Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thực trạng tổ chức và hoạt động của Quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.31 KB, 13 trang )

M ỤC L ỤC
TRANG
A. MỞ ĐẦU.................................................................................................................2
B. NỘI DUNG..............................................................................................................2
I. Khái quát về Quôc hội. ..............................................................................................2
1. Quá trình hình thành phát triển của Quốc hội........................................................2
2. Vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội...........................................................2
II. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Quốc hội........................................................3
1. Tổ chức Quốc hội...................................................................................................3
1.1 Cơ cấu tổ chức Quốc hội..............................................................................3
1.2 Thực trạng tổ chức hoạt động Quốc hội.......................................................4
2. Hoạt động của Quốc hội.........................................................................................5
2.1 Tổ chức Quốc hội.........................................................................................5
2.2 Thực trạng hoạt động Quốc hội....................................................................6
III. Phương hướng giải pháp đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động Quốc Hội ............6
1. Hoàn thiện cơ cấu Quốc hội...................................................................................9
2. Hoàn thiện hoạt động Quốc hội.............................................................................9
IV. Đánh giá nhận xét...................................................................................................9
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ............................................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................10
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI.

UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội.
HĐDT : Hội đồng dân tộc.
ĐBQH : Đai biểu Quốc hội.
TW : Trung ương.
UB : Ủy ban.
1


A. MỞ ĐẦU


Quốc hội là: "cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" . Khác với chế độ
đại nghị tư sản Quốc hội ta thực sự đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Quốc hội nước ta đã và đang có bước
chuyển mình hết sức quan trọng. Quốc hội đã và đang thực hiện hiệu quả vai trò của
mình . Các hoạt động của Quốc hội đang thu hút sự quan tâm theo dõi, sự cổ vũ lớn
lao của tầng lớp nhân dân trong và ngòai nước. Vì vậy việc hoàn thiện về cả cơ cấu tổ
chức và hoạt động của Quốc hội là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân
do dân và vì dân.

B. NỘI DUNG
I.Khái quát về Quốc hội.
1.Quá trình hình thành và phát triển.
Ngày 16 và ngày 17/8/1945, tại Tân Trào, Quốc dân đại hội đã được triệu tập
gồm 60 đại biểu của các tổ chức toàn thể cách mạng đã quyết định nhiều vấn đề quan
trọng, lập ra ủy ban dân tộc giải phóng TW. Vì vậy Quốc dân đại hội được coi là tiền
thân của Quốc hội nước ta, đã động viên toàn thể nhân dân đứng lên làm cuộc cách
mạng tháng 8 thành công.
Ngày 8/9/1945, Hồ chủ tịch đã kí sắc lệnh số 14 mở cuộc Tổng tuyển cử tự do
trong cả nước để bầu Quốc dân đại hội. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo, trước nguy cơ
mất nước nhưng ngày 6 tháng 1 năm 1946, nhân dân ta trong cả nước đã tiến hành
cuộc tổng tiến cử tự do thắng lợi, bầu ra quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
đó là quốc hội đầu tiên, Quốc hội khóa I của Nước ta.
Từ khi ra đời cho đến nay Quốc hội đã trải qua 12 nhiệm kỳ và nội dung của
các kì họp ngày càng được hoàn thiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.Vị trí, tính chất và chức năng.
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí cực kì quan trọng. Theo hiến
pháp 1992 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại điều 83 có quy định "Quốc
hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Vị trí pháp lí của Quốc hội không những được
nói lên từ cách thức thành lập, từ thẩm quyền mà còn được khắc họa lên từ cơ cấu tổ
chức và phương thức hoạt động của Quốc hội. Từ vị trí pháp lí như vậy với tính chất
là đại diện và tính chất quần chúng(các ĐBQH là những công nhân, nông dân, trí thức
và những người lao động ưu tú …) mà Quốc hội mang chủ quyền nhân dân.
Với tinh thần nói trên điều 83 hiến pháp 1992 đã quy định chức năng của
Quốc hội bao gồm những phương diện lớn.
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp và hiến pháp.

