Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………….....2
I. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………..2
II. Cơ sở pháp lý…………………………………………………………..3
B. PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………..3
I. Lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng..3
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì?..........................3
2. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng…………....4
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại…………………………………...…….6
II. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường….…7
1. Hành vi làm ô nhiễm môi trường…………………………………..…....7
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường….………8
III. Thực trạng về bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi
trường ở Việt Nam hiện nay……………………………………………….15
1. Thực trạng về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường ở Việt
Nam……………………………………………………………………….…15
2. Nguyên nhân của những bất cập về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường ở Việt Nam……………………………………………..……….17
3. Một số kiến nghị, đề xuất……………………………………..………..17
C. PHẦN KẾT LUẬN………………………………………...…………19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………...…………20
1
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội hằng ngày, chúng ta có thể gặp rất nhiều hành vi
xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác… mà giữa họ không có một giao
kết hợp đồng nào hoặc có hợp đồng nhưng việc xâm phạm đó lại không thuộc
phạm vi của hợp đồng. Và khi có thiệt hại xảy ra thì người gây thiệt hại phải
cvó trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Trường hợp này
được gọi là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng không do những hành vi trái pháp luật gây ra, mà còn là
trách nhiệm do súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra.
Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường được pháp luật
ghi nhận lần đầu tiên tại Luật Bảo vệ môi trường (Luật BVMT) năm 1993,
theo đó “tổ chức, cá nhân gây tổn hại môi trường do hoạt động của mình phải
bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”. Nhưng phải đến khi Luật
BVMT (2005) được ban hành, vấn đề này mới được đề cập một cách rõ ràng
hơn. Với việc dành riêng 5 điều cho các quy định về bồi thường thiệt hại do ô
nhiễm (từ Điều 131 đến Điều 135, Mục 2, Luật BVMT năm 2005) đã thể
hiện một bước tiến đáng kể trong quá trình “hiện thực hóa” nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải trả tiền - một nguyên tắc được xem là đặc trưng của lĩnh
vực môi trường. Tuy nhiên, để có thể áp dụng được trách nhiệm này một cách
đầy đủ trên thực tế, pháp luật môi trường cần phải quy định rõ ràng, cụ thể
hơn nữa việc xác định các thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây nên, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường. Trong phạm vi bài viết này, em xin
đề cập đến vấn đề: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường”.
II. Cơ sở pháp lý
2
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
- Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 29-11-2005,
có hiệu từ ngày 01/7/2006 là văn bản pháp luật chủ yếu trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường, thay thế Luật bảo vệ môi trường năm 1993.
- Nghị định 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về
việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi
trường.
- Ngày 31/12/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số
117/2009/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường. Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/3/2010 và thay thế Nghị
định số 81/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nghị định quy định
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, hình thức, mức
xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả; thẩm quyền va thủ tục xử phạt…
- Điều 624 Bộ Luật dân sự 2005 quy định “Cá nhân, pháp nhân và các
chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo
quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường
không có lỗi.
- Ngày 17/6/2004 Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt
hại do ô nhiễm dầu 1992 có hiệu lực tại Việt Nam - Ngoài các căn cứ pháp lý
nói trên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường còn
được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác như Bộ luật Hàng hải
2005, Luật khoáng sản 1996 (các điều 64, 65), Luật tài nguyên nước 1998
(Điều 71)
3
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì?
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn gọi là là trách
nhiệm dân sự do gây thiệt hại. Sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật
là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách
nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của người gây ra thiệt hại phải bồi
thường cho người bị thiệt hại về tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, các quyền và lợi ích hợp pháp mà giữa người gây thiệt hại và
người bị thiệt hại không có giao kết hợp đồng hoặc có hợp đồng nhưng hành
vi gây thiệt hại không thuộc phạm vi của hợp đồng.
2. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung
và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có 4
điều kiện được quy định tại Nghị quyết số 03/2006/HĐTP – TANDTC ngày
08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt
hại:
2.1. Phải có thiệt hại xảy ra:
Thiệt hại được hiểu là sự giảm bớt những lợi ích của người xác định
được trên thực tế.
