước ngoài , theo quy định tại Điều 762 BLDS
thì :”năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định
theo pháp luật của nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật
của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác
Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự
tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác lập
theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
-

Chủ thể là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác

Pháp nhân là chủ thể của hợp đồng dân sự. Pháp nhân là những tổ chức theo
quy định tại Điều 84 BLDS:” được thành lập hợp pháp, có cơ cấu chặt chẽ, có
tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản

đó, nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”
Pháp nhân tham gia các hợp đồng dân sự với tư cách là một chủ thể độc lập,
bình đẳng với các chủ thể khác, cho nên pháp nhân phải có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân
xuất hiện cùng một lúc vào thời điểm thành lập pháp nhân và chấm dứt khi
pháp nhân chấm dứt hoạt động.
Năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài được quy định tại Điều 765
BLDS.
Theo quy định tại Điều 106 BLDS thì :” Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản
chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật
quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”
10 | P a g e


Bài tập học kì Dân sự 2

Việc quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ gia đình phát triển
và bảo vệ lợi ích chính đáng của hộ gia đình khi tham gia vào các quan hệ dân
sự. Như vậy việc BLDS công nhận hộ gia đình là chủ thể của hợp đồng dân sự đã
thể hiện sự thống nhất giữa pháp luật đất đai và pháp luật dân sự.
Tổ hợp tác là chủ thể của hợp đồng dân sự. Tổ hợp tác được quy định tại Điều
111 BLDS.
Các chủ thể này khi tham gia vào hợp đồng dân sự đều phải thông qua người đại
diện. Người đại diện của các chủ thể này phải là người đã thành niên và có năng
lực dân sự đầy đủ. Theo đó, đại diện của pháp nhân là người đứng đầu pháp
nhân, đại diện hộ gia đình là chủ hộ, đại diện của tổ hợp tác là tổ trưởng do các
thành viên bầu ra
-


Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Đây là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự. Nhà nước tham gia vào
một số quan hệ dân sự , Nhà nước nắm quyền định đoạt đối với các tài sản mà
pháp luật quy định thuộc chế độ sở hữu toàn dân. Nhà nước giao quyền của
mình cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền quản lí các tài sản, giao cho các
tổ chức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản của
nhà nước, quy định về trình tự, giới hạn thực hiện các quyền đó.
1.2.

Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng dân sự

Mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt
được khi xác lập giao dịch đó. Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các
điều khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuân trong hợp đồng. Những điều
khoản này xác định quyền, nghĩa vụ của các bên phát sinh từ giao dịch. Mục đích
và nội dung của hợp đồng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Con người xác lập, thực
hiện hợp đồng dân sự luôn nhằm được mục đích nhất định. Muốn đạt được mục

11 | P a g e


Bài tập học kì Dân sự 2

đích đó thì họ phải cam kết, thỏa thuận với nhau về nội dung, những nội dung ấy
để đạt được mục đích của hợp đồng.
Tại điểm b khoản 1 Điều 122 BLDS có quy định “mục đích và nội dung của giao
dịch không vi phạm điều cấm và không trái với đạo đức xã hội”. Để hợp đồng
dân sự có hiệu lực thì mục đích và nội dung của hợp đồng không được vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp

luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những
hành vi nhất định. Theo quy định trong BLDS 1995 thì mục đích và nội dung của
hợp đồng không được trái pháp luật, quy định như thế này không khả thi vì nói
như vậy chung chung, dễ tạo ra kẽ hở cho những người muốn lợi dụng để chuộc
lợi về mình. Quy định như BLDS 2005 là cụ thể và đầy đủ nhất. Để xác định mục
đích của chủ thể, không chỉ dựa vào các yếu tố chủ quan mà còn phải dựa vào
các yếu tố khách quan khi lập như có thể hiện ý chí chủ quan của chủ thể không,
có bị lừa dối, nhầm lẫn… Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung
giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn
trong. Chỉ những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm pháp
luật và không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của hợp đồng dân sự. Ngược
lại với điều đó thì hợp đồng sẽ vô hiệu. Ví dụ như hợp đồng đẻ thuê, đây là hợp
đồng có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm và trái với đạo đức xã hội, nên
không thể có hiệu lực. Hành vi này là hành vi vi phạm pháp luật và có thể sẽ bị
xử lí theo Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Như vậy, mục đích và nội dung là hai yếu tố quan trọng không thể thiếu được
khi xác lập một hợp đồng dân sự, thiếu đi hai yếu tố này thì hợp đồng vô hiệu.
1.3.