2


- Quốc hội đã quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Quốc hội.
Chính vì tầm quan trọng của vị trí chức năng Quốc hội nên việc hoàn thiện cơ
cấu tổ chức và phương thức hoạt động là vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
II. Thực trạng cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội.
Qua một thời gian dài xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Quốc hội
nước ta đã có những biến đổi căn bản, có những bước tiến mới cả trong tư duy lí luận
và thực tiễn nhằm đảm bảo đáp ứng yêu cầu hoạt động của một cơ quan quyền lực nhà
Nước cao nhất đại diện cho toàn thể nhân dân. Nhìn lại những thành tựu và hạn chế đã
qua ta có thể đi cụ thể hơn trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
1 .Tổ chức Quốc hội.
1.1Cơ cấu tổ chức Quốc hội.
Ở Việt Nam, Quốc hội được tổ chức theo cơ cấu một viện. Việc lựa chọn này
nhằm mục đích bảo đảm để thực hiện Quốc hội là nơi tập trung, thống nhất ý chí,
nguyện vọng của tầng lớp nhân dân, bảo đảm tính thực quyền, không chia cắt và để

tránh tình trạng tranh luận suông. Cũng như đặc tính chung của Quốc hội nước khác,
với tính chất là cơ quan hoạt động theo chế độ hội nghị trong tổ chức và hoạt động
của Quốc hội nước ta cần phải có đầy đủ cơ cấu cần thiết.
- Cơ quan Quốc hội:Quốc hội nước ta gồm các cơ quan : UBTV, HĐDT và các
ủy ban Quốc hội ( bao gồm 9 UB (UB pháp luật, UB tư pháp, UB chuyên trách, UB
đối ngoại, UB kinh tế, UB tài chính ngân sách, UB các vấn đề xã hội, UB khoa hoc –
công nghệ - môi trường, UB thanh thiếu niên nhi đồng )
- ĐBQH :là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước
và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm. Số ĐBQH được tính trên cơ sơ dân số
của cả nước và được chia theo đơn vị hành chính. Việc bầu cử ĐBQH được tiến hành
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng trực tiếp và bỏ phiếu kín. Những khóa Quốc hội
gần đây số lượng và cơ quan Quốc hội do UBTVQH dự kiến trên cơ sở mối tỉnh,
thành phố trực thuộc TW ít nhất có 3 đại biểu cư trú và làn việc tại địa phương. Số đại
biểu tiếp theo được tính theo dân số và đăc điểm của mỗi địa phương. Đăc biệt luật
bầu cử ĐBQH nước ta ghi rõ ưu tiên về số lượng ĐBQH cho các dân tộc thiểu số và
phụ nữ.
- Về lãnh đạo Quốc hội : Do đặc điểm hoạt động không thường xuyên, từ đó
đặt ra yêu cầu phải có một cơ quan chịu trách nhiệm chuẩn bị, triệu tập, chủ trì các
hoạt động của Quốc hội và thực hiện những nhiệm vụ quyền hạn mà lẽ ra phải thuộc
về Quốc hội. Trừ hiến pháp 1946 quy định ban lãnh đạo của Quốc hội là ban thường
trực Quốc hội, các hiến pháp 1959, 1992 đều quy đinh ban lãnh đạo Quốc hội là
UBTVQH hoặc hội đồng nhà nước kết hợp với chủ tịch và các phó chủ tịch Quốc hội
(hiến pháp1980).
3