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh
thần.
- Thiệt hại về vật chất bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy
định tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm quy định tại
khoản 1 Điều 609 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại
Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy
định tại khoản 1 Điều 611 BLDS.
- Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm
4
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
phạm mà người thân thích, gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương,
buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc uy tín, bị bạn bè xa lánh do
hiểu nhầm… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà
họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không
phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị
xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị
hiểu nhầm và phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải
chịu.
2.2. Phải có hành vi trái pháp luật:
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện
thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp
luật.
Người gây thiệt hại có hành vi trái pháp luật thì người đó phải bồi
thường. Pháp luật loại trừ những hành vi sau tuy có gây ra thiệt hại nhưng
không bị coi là trái pháp luật: gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng, trong
trường hợp bất khả kháng, trong tình thế cấp thiết, trong sự kiện bất ngờ.
2.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái
pháp luật.
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và
ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Hành vi phải là nguyên nhân của thiệt hại và nguyên nhân bao giờ cũng
làm phát sinh một kết quả hoặc nhiều kết quả.
2.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại:
Người gây thiệt hại cho dù có lỗi cố ý hoặc vô ý đều phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại. Người gây thiệt hại không bị coi là có lỗi trong các trường
hợp bất khả kháng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ và người bị thiệt hại có
lỗi.
5
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
- Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc
không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
- Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước
thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường
thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt
hại trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm
pháp luật đó.
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
3.1. Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều
605 BLDS. Cần phải tôn trọng thoả thuận của các bên về mức bồi thường,
hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thoả thuận đó không
trái pháp luật, đạo đức xã hội.
3.2. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì khi giải quyết
tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần chú ý:
a. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải
quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS
quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản nào và
thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây
thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó.
b. Để thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Toà án phải giải quyết
nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong
trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm
6
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của
đương sự.
c. Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ
hai điều kiện sau đây:
- Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại;
- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài
của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi
thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ
không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần thiệt hại đó.
d. Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là
do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức
bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc
do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị
thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi
đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại…
II. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
1. Hành vi làm ô nhiễm môi trường
Theo quy định tại Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005: “1. Môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có
ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
sinh vật.
2. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như
đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình
thái vật chất khác.”
Theo qui định trên, hành vi làm ô nhiễm môi trường được hiểu là những
hành vi tác động đến các yếu tố của môi trường và gây ô nhiễm các yếu tố đó
làm tổn hại đến các yếu tố nguyên thuỷ của môi trường dẫn đến thiệt hại về
tài sản, sức khoẻ, tính mạng của người khác. Và cũng theo giải thích thuật
ngữ tại Điều 3 Luật bảo vệ môi trường, thì các hành vi sau đây của con người
7
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
là nhân tố gây ra ô nhiễm môi trường: Trong quá trình sản xuất, kinh doanh,
sinh hoạt, dịch vụ và các hoạt động khác đã thải ra chất thải ở dạng rắn, khí,
lỏng hoặc các dạng khác mà các chất đó là những nhân tố làm cho môi trường
trở nên độc hại. Hành vi gây ô nhiễm môi trường là hành vi làm thay đổi tính
chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn của môi trường. Trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh, trong sinh hoạt, hành vi của con người đã làm ô nhiễm môi
trường dẫn đến suy thoái môi trường, làm thay đổi chất lượng và số lượng của
thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và
thiên nhiên.
Như vậy, hành vi gây ô nhiễm môi trường là nguyên nhân làm ảnh
hưởng xấu đến đời sống của con người và thiên nhiên. Người có hành vi gây
ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
2.1 Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường:
Căn cứ vào điều 4 của Luật Bảo vệ môi trường 2005 và điều 624 Bộ
luật Dân sự 2005, chúng ta có thể hiểu chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là những cá nhân, tổ chức.
Các tổ chức từ khi thành lập đã có năng lực pháp luật, có năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi các tổ chức khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật môi trường mà có hành vi làm ô nhiễm môi trường dẫn tới gây
thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình.