Điều kiện về ý chí của chủ thể

Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho
nên tự nguyện bao gồm hai yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chỉ.Không
có tự do ý chí và không có bày tỏ ý chí thì không thể có tự nguyện. Nếu một trong
12 | P a g e


Bài tập học kì Dân sự 2

hai yếu tố này thống nhất thì cũng không thể có tự nguyện. Vi phạm sự tự

nguyện là vi phạm pháp luật. Do vậy, hợp đồng dân sự thiếu đi sự tự nguyện thì
không làm phát sinh hậu quả pháp lí. Hợp đồng thỏa mãn sự tự nguyện là khi
các chủ thể tự nguyện xác lập, lựa chọn hình thức, đối tượng của hợp đồng, các
điều khoản nội dung của hợp đồng là kết quả của sự thống nhất ý chí của các
bên mà không có bất kì sự đe dọa cướng é, nhầm lẫn, giả tạo nào.
Các trường hợp thiếu sự tự nguyện:
-

Giao kết Hợp đồng dân sự do bị giả tạo

Đặc điểm của hợp đồng này là các bên trong hợp đồng đó hoàn toàn tự nguyện
xác lập, nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí thực của họ. Ví dụ như
bên mua muốn mua nhà của bên bán để ở, nhưng bên bán lại muốn bán căn nhà
đó với mục đích để tẩu tán tài sản.
Có hai trường hợp giả tạo. Thứ nhất là xác lập một hợp đồng dân sự để che giấu
một hợp đồng khác. Ví dụ như giao kết hợp đồng tặng cho để che giấu hợp đồng
gửi giữ. Thứ hai là hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba. Ví dụ như các bên giao kết hợp đồng tặng cho, nhưng thực chất hợp đồng
tặng cho đó là để trốn tránh nghĩa vụ của hợp đồng vay…
-

Giao kết Hợp đồng dân sự do nhầm lẫn

Đây là việc các bên hình dung sai về nội dung của hợp đồng mà tham gia vào
giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc bên kia. Sự nhầm lẫn này xuất phát từ
nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc, sự nhầm
lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung hợp đồng phải xác định
được. Có nhiều trường hợp nhầm lẫn khác nhau. Do đó, cần phải xác định để có
thể biết hợp đồng có vô hiệu hay không
-


13 | P a g e

Giao kết Hợp đồng dân sự do bị lừa dối, đe dọa.


Bài tập học kì Dân sự 2

Lừa dối là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về
chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập
giao dịch đó.
Đe dọa là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia sợ hãi
mà phải giao kết hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
danh dự…của mình hoặc của cha , mẹ, vợ, chồng. Ví dụ như A đe dọa B phải
bán căn nhà hai mặt tiền cho mình với giá như nhà bình thường nếu không
thì sẽ làm hại đến mẹ của B…Hành vi đe dọa phải nghiêm trọng và có thực.
Hành vi đe dọa có thể xuất phát từ phía đối tác hoặc cũng có thể là từ người
thứ ba. Những hợp đồng dân sự đó sẽ bị vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa
dối hoặc bị đe dọa. Bên bị lừa dối, bị đe dọa sẽ được bồi thường những thiệt
hại mà bên lừa dối, đe dọa đã gây ra.
-

Giao kết hợp đồng trong trường hợp người xác lập không nhận

thức và làm chủ được hành vi của mình
Trường hợp này chỉ áp dụng đối với người có năng lực hành vi dân sự. Tại
thời điểm giao kết nếu người đó bị rơi vào tình trạng không nhận thức và
làm chủ bản thân thì sau đó chính người đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố vô hiệu.
II.4.


Điều kiện về hình thức

Hình thức của hợp đồng là phương tiện thể hiện nội dung của hợp đồng.
Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết
được nội dung của hợp đồng đã xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong tố tung dân sự. Nó là chứng cứ để xác nhận quan hệ
đã, đang tồn tại giữa các bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có vi
phạm xảy ra.