1.2 Thực trạng tổ chức Quốc hội.
a. Những thành tựu đã đạt được .
- Đổi mới tư duy trong việc quy định một số nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc
hội phù hợp với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do dân, vì dân. Quốc hội đảm đương 3 chức năng cơ bản là lập hiến, lập
pháp, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động nhà nước. Điều này khẳng định Quốc hội mặc dù là một cơ quan quyền lực
cao nhất nhưng cũng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, khi đó mới thể
hiện được quyền lực thuộc về nhân dân, chủ thể tối cao, duy nhất là nhân dân. Đồng
thời, vai trò của Quốc hội được tăng cường trong việc trao toàn quyền cho Quốc hội
xem xét và quyết định các vấn đề nhân sự cấp cao.
- Đổi mới cơ cấu tổ chức theo hướng nâng cao vai trò và trách nhiệm các cơ
quan Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn Quốc hội : Các cơ quan của
Quốc hội được bổ sung thêm quyền hạn nhiệm vụ :ví dụ như: về UBTVQH “chỉ đạo
điều hòa phối hợp hoạt động của HĐDT và các UB của Quốc hội”. Nhằm đề cao của
trách nhiệm của UBTVQH trong việc đảm bảo cho HĐDT và các UB hoạt động nhip
nhàng, nhằm phúc vụ đắc lực cho các kì họp Quốc hội. Quốc hội khóa XI đã thành
lập 3 cơ quan chuyên môn trực thuộc giúp việc cho UBTVQH. Về HĐDT, chủ nhiệm
các UB ngày càng được cũng cố và tăng cường về cả số lượng và chất lượng. Ngoài
chủ tịch HĐDT, chủ nhiệm các UB, phó chủ tịch HĐDT và các phó chủ nhiệm các
UB, còn có các đại biểu làm chuyên trách ở TW và địa phương. Luật tổ chức Quốc
hội cũng quyết định việc thành lập các tiểu bang trong UBTVQH và HĐDT của Quốc
hội để nghiên cứu và chuẩn bị các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của HĐDT và các
UB. Quy định mới này nhằm nâng cao chất lượng hoạt động HĐDT và các UB Quốc
hội.
- Tư duy về cơ cấu và tiêu chuẩn ĐBQH đã có những thay đổi bước đầu: Số
lượng ĐBQH các khóa gần đây tăng lên, hiện nay khóa XII có 500 đại biểu. Trong đó
số đại biểu nữ và trẻ tăng lên đáng kể. Cơ cấu đại biểu cũng hợp lí hơn so với các
nghành, các giới, dân tộc, với các đại biểu công tác ở TW, địa phương. Chất lượng đại
biểu cũng được tăng lên. Điểm nổi bật trong cơ cấu ĐBQH trong thời kì này là có các
đại biểu chuyên trách nhất là trong nhiệm kì XI và nhiệm kì XII. Điều đó thể hiện tư
duy mới trong việc từng bước chuyển dần Quốc hội sang hoạt động thường xuyên như
nghị viện của nhiều nước có nền dân chủ pháp quyền trên thế giới. Lần đầu tiên luật
bầu cử năm 2001 quyết định yêu cầu phải có ít nhất 25% tổng số ĐBQH động chuyên

trách. Vì thế, ĐBQH không chỉ hoạt động chuyên trách tại các cơ quan của Quốc hội
mà còn hoạt động chuyên trách tại 63 tỉnh, thành phố thuộc TW ở địa phương .
b. Những tồn tại trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước.
Bên cạnh những điểm tiến bộ, sự đổi mới trong tổ chức ta thấy còn rất nhiều
tồn tại yếu kém mà chúng ta cần phải xem xét cụ thể. Đó là sự hạn chế của các UB
hiện nay được nhiều người cho là số lượng chưa bao quát các mặt hoạt động của Quốc
hội (nhất là lĩnh vực hoạt động giám sát tối cao với chính phủ và các cơ quan khác.)
4


Chức năng của các UB còn chưa được xác định rõ, còn có sự chồng chéo, hình thức
và chưa có những đảm bảo thực hiện (như quyền giám sát quy định cho HĐDT và các
UB là quyền riêng của Hội đồng; UB hay chỉ là giúp Quốc hội UBTVQH giám sát),
việc chỉ đạo, phối hợp hoạt động của UBTVQH còn chưa sâu sát, thường xuyên.
2. Hoạt động Quốc hội.
2.1 Hoạt động Quốc hội.
Về phương thức hoạt động, xuất phát từ tính chất đặc thù củ cơ quan hoạt động
theo chế độ hội nghị. Vì vậy phương thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội được thể
hiện qua những hình thức chủ yếu là các kì họp, phiên họp. Trừ Quốc hội khóa I là
Quốc hội có tổ chức và hoạt động trong điều kiên đặc biệt về mặt lịch sử, Quốc hội kỳ
sau đều tiến hành mỗi năm hai kỳ họp thường lệ. Tại các kỳ họp, Quốc hội tiến hành
xem xét, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, thông qua
việc sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các luật; thực hiện quyền giám sát tối cao
thông qua việc xem xét báo cáo và chất vấn các cơ quan lãnh đạo cấp cao của nhà
nước do Quốc hội bầu ra.
- Kỳ họp thường lệ Quốc hội do UBTVQH chuẩn bị, triệu tập và chủ trì. Kỳ
họp bất thường của Quốc hội được triệu tập theo quyết định của UBTVQH, theo yêu
cầu của Chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ hoặc khi có ít nhất 1/3 tổng số đại biểu
Quốc hội yêu cầu để giải Quyết những vấn đề cấp bách, nảy sinh không thuộc chương
trình dự kiến của Quốc hội hoặc của UBTVQH. Kỳ họp của Quốc hội được xác định