Các tổ chức có thể là pháp nhân (chẳng hạn, doanh nghiệp Nhà nước, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các viện nghiên cứu…) hoặc tổ chức
khác không phải là pháp nhân (doanh nghiệp tư nhân…)
Đối với cá nhân, những người đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi đầy
đủ thì tự mình phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu
không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu
8
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
bằng tài sản của họ. Người dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha
mẹ phải bồi thường thiệt hại toàn bộ. Nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi
thường mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản riêng đó để bồi thường phần còn
thiếu cho người bị hại.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại
mà có cá nhân, tổ chức giám hộ thì cá nhân đó được dùng tài sản của người
được giám hộ để bồi thường. Nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc
không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài
sản của mình. Nhưng người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi
trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Trong thực tế, các chủ thể gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là các doanh
nghiệp. Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh do không có thiết bị xử lý chất
thải, hoặc không tuân thủ các quy định khác về bảo vệ môi trường… nên đã
làm suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường. Như vậy, chủ thể “tiềm tàng”
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trước hết là các cơ sở kinh doanh, các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
2.2 Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường:
Người có hành vi xâm phạm môi trường phải bồi thường thiệt hại. Hành
vi gây ô nhiễm môi trường là hành vi có lỗi hoặc không có lỗi. Theo qui định
Điều 624 BLDS, người gây ô nhiễm môi trường cho dù là có lỗi hoặc không
có lỗi đều có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường cần có đủ 3 điều kiện. Thứ nhất, có
hành vi gây ô nhiễm môi trường. Hành vi đó đã tác động đến các yếu tố của
môi trường gây ra ô nhiễm. Thứ hai, hành vi gây ô nhiễm môi trường có mối
quan hệ nhân quả với môi trường bị gây ô nhiễm xác định được và thiệt hại
do ô nhiễm môi trường gây ra. Thứ ba, những thiệt hại về môi trường do hành
vi xâm phạm môi trường gây ra xác định được dựa trên những thiệt hại đã xảy
ra và thiệt hại chắc chắn xảy ra cho môi trường, môi trường bị gây thiệt hại là
cầu nối dẫn đến thiệt hại khác.
9
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
Người gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại theo trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, người đó còn phải chịu trách nhiệm hình sự
trong những trường hợp gây ô nhiễm về không khí, nguồn nước, đất theo quy
định tại Điều 182 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009.
Hành vi gây ô nhiễm không khí, nguồn nước, đất là “thải vào không khí,
nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường, phát tán bức xạ, phóng xạ
vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng
hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng
khác, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường thuộc loại
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo pháp luật dân sự, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường phát sinh khi có các điều kiện sau
đây:
a. Có thiệt hại xảy ra:
Đây là điều kiện mang tính chất tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, bởi mục đích của việc áp dụng trách nhhiệm này là khôi phục tình trạng
tài sản, sức khoẻ… cho người bị thiệt hại. Các thiệt hại do ô nhiễm môi
trường gây nên có thể bao gồm những thiệt hại sau đây:
Theo quy định tại Điều 131 Luật BVMT (2005), có hai loại thiệt hại sau:
Thứ nhất, thiệt hại đối với môi trường tự nhiên. Đó là sự suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường. Có thể hiểu sự suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường xảy ra khi: Một là, chất lượng của các yếu tố môi
trường sau khi bị tác động thấp hơn so với tiêu chuẩn về chất lượng môi
trường; hai là, lượng tài nguyên thiên nhiên bị khai thác, sử dụng lớn hơn
lượng được khôi phục (đối với tài nguyên tái tạo) hoặc lớn hơn lượng thay thế
(đối với tài nguyên không tái tạo được); ba là, lượng chất thải thải vào môi
trường lớn hơn khả năng tự phân hủy, tự làm sạch của chúng. Thiệt hại do môi
10
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
trường bị xâm hại gây ra và trực tiếp gây thiệt hại cho người khác xác định
được theo những tổn hại thức tế ngay sau khi môi trường bị xâm hại và những
thiệt hại gián tiếp chắc chắn xảy ra xác định được trên cơ sở khách quan.