14 | P a g e


Bài tập học kì Dân sự 2

Hợp đồng dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng hành vi, bằng văn
bản cụ thể. Người xác lập hợp đồng có quyền lựa chọn hình thức của hợp
đồng trừ một số trường hợp pháp luật có quy định khác buộc các bên trong
hợp đồng phải tuân thủ điều kiện về hình thức.
Theo quy định tại Điều 401 BLDS thì “hợp đồng dân sự có thể được giao kết
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định
đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng
văn bản có công chứng hoặc chứng thực thì phải đăng kí hoặc phải xin phép
thì phải tuân theo các quy định đó”
-

Hình thức miệng

Đây là hình thức phổ biến nhất trong xã hội hiện nay, mặc dù hình thức giao

kết hợp đồng này có độ xác thực thấp nhất. Hình thức này thường được áp
dụng đối với các hợp đồng được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó., ví
dụ như hợp đồng mua một mớ rau ở chợ, mau một quyển vở, cái bút.
-

Hình thức viết ( bằng văn bản)

Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung của hợp đồng, cá bên có thể
ghi nhận hợp đồng thông qua một văn bản. Trong văn bản đó thể hiện đầy đủ
nội dung của hợp đồng và cùng kí teenn vào văn bản.
+ Đối với hình thức văn bản thông thường. trong văn bản này các bên không
cần phải công chứng chứng thực, chỉ cần thể hiện nội dung của hợp đồng
trong đó. Hình thức này an toàn hơn so với hình thức hợp đồng miệng
+Văn bản có công chứng chứng thực, đây là hình thức hợp đồng có độ an
toàn cao nhất. Hình thức này thường được áp dụng đối với những hợp đồng
có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp. Các bên phải lập văn bản đối với
15 | P a g e


Bài tập học kì Dân sự 2

hợp đồng và phải đem đi công chứng chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền.
+Ngoài ra, hợp đồng còn có thể được thể hiện thông qua một hành vi cụ thể.
Ví dụ như mua nước ngọt bằng máy tự động, gọi điện thoại tự động… Đây là
hình thức giản tiện nhất của hợp đồng và đang được áp dụng phổ biến tại
các nước phát triển.
Như vậy, có bốn điều kiện cơ bản để hợp đồng dân sự có hiệu lực. Riêng về
điều kiện hình thức, trong một số trường hợp phải tuân thủ điều kiên này.
Bốn điều kiện này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi xem xét tính hiệu lực

của hợp đồng phải xem xét cả bốn điều kiện và còn phải căn cứ vào từng hợp
đồng cụ thể, chứ không thể chỉ dựa vào Điều 122 BLDs để quy hợp đồng dân
sự có hiệu lực hay vô hiệu được.
2.

Các hậu quả pháp lí của việc không tuân thủ các điều kiện có hiệu

lực của hợp đồng dân sự
Pháp luật đã quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự, đồng
nghĩa với đó là các hợp đồng không tuân thủ điều kiện có hiệu lực đó thì nó
sẽ bị vô hiệu, không có hiệu lực.
Hậu quả chung của việc không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng là hợp đồng đó sẽ chấm dứt việc thực hiện hợp đồng., khi hợp đồng bị
vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ khi thời điểm
giao kết, về nguyên tắc các bên khắc phục lại tình trạng ban đầu.
Trong trường hợp có biện pháp bảo đảm thì sẽ xử lí theo quy định tại Nghị
định 163/2006/ NĐ-CP về giao dịch bảo đảm :”
1. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện
hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần
16 | P a g e


Bài tập học kì Dân sự 2

hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm
không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt
thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm

chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.
4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không
làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
5. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại
khoản 1 và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản
bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.”
Trong mối liên hệ đối với quyền và lợi ích của người thứ ba thì:
+Nếu tài sản không thuộc sở hữu của chủ thể giao kết hợp đồng mà thuộc sở
hữu của người thứ ba thì nếu người chiếm hữu bất hợp pháp và ngay tình thì
phải trả lại tài sản đó cho người thứ ba, nếu người chiếm hữu bất hợp pháp
và không ngay tình mà tài sản là động sản thì người thứ ba kiện người đã
mượn, thuê, mua tài sản, nếu tài sản là bất động sản thì người thứ ba kiện
đòi người sở hữu tài sản ấy.
+Nếu nội dung của hợp đồng liên quan đến quyền và lợi ích của người thứ ba,
nếu hợp đồng bị vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ đó không phát sinh.