là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội, vì đây là diễn đàn chính thức của đại
biểu Quốc hội và là nơi tập thể Quốc hội xem xét, quyết định những vấn đề thuộc
nhiêm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
- Phương thức hoạt động của Quốc hội còn thể hiện qua hình thức hoạt động
của các cơ quan khác như: UBTVQH, các cơ quan khác của Quốc hội. Trong điều
kiện Quốc hội không thường xuyên thì hoạt động của các cơ quan này được coi là một
phương thức hoạt đông quan trọng.
- Giữa hai kỳ họp, UBTVQH, HĐDT và các UB Quốc hội tiến hành các hoạt
động theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tùy theo sự phân công của
Quốc hội, có những loại việc thuộc quyền quyết định của mỗi cơ quan có thẩm quyền
ban hành pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; thẩm quyền giám sát, khảo sát, thẩm
tra HĐDT, các UB Quốc hội, nhưng cũng có những loại việc mà các cơ quan này phải
báo cáo trước Quốc hội về những công việc mình đã làm để Quốc hội xem xét quyết
định. Hoạt động của các ĐBQH hội cũng rất quan trọng. ĐBQH có trách nhiệm tham
dự các kỳ họp, phiên họp của quốc hội, thực hiện việc tiếp dân và việc tiếp cử tri, đôn
đốc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, tham gia các hoạt động các cơ quan
Quốc hội mà đại biểu của thành viên… Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ của
ĐBQH, các ĐBQH chuyên trách còn phải thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn khác
theo quy đimh của UBTVQH.
Ngoài ra mặc dù đoàn đại biểu Quốc hội và văn phòng Quốc hội không phải là
cơ quan Quốc hội nhưng hoạt động của cơ quan này lại gắn liền với phương thức hoạt
động của Quốc hội.Trong thời gian Quốc hội không họp thì hoạt động của ĐBQH
đóng vai trò như là sự kiện hiện thân của Quốc hội tại các địa phương.
5


2.2Thực trạng hoạt động Quốc hội.
a Những điểm đổi mới trong hoạt động Quốc hội nước ta.
Phương hướng hoạt động được coi trọng và đổi mới theo định hướng phát huy
dân chủ minh bạch, hiệu quả. Các khóa Quốc hội gần đây rất coi trọng vấn đề này vì