Thiệt hại do môi trường bị xâm hại gây ra cần phải xác định hai mối quan hệ
mật thiết với nhau, thiệt hại này là nguyên nhân của thiệt hại kia và hành vi
gây ô nhiễm môi trường là nguyên nhân của thiệt hại mang tính chất bắc cầu,
được biểu hiện như sau: Thứ nhất, hành vi xâm hại môi trường là nguyên
nhân làm cho môi trường bị gây ô nhiễm; Thứ hai, môi trường bị gây ô nhiễm
có mối liên hệ với thiệt hại xác định được.
Thứ hai, thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường gây ra. Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con
người được thể hiện qua các chi phí để cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục
hồi các chức năng bị mất của người bị hại và các khoản thu nhập thực tế bị
mất, bị giảm sút do bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe có nguyên nhân từ ô
nhiễm, suy thoái môi trường. Ví dụ: khi môi trường sống bị ô nhiễm (ô nhiễm
nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất…) sức khoẻ con người bị giảm sút, bị
mắc các bệnh về đường hô hấp, đường tiêu hoá… Thiệt hại do tài sản bị xâm
phạm. Đó có thể là: tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng, thiệt hại gắn liền với
việc thu hẹp hoặc mất những lợi ích gắn liền với việc không sử dụng, không
khai thác hoặc bị hạn chế trong việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản;
những chi phí để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại. Ví dụ: nguồn nước và
không khí bị ô nhiễm, đồng cỏ bị nhiễm độc do các chất thải của các cơ sở
công nghiệp làm cho các gia súc, gia cầm bị ốm, bị chết gây thiệt hại cho
nhân dân. Các khu du lịch do bị ô nhiễm mà phải đóng cửa dẫn đến bị thất thu
và nguồn lợi nhuận bị suy giảm…Còn thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân được thể hiện qua sự tổn hại về lợi ích vật chất, sự giảm sút về
thu nhập chính đáng mà nguyên nhân là do sự suy giảm chức năng, tính hữu
ích của môi trường.
11
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
Những thiệt hại do hành vi làm cho môi trường bị ô nhiễm đã dẫn đến
những thiệt hại không những về mặt thực tế, mà còn là những nguy cơ tiềm
ẩn lâu dài tồn tại trong không gian và thời gian nhất định, có thể gây thiệt hại
rất lớn, lâu dài cho con người và môi trường tự nhiên. Những thiệt hại do
hành vi làm ô nhiễm môi trường phải dựa vào những căn cứ khoa học của
nhiều chuyên ngành để xác định, theo những số liệu thống kê được và qua
phân tích mức độ môi trường bị ô nhiễm, để có căn cứ xác định thiệt hại.
Thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường có thể dẫn đến những thiệt hại
rất lớn, có thể ảnh hưởng lâu dài đến các thế hệ sau, như hành vi: phá hoại,
khai thác trái phép hoặc khai thác không có kế hoạch rừng đầu nguồn, nguồn
nước đầu nguồn làm nguồn nước nhiễm bẩn, nhiễm độc bầu khí quyển…
Hành vi gây ô nhiễm môi trường đã dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến quyền,
lợi ích của các nhà sản xuất, gây độc hại cho người tiêu dùng, đặc biệt trong
lĩnh vực thực phẩm, lương thực và nguyên liệu sản xuất dược phẩm…Hành vi
gây ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của nhiều
ngành nghề như du lịch, dịch vụ và sản xuất, lưu thông phân phối sản phẩm
cũng như các dịch bệnh tiềm ẩn từ môi trường bị gây ô nhiễm không thể xác
định được hết trong một thời gian ngắn.