17 | P a g e


Bài tập học kì Dân sự 2

+Nếu người thứ ba hưởng lợi ích từ hợp đồng vô hiệu thì không phát sinh
quyền và lợi ích đó.
+Nếu người thứ ba tiếp nhận đối tượng hoặc kết quả của hợp đồng vô hiệu
thông qua giao dịch thì sẽ xử lí theo Điều 138 BLDS( Bảo vệ quyền và lợi ích
của người thứ ban gay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu)
III.


Thực tế áp dụng pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của

hợp đồng dân sự, một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
1.
Quy định về năng lực hành vi của người tham gia hợp đồng dân sự.
Bộ Luật Dân sự quy định người từ đủ mười tám tuổi trở lên mới có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ. Tức là không cần phải thông qua người đại diện. Tuy
nhiên, trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam thì lại có quy định là nữ từ
18 tuổi trở lên có quyền kết hôn. Tức là khi người phụ nữ kết hôn ở tuổi mười
tám thì họ chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tức là việc giao kết hợp
đồng dân sự của họ phải thông qua người đại diện. Điều này là không phù
hợp với thực tế và như vậy là không công bằng đối với người phụ nữ. Thực tế
đã có rất nhiều trường hợp xảy ra trong thực tế khi người vợ tham gia một
hợp đồng dân sự nào đó vì lợi ích của gia đình nhưng người chồng lại buộc
Tòa án tuyền vô hiệu vì không đồng ý và với lí do là vợ mình chưa đủ mười
tám tuổi. Như vậy, giữa hai quy định pháp luật này có sự không thống nhất
với nhau. Việc này sẽ gây ra nhiều tranh cãi và không thuận tình giữa các
thành viên trong gia đình. Đây là một vướng mắc lớn của Bộ luật Dân sự.
Theo ý kiến cá nhân, để có thể giải quyết vướng mắc trên, nên thay đổi một
chút về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Bộ luật Dân sự nên thêm quy
định riêng đối với phụ nữ bước sang tuổi 18 khi kết hôn cũng được
xem là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Như vậy, quy định của
pháp luật về vấn đề này sẽ hoàn thiện hơn và phù hợp với thực tế hơn.
2.
18 | P a g e

Quy định về điều kiện ý chí chủ thể



Bài tập học kì Dân sự 2

Thứ nhất, giao kết hợp đồng do nhầm lẫn. Bộ luật dân sự cho rằng giao dịch
dân sự chỉ bị tuyên bố vô hiệu nếu như sự nhầm lẫn xảy ra do lỗi vô ý của bên
đối tác theo Điều 131 BLDs, còn nếu như chính bên bị nhầm lẫn có lỗi thì hợp
đồng dân sự không bị vô hiệu, hai bên vẫn tiếp tuc thực hiện hợp đồng. Còn
trong BLDS năm 1995 thì hợp đồng dân sự có thể tuyên bố vô hiệu do nhầm
lẫn bất kể đó là lỗi của ai( Điều 141 BLDS 1995). Theo BLDS năm 1995 thì
hợp lí hơn, bởi lẽ về nguyên tắc, chỉ cần có sự nhầm lẫn là có thể vô hiệu rồi vì
nó không đáp ứng được những yêu cầu về sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ
ý chí. Còn việc xác định lỗi thuộc về ai chỉ nhằm giải quyết vấn đề hậu quả
phát sinh khi giao dịch vô hiệu.
Hơn nữa, hiện nay không có một khái niệm nào về nhầm lẫn được quy định
trong BLDS. Nếu BLDS không đưa ra khái niệm về nhầm lẫn làm cơ sở thì có
thể dẫn đến tình trạng Tòa án lạm quyền tuyên vô hiệu đối với hợp đồng.
Một vấn đề nữa là mức độ nhầm lẫn, nếu nhầm lẫn gây ra hậu quả nghiêm
trọng thì sẽ bi tuyên vô hiệu, còn những trường hợp nhầm lẫn không mấy
nghiêm trọng thì nên để hợp đồng đó tiếp tục diễn ra. Ví dụ như khi mua thịt,
người mua hàng chỉ muốn mua 3 lạng thịt mà người bán hàng lại nhầm lẫn
với vị khách hàng khác và bán cho 4 lạng thịt, người mua không mua nữa và
trả lại, đó là điều không hợp lí.
Do vậy, theo ý kiến bản thân, BLDS nên bổ sung khai niệm nhầm lẫn, nên
thừa nhận nhầm lẫn song phương như trong BLDs năm 1995 và nên
quy định mức độ nhầm lẫn để tuyên vô hiệu đối với hợp đồng
Thứ hai, giao kết hợp đồng trong trường hợp bị đe dọa, lừa dối.
Bộ luật dân sự năm 2005 đã thu hẹp phạm vi nhưng người thân thích hơn so
với BLDS năm 1995. Theo quy định tại Điều 132 BLDS 2005 thì “…bên kia
buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
19 | P a g e