thế cùng với quy trình lập pháp, phương thức và cách thức tiến hành kì họp càng sôi
nổi, dân chủ và được nhân dân ngày càng ủng hộ. Đăc biệt là hoạt động chất vấn được
truyền hình trực tiếp, góp phần nâng cao trách nhiệm và chất lượng hoạt động của
Quốc hội lẫn các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thuộc đối tượng chịu sự giám sát
của Quốc hội. Lần đầu tiên ở nước ta có luật giám sát của Quốc hội. Nhờ đó mà hoạt
động giám sát của Quốc hội đi vào nề nếp.
b Những tồn tại trong hoạt động của Quốc hội.
Ngoài những điểm mới nêu trên bên cạnh đó hoạt động Quốc hội còn có một
số mặt hạn chế như sau:
- Thứ nhất hoạt động giám sát Quốc hội của Quốc hội hoạt động còn kém hiệu
quả. Các cơ quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội, chính phủ, các bộ… đều nhận thức
không đúng đắn và đầy đủ về vai trò giám sát. Chưa coi giám sát là một phương tiện
để hạn chế sự tha hóa của Quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân; phạm vi giám sát tối cao chưa hợp lí. Quốc hội hoạt động không chuyên
trách, phần lớn đại biểu kiêm nhiệm, việc mở rộng phạm vi giám sát sang cả lĩnh vực
tư pháp và ban hành văn bản pháp quy của hành pháp là quá rộng không phù hợp với
tổ chức Quốc hội nước ta. Đối tượng Quốc hội chịu giám sát của Quốc hội phổ biến là
những người giữ chức cao trong Đảng và nhà nước. Họ vừa quyết định thân phận
chính trị của ĐBQH lại vừa quyết định lợi ích kinh tế của địa phương nơi đại biểu tổ
chức thành đoàn. Vì thế không thể đảm bảo cho ĐBQH thực hiện được quyền giám
sát của mình.
- Thứ hai là trong hoạt động của UBTVQH: UBTVQH có nhiệm vụ giải thích
chính thức Hiến pháp, luật và pháp lệnh mà trên thực tế không thực hiện được.
- Thứ ba: Quốc hội giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước mặc dù đã
có một số đổi mới nhưng vẫn còn hình thức, chưa thực quyền. Nguyên nhân là do quy
trình quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước ta chưa thực sự coi trọng việc
phát huy trí tuệ của đông đảo nhân dân. Với vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội Đảng
ta thương khởi xướng và quyết định trước những vấn đề trọng đại của nhà nước.
- Thứ tư : Hoạt động Quốc hội chưa ngang tầm với sự mong mỏi của cử tri cả
nước một phần là do chất lượng ĐBQH. Luật bầu cử nước ta không được đổi mới căn

bản, đã bao nhiêu năm vẫn tuân theo nguyên tắc “Đảng cử dân bầu” nên không phát
huy được tính tích cực và mối quan hệ qua lại giữa cử tri và đại biểu. Vì thế các
ĐBQH sẽ không phát huy tài năng nhiệt huyết và trách nhiệm trước cử tri.
III. Phương hướng, giải pháp đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động
Quốc hội.

6


Thực hiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội từ khi có hiến pháp 1992 cho thấy,
giữa các quy định Hiến pháp về cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động với thực tiễn
vẫn tồn tại những khoảng cách nhất định. Vì vậy, Nghị quyết số 48/NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ rõ: “ Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật về tổ chức hoạt động của Quốc hội”.
1.Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Quốc hội.
Qua một thời gian dài xây dựng và hoàn thiên cơ cấu tổ chức Quốc hội nước
ta về cơ bản đã tương đối hoàn chỉnh, ổn định, bảo đảm đáp ứng yêu cầu hoạt động
của một cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Để đáp ứng yêu cầu hoạt động của
Quốc hội thì việc đặt ra những giải pháp định hướng để hoàn thiện cơ cấu tổ chức của
Quốc hội là rất cần thiết. Sau đây em xin đưa ra một số giải pháp sau.
- Thứ nhất: Nâng cao chất lượng ĐBQH: Đây là vấn đề đâu tiên và quan
trọng cần được chú trọng. Vấn đề này đã được đề cập từ lâu và khá thường xuyên.
Trên thực tế mặc dù chất lượng ĐBQH đã được nâng cao rõ rệt qua từng khóa Quốc
hội nhưng thực sự vẫn chưa đáp ứng được nguyện vọng nhân dân. Để giải quyết vấn
đề này phải có những giải pháp phù hợp đó là:
+ Đổi mới tư duy về ĐBQH và thành phần Quốc hội. Cơ cấu ĐBQH không
nên quá máy móc, nặng nề về hình thức. Không nên quá coi trọng chi tiết việc cơ cấu
thành phần thuộc mọi dân tộc, mọi địa bàn, mọi thành phần, mọi lĩnh vực hoạt động.
Vì điều quan trọng ở đây là người đại diện cần cái tâm, trí, dũng làm sao nắm bắt tâm