Thiệt hại do môi trường bị phá vỡ do bị nhiễm độc, nhiễm bẩn là những
thiệt hại được xác định ngay sau khi có hành vi làm ô nhiễm môi trường, mà
còn là những thiệt hại vẫn đang và sẽ diễn ra theo phản ứng dây chuyền, sự
vân động của môi trường khách quan và xã hội. Những hành vi gây ô nhiễm
môi truờng có thể bị chấm dứt hoặc người có hành vi tác động gây ô nhiễm
môi trường không thực hiện hành vi ô nhiễm môi trường nữa nhưng hậu quả
của hành vi đó vẫn diễn biến theo một quy luật bảo tồn và biến hoá năng
lượng, tạo ra những phản ứng dây truyền gây thiệt hại cho người khác( như
thải chất độc xuống nguồn nước sinh hoạt, tàn phá môi trường sống của động
vật hoang dã, tàn phá rừng đầu nguồn…Một sự việc cụ thể: công ty Vedan
hoạt động sản xuất đã xả chất thải ra dòng sông Thị Vải làm ô nhiễm
12
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
nguồn nước khiến cho nhiều diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị ảnh hưởng
nặng nề, sản lượng đánh bắt thuỷ sản của bà con ngư dân trên dòng sông
này giảm dần từ năm 2002.
b. Hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.
Người có hành vi gây ô nhiễm môi trường đã thực hiện các hành vi trái
pháp luật hoặc hành vi trái pháp luật hoặc hành vi trong sản xuất kinh doanh,
làm dịch vụ hợp pháp nhưng đã gây ô nhiễm môi trường gây thiệt hại cho
chính môi trường và gây thiệt hại cho người khác. Hành vi gây thiệt hại về
môi trường là hành vi làm biến dạng sinh thái vốn có tự nhiên của môi trường,
làm cho nguồn nước không thể sử dụng được hoặc làm cạn kệt nguồn nước tự
nhiên dẫn đến nhiễm bẩn nguồn nước, sa mạc hoá một nguồn nước nguyên
thuỷ như đầm, ao, hồ, dòng sông, suối…đã gây những khó khăn cho người
khác trong sinh hoạt, trong sản xuất, kinh doanh hoặc gây cho nguồn không
khí trong lành một không gian nhất định bị nhiễm độc, là nguy cơ trực tiếp
gây tổn hại đến sức khoả của con người, vật nuôi, cây trồng và cảnh quan
thiên nhiên, cảnh quan nhân tạo khác.
c. Có lỗi của chủ thể gây thiệt hại
Những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường rất đa dạng phong
phú. Hành vi có lỗi hay không có lỗi của con người xâm hại môi trường vừa
là nguyên nhân trực tiếp, vừa là nguyên nhân gián sâu xa gây thiệt hại. Hành
vi xâm hại môi trường là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại cho môi trường,
môi trường bị thiệt hại đã tác động trực tiếp đến sự sống và gây thiệt hại cho
sự sống của muôn loài.
Ví dụ : hành vi đốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi gây
thiệt hại đến môi trường, làm mất cân bằng sinh thái; thải khói, bụi, khí độc,
mùi hôi thối gây hại vào không khí; phát bức xạ, phóng xạ quá giới hạn cho
phép vào môi trường xung quanh; chôn vùi, thải vào đất các chất thải độc hại
quá giới hạn cho phép; thải dầu mỡ, hoá chất độc hại, chất phóng xạ quá giới
hạn cho phép, các chất thải, xác động vật,thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn và
13
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
gây dịch bệnh vào nguồn nước; nhập khẩu công nghệ, thiết bị không đáp ứng
tiêu chuẩn môi trường; nhập khẩu, xuất khẩu chất thải…Vi phạm các quy
định về bảo về nguồn tài nguyên thiên nhiên như các quy định về bảo vệ
rừng, khai thác; Vi phạm các quy định về vệ sinh công cộng như quy định về
vận chuyển và xử lý chất thải, rác thải;Vi phạm các quy định về bảo quản và
sử dụng các chất dễ gây ô nhiễm;…
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm chỉ được loại
trừ trong trường hợp người bị hại có lỗi. Điều này có nghĩa là trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường nếu người bị thiệt hại
không có lỗi thì trách nhiệm bồi thường luôn luôn đặt ra đối với người làm ô
nhiễm môi trường. Thậm chí, trong một số trường hợp cụ thể trách nhiệm bồi
thường thiệt hại không được loại trừ ngay cả khi người gây ô nhiễm môi
trường không có lỗi. Khoản 2 điều 627 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định:
“Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại kể cả khi không có lỗi”. Quy định này
cần được áp dụng khi giải quyết các tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do các
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như các phương tiên giao thông vận tải, các
nhà máy công nghiệp đang hoạt động, các lò phản ứng hạt nhân, các nhà máy
điện nguyên tử, kho chưa vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất dễ cháy, chất phóng
xạ… Trong thời gian qua sự cố tràn dầu từ các phương tiện giao thông đường
thuỷ đã làm ô nhiễm môi trường với diện rất rộng, gây nhiều thiệt hại cho
nhân dân, tổ chức khu vực xung quanh.
d. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường.
Thiệt hại thực tế xảy ra là kết quả của hành vi vi phạm pháp luật. Hoặc
nói một cách khác, hành vi vi phạm pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại
xảy ra. Trong quá trình xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường cần làm sáng tỏ mối quan hệ này.
14
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
Là một loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường có một số điểm khác với trách nhiệm
phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng như sau:
- Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường là
các quy định của pháp luật về hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật của chủ
thể, không cần có sự thỏa thuận trước của các bên.
- Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường việc
thực hiện bồi thường thiệt hại sẽ làm chấm dứt nghĩa vụ còn trong nghĩa vụ
hợp đồng thì việc bồi thường thiệt hại không làm cho người có nghĩa vụ được
giải phóng khỏi trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách thực tế như giao vật,
thực hiện công việc…
- Trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực môi trường chỉ có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại chứ không có hình thức vi phạm.
- Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường có
trường hợp không có lỗi vẫn phải chụi trách nhiệm, nếu pháp luật có quy
định.
Xác định thiệt hại do môi trường bị xâm hại gây ra rất phức tạp, vì có
những nguy cơ tiềm ẩn, chưa gây ra thiệt hại ngay lập tức hoặc là những thiệt
hại thực tế đã bộc lộ xác định được là một nguy cơ, thậm chí còn là nguy cơ
rất lớn gây ra thiệt hại khó lường trong tương lại xa hoặc trong một thời gian
gần, cần có nhiều cơ quan chuyên môn cùng kết hợp trong việc xác định mức
độ môi trường bị xâm hại gây thiệt hại.
III. Thực trạng về bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi
trường ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng về bồi thường thiệt hai do làm ô nhiễm môi trường ở
Việt Nam
Pháp luật bắt đầu từ cuộc sống và đáp ứng những đòi hỏi từ cuộc sống và
đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống, nhưng không thể điều chỉnh toàn bộ
hoặc toàn vẹn những quan hệ phát sinh trong xã hội. Do vậy, còn nhiều vấn
15
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
đề lien quan đến việc xác định trách nhiệm dân sự do hành vi xâm hại môi
trường gây ra cần phải được bàn luận về khoa học, để cơ quan lập pháp lưu ý
khi ban hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
nói chung và trách nhiệm do hành vi xâm hại môi trường nói chung, để điều
chỉnh có hiệu quả những tranh chấp phát sinh liên quan đến môi trường. Việc
xác định những yếu tố lien quan đến hành vi xâm hại môi trường, căn cứ vào
thực trạng còn tồn tại trong pháp luật chưa thể điều chỉnh được đầy đủ và trọn
vẹn.
Pháp luật chỉ quy định trách nhiệm của người gây ô nhiễm môi trường
phải bồi thường những thiệt hại xảy ra trên cơ sở xác định được thiệt hại đó,
theo nguyên tắc gây thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của người có hành vi gây thiệt hại vẫn được áp dụng dựa
trên những thiệt hại xác định được dù là thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp.