Bài tập học kì Dân sự 2

danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha mẹ, vợ chồng, con
của mình”. Quy định như vậy không phù hợp. Bởi lẽ so với phạm vi những
người thân thích như trong BLDs năm 1995 thì phạm vi những người được
bảo vệ trong BLDS năm 2005 đã hạn hẹp hơn rất nhiều. Nếu một người đe
dọa gây hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm của anh
ruột, chị ruột, em ruột hay của vợ sắp cưới hay chồng sắp cưới để buộc mình
phải giao kết hợp đồng thì hợp đồng đó cũng không bị tuyên vô hiệu. Như vậy
là không phù hợp và không bảo vệ được lợi ích chính đáng của những người
có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Do đó, theo ý kiến cá nhân thì nên giữ nguyên phạm vi những người thân
thích như trong BLDS năm 1995.
Trong việc giao kết hợp đồng do bị lừa dối, Điều 132 BLDS chỉ quy định về
hành vi cố ý của một người hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia
hiểu sai về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân
sự nên đã xác lập giao dịch đó. Tức là trong trường hợp người này làm người
kia hiểu sai về mục đích của hợp đồng thì cũng không bị coi là vô hiệu?? Đó là
một bất cập của BLDS, thực tế có rất nhiều người vì mục đích muốn người
khác giao kết hợp đồng với mình mà đã làm trái đi mục đích của hợp đồng. Ví
dụ như trường hợp một chương trình nghệ thuật nhỏ có thu vé, họ kí hợp
đồng biểu diễn với mục đích thu vé là để lấy tiền đó quyên góp cho một quỹ từ
thiện nào đó, nhưng thực tế thì toàn bộ số tiền vé thu được ấy không hề được
quyên góp cho một quỹ từ thiện nào cả. Người xem đến rất đông vì họ nghĩ là
đây là chương trình nhằm quyên góp từ thiện. Như vậy, rõ ràng đây là
trường hợp bị lừa dối về mục đích, nhưng lại không bị tuyên là vô hiệu do
pháp luật không có quy định nào về vấn đề này.
Trên đây là một số suy nghĩ về thực tế áp dụng của BLDS 2005 về điệu kiện có
hiệu lực của hợp đồng. BLDS cần phải điều chỉnh một số điều khoản cho phù hợp

20 | P a g e


Bài tập học kì Dân sự 2

hơn với thực tiễn áp dụng và tạo nên một hệ thống pháp luật chặt chẽ, quy củ,
từ đó các bên không thể lợi dụng những kẽ hở của luật pháp để mua lợi về mình.

Lời kết
Qua sự trình bày những hiểu biết của mình về vấn đề điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng và thực tiễn áp dụng, có thể thấy rằng vai trò của việc quy định các
điều kiện này đối với các chủ thể của hợp đồng là rất lớn, nó đã tạo ra những
căn cứ pháp lí quan trong để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham
gia hợp đồng dân sự. Do đó, để hợp đồng có hiệu lực, các chủ thể cần phải tuân
thủ các quy định của pháp luật, có như vậy mới hạn chế được những tranh chấp
về hợp đồng xảy ra giữa các chủ thể. Tuy nhiên, do các quan hệ xã hội ngày càng
phát sinh phong phú và đa dạng, do đó đòi hỏi Luật pháp phải dự liệu trước để
có thể áp dụng được mọi lúc mọi nơi, trên nền những cơ sở đó BLDS có thể hoàn
thiện hơn, để thực sự là công cụ pháp lí quan trọng đối với các quan hệ pháp
luật dân sự, đặc biệt là chế định hợp đồng.

21 | P a g e


Bài tập học kì Dân sự 2

22 | P a g e




×