tư nguyện vọng của nhân dân dám đứng lên trình bày ý kiến của dân. Thay mặt nhân
dân thể hiện ra trước Quốc hội.
+ Nên giảm tỉ lệ ĐBQH là công chức nhà nước, cán bộ trong tổ chức chính trị
nhằm đảm bảo tốt hơn quyền cử tri trong việc lựa chọn bầu ra những người thuộc
thành phần xã hội đại diện cho mình, cho các nhóm những người có cùng lợi ích tham
gia Quốc hội. Hiện nay với thành phần ĐBQH chủ yếu là công chức nhà nước, là cán
bộ trong các cấp lao động sẽ khó khăn trong vai trò là cơ quan “Đại biểu cao nhất của
nhân dân” thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Khi mà có sự kiện kiêm
nhiều chức danh thì người ĐBQH sẽ không thể toàn tâm toàn lực được trong nhiệm
vụ của nhân dân.
+ Cần tạo điều kiện để họ thực quyền hơn và có đủ điều kiện cần thiết để làm
tròn mọi nhiệm vụ của của người đại biểu nhân dân. Hiện nay ĐBQH được rất nhiều
quyền nhưng pháp luật chưa quy định đầy đủ cụ thể của quyền này cùng với phương
thức, cơ chế đảm bảo thực hiện cũng như chưa có đủ điều kiện vật chất cần thiết như :
bộ máy, nhân sự giúp việc, phương tiện giúp việc…
- Thứ hai: Tăng số lượng hợp lí ĐBQH chuyên trách ở các cơ quan của Quốc
hội và các đoàn đại biểu Quốc hội phù hợp với đặc điểm và yêu cầu tổ chức, hoạt
động Quốc hội nước ta. Hiện nay số lượng đại biểu chuyên trách của Quốc hội khóa
XII mặc dù đã tăng đáng kể so với các khóa trước nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ dặt
ra là còn quá ít. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến Quốc
hội, các cơ quan Quốc hội khó thực hiện tốt các yêu cầu nhiệm vụ ngày càng lớn mà
thực tiễn đặt ra. Vì thế, nhiệm kì Quốc hội khóa XIII nên thành lập các UB với các ủy
viên chuyên trách là chủ yếu, hạn chế số ủy viên kiêm nhiệm. Đăc biệt phải quan tâm
đến đổi mới cơ chế hoạt động và điều kiện làm việc của ĐBQH chuyên trách, tạo môi
7


trường hoạt động thực sự chủ động, dân chủ để người đại biểu phát huy được vai trò
đại diện cho cử tri.
- Thứ ba: Thành lập thêm các UB mới do sự hạn chế của các UB hiện nay là

số lượng chưa bao quát các mặt hoạt động của Quốc hội nhất là lĩnh vực hoạt động
giám sát đối với chính phủ và các cơ quan thành phần. Chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các UB còn chưa được xác định rõ còn có sự chồng chéo. Việc chỉ đạo điều
hòa phối hợp hoạt động của UBTVQH còn chưa sâu sát. Chính vì thế để khắc phục
những hạn chế Quốc hội cần lập thêm một số UB mới để tiến tới mỗi UB phụ trách
một hoặc một vài lĩnh vực nhất định chứ không nên để một UB phụ trách nhiều lĩnh
vực như hiện nay. Cũng có thể nghiên cứu để thành lập trong Quốc hội một số UB
như: UB giám sát Hiến pháp, UB kiểm toán, thanh tra Quốc hội. Phân định cụ thể hơn
chức năng, nghĩa vụ, quyền hạn, phạm vi phụ trách của từng UB. Để tránh tình trạng
lặp như. Từ đó, để tăng cường vai trò của các UB rất cần thiết và phù hợp với xu thế
chung.
- Thư tư: Tổ chức lại UBTVQH. Về lâu dài, khi Quốc hội nước ta ngày càng
chuyển mạnh sang hoạt động thường xuyên với số đại biểu chuyên trách càng tăng thì
phải đạt ra vấn đề tổ chức lại UBTVQH. Nên hạn chế quyền hạn của UBTVQH mà
mở rộng hơn nữa hoạt động của các UB lâm thời. Vì đây là những UB được thành lập
khi có một sự việc bất thường xảy ra, nó hoạt động rất chuyên trách, sau khi hoàn
thành công việc mới giải tán nên đây là một giải pháp tốt trong tình hình hiện nay.
2.Hoàn thiện hoạt động của Quốc hội.
Trong những năm qua, phương thức hoạt động của Quốc hội đã có nhiều cải
tiến, đăc biệt là cách thức xem xét thông qua các dự án luật tại kì họp, việc tổ chức cả
phiên họp. Tuy nhiên trong từng phương thức, từng khâu của hoạt động của Quốc hội
vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thêm.
- Đầu tiên là tăng cường hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội đối với các
cơ quan nhà nước ở TW. Phát huy có hiệu quả, đồng bộ các hình thức giám sát của
Quốc hội: giám sát của tập thể Quốc hội, giám sát HĐDT,các ủy ban của UBTVQH
theo hướng luật của Quốc hội; nâng cao vai trò của các ĐBQH. Mặt khác cần khắc
phục tình trạng giám sát theo bề rộng mà hạn chế bề sâu. Hướng đổi mới là cần tập
trung vào việc giám sát ngân sách và thực thi công vụ của các chức danh nhà nước.
Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội, các UB của Quốc hội
với các hoạt động khác. Đối mới hình thức giám sát bằng cách nghe báo cáo hằng