Nhưng nguyên tắc này chỉ phù hợp với những thiệt hại về vật chất đơn thuần,
mà không phù hợp trong việc áp dụng đối với hành vi xâm hại môi trường. Vì
hành vi xâm hại môi trường thì phạm vi và thời gian gây thịêt hại có thể rất
lớn và rộng hơn rất nhiều lần so với thiệt hại đơn thuần( trong mối quan hệ
không gian và thời gian). Sự tiềm ẩn của những nguy cơ do môi trường bị
xâm hại gây ra là rất lớn và lâu dài, có thể đơn vị thời gian thiệt hại đó không
thể xác định được chính xác theo ngày, tháng năm cụ thể mà còn có thể diễn
biến theo chiều hướng xấu trong nhiều năm tiếp theo.Thiệt hại mang tính chất
phản ứng dây truyền mà không bộc lộ bằng những hiện tượng dễ nhận biết
như những thiệt hại do hành vi trái pháp luật khác gây ra( một tài sản bị tiêu
huỷ, một gia súc bị làm chết hoặc bị gây thương tích…). Thiệt hại do xâm hại
môi trường gây ra vừa là những thiệt hại thực tế xác định được ngay tạo thời
điểm có thiệt hại xảy ra, và những thiệt hai chắc chắn sẽ xảy ra trong tương
lai, mà tại thời điểm xác định thiệt hại không thể nhận biết được. Như: rừng
đầu nguồn bị tàn phá, hành lang và thành luỹ chắn gió, chắn lũ bị phá vỡ là
điều kiện cho nguồn nước mưa đầu nguồn tự do lưu thong xuống hạ lưu gây
16
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
ra ngập lụt, cuốn trôi mọi thứ dưới hạ nguồn. Thiệt hại này do nguyên nhân
sâu xa gây ra là hành vi xâm hại môi trường trước đó do rừng đầu nguồn bị
tàn phá, và đa số mọi người nghĩ là do tự nhiên , do thiên tai gây ra. Hay
trong sản xuất tạo ra vật chất, người ta đã thải ra chất khí, chất thải độc hại
làm ô nhiễm cả một dòng song, sự sống trong môi trường đó đều bị tác động
theo hướng bất lợi và những thiệt hại lâu dài sẽ phát sinh gây tổn hại đến sự
phảt triển của sự sống nói chung. Con người khai thác nguồn nước ngầm thiếu
kế hoạch và không khoa học đã làm cạn kiệt cả một dòng song, gây hạn hắn
cả một lưu vực song đó, sự sống của con người bị đe doạ không chỉ vì thiếu
nguồn tưới tiêu, thiếu nguồn nước dung cho sinh hoạt, sản xuất khác..Những
thiệt hại đó là vô cùng lớn, nguyên nhân do hành vi xâm hại môi trường gây
ra, nhưng người gây ô nhiễm môi trường là ai thì không hẳn bao giờ cũng có
thể xác định được.
Bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra theo qui
định của pháp luật hiện hành chỉ là trách nhiện dân sự đơn thuần và mang tính
tương đối, không đúng với nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng là gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu,
bồi thường toàn bộ và kịp thời.
2. Nguyên nhân của những bất cập về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
Không hẳn bao giờ cũng có thể xác định được người gây ra ô nhiễm môi
trường. Do thói quen của mỗi người trong xã hội, vì cuộc sống tự lập và tự lo
cho chính cuộc sống của mình, của gia đình mình, của tập thể, của cộng đồng
đã tìm kiếm nguồn vật chất bằng cách tác động vào tự nhiên với mục đích thu
lợi nhuận, có lợi cho mình mà không cần biết hậu quả của hành vi đó gây hại
cho môi trường thế nào. Hành vi gây ô nhiễm môi trường của cá nhân, tập
thể, của cộng đồng đều có lỗi và theo đó trách nhiệm thuộc về ai đã không thể
xác định được. Với mục đích thu được những lợi nhuận vào nhất, lợi ích trước
mắt mà người ta đã quên những vấn đề quan trọng khác bị mất giá trị, xét về
17
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
mọi mặt, lớn hơn nhiều lần so với lợi ích thu được của người có hành vi xâm
hại môi trường theo phương thức tiêu cực. Tình trạng “cha chung không ai
khóc” , môi trường là một mái nhà chung, mái nhà chung bị ô nhiễm là
nguyên nhân trực tiếp và sâu xa gây ra những thiệt hại trước mắt và lâu dài
cho toàn xã hội mà chẳng mấy được quan tâm.
3. Một số kiến nghị, đề xuất
Để khắc phục thực trạng trên, giúp cho việc áp dụng pháp luật trong kĩnh
vực bồi thường thiệt hại có hiệu quả, em xin đưa ra một số kiến nghị:
Để làm cho pháp luật dân sự cần thiết phải được ban hành theo nguyên
tắc chung và đặc thù trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô
nhiễm môi trường gây ra theo nguyên tắc được định hướng dưới đây:
- Người có hành vi xâm phạm môi trường cho dù là cố ý hay vô ý, đều
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
+ Những chi phí làm trong sạch lại môi trường như tình trạng trước khi
môi trường chưa bị xâm phạm.
+ Có trách nhiệm bồi thường toàn bộ những thiệt hại do hành vi gây ô
nhiễm môi trường đã gây thiệt hại cho chủ thể khác;
+ Có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại xác định được chắc chắn
xảy ra trong tương lai dựa trên những căn cứ khoa học chuyên ngành xác định
được;
+ Ngoài khoản bồi thường theo trách nhiệm dân sự, nguyên tắc gây thiệt
hại bao nhiêu phải bồi thường bấy nhiêu, người có hành vi xâm hại môi
trường không phụ thuộc vào hình thức lỗi, còn chịu phạt vi phạm hành chính
theo quy định của pháp luật hiện hành. Người có hành vi xâm hại môi trường
gây hậu quả nghiêm trọng còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc
xác định thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường còn phải xác định những nguy
cơ tiềm ẩn do môi trường bị ô nhiễm gây ra, phải căn cứ vào mối quan hệ
biện chứng trong cả một chuỗi thiệt hại diễn ra liên tiếp từ hành vi xâm hại
18
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
môi truờng, đến thiệt hại cuối cùng xảy ra. Những chế tài được áp dụng đối
với hành vi xâm hại đến môi trường gây thiệt hại cho người khác cần phải
nghiêm khắc hơn so với những chế tài áp dụng đối với hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại cho người khác về vật chất đơn thuần. Việc xác định thời hiệu
khởi kiện về hành vi xâm hại môi trường phải được quy định riêng, phù hợp
với đặc điểm thiệt hại do xâm hại môi trường gây ra, mà không thể áp dụng
thời hiệu khởi kiện như thời hiệu khởi kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói chung như hiện nay.
- Mức xử phạt về môi trường là quá nhẹ, khiến cho các doanh nghiệp sẵn
sang chịu đóng phạt và khinh nhờn pháp luật. Như vậy, pháp luật cần phải
tăng nặng thêm mức xử phạt cho những hành vi làm ô nhiễm môi trường, để
răn đe những cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có những hành vi làm ô nhiễm
môi trường (như hình thức thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi
doanh nghiệp có hành vi vi phạm nghiêm trọng về môi trường).
19
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
C. PHẦN KẾT LUẬN
Bảo vệ môi trường không những được thể hiện trong những chính sách
và pháp luật của nhà nước, những loại chế tài cụ thể đã được quy định áp
dụng đối với người có hành vi làm ô nhiễm môi trường đồng thời bảo vệ môi
trường còn là việc không của riêng cá nhân, tổ chức, cơ quan bảo về môi
trường và những người thuộc cơ quan bảo vệ môi trường, mà còn là trách
nhiệm của toàn dân và suy rộng ra là trách nhiệm, bổn phận của mỗi một cá
nhân trên toàn thế giới. tuy nhiên cần phải xíêt chặt các hình thức bảo vệ môi
trường, các hình thức xử phạt trong lĩnh vực môi trường, cụ thể hoá trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường để hạn chế những thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường, để bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp.
20
Bài tập lớn học kì
Luật dân sự Việt Nam module 2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2009.
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009.
3. Nguyễn Xuân Anh, “Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm dân sự
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp
chí tòa án nhân dân, số 4/2005.
4. Bộ luật dân sự năm 2005.
5. Nghị định 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về việc
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi
trường.
6. Nghị định số 117/2009/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường.
The end
21