năm về hoạt động của các cơ quan nhà nước theo hướng xác định rõ vấn đề cần báo
cáo với Quốc hội. Tổ chức giám sát theo chuyên đề và bỏ phiếu tín nhiệm đối với
những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn để nâng cao hiệu lực của việc giám sát.
- Đối với việc bỏ phiếu tín nhiệm, tuy được coi là phương thức cụ thể thực
hiên quyền giám sát Quốc hội và ĐBQH nhưng với thủ tục như hiên nay rất khó thực
hiện (vì khi các kiến nghị của đại biểu- ít nhất 20% tại một kỳ họp, hoặc kiến nghị của
HĐDT, UB của Quốc hội thì còn qua sự xem xét của UBTVQH rồi mới quyết định).
Hơn nữa, khi người được bỏ phiếu tín nhiệm không đạt tín nhiệm quá bán nữa tổng số
đại biểu thì phải tiến hành bãi nhiệm, miễn nhiệm theo quy định chung thì phải lại
thêm một lần xem xét. Vậy nên quy định lại là bỏ phiếu bất tín nhiệm. Các chức danh
do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn trong hoạt động của mình không hoàn thành nhiệm
vụ, để xảy ra sai phạm sẽ bị Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm. Người bị bất tín nhiệm
8


đương nhiên bị bãi nhiệm, miễn nhiệm theo hình thức trách nhiệm tương ứng mà
không cần qua thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm nữa. Còn bỏ phiếu tín nhiệm là do
phiếu tín nhiệm theo định kỳ hàng năm mà không cần điều kiện gì và cũng không cần
chờ ai đó quyết định. Người không vượt qua được kỳ bỏ phiếu tín nhiệm này cũng
đương nhiên phải từ chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
- Tại kỳ họp, cần cải tiến hơn nữa cách thức xem xét các báo cáo của chính
phủ và cơ quan tư pháp; thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn, trình tự bỏ phiếu tín
nhiệm, bãi nhiêm, miễn nhiệm những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Đối với
việc báo cáo xem xét thực trạng hoạt động, cách thức hoạt động, cách thức điều hành,
thực hiện của các cơ quan báo cáo để qua đó uốn nắn hoạt động của họ chứ không
phải nghe báo cáo thành tích về ngành hoặc lĩnh vực .
Bên cạnh đó cần có sự nghiên cứu xác lập những phương thức làm việc mới
của Quốc hội. Chẳng hạn, tại Quốc hội khóa XII, do việc thiết lập chế độ đại biểu
chuyên trách( chiếm 1/4 tổng số đại biểu Quốc hội) nên đã hình thành hình thức hoạt
động của của số đại biểu này là Hội nghị đại biểu chuyên trách. Hình thức hoạt động

này đã và đang được đánh giá rất cao. Cần phải chính thức hóa hình thức Hội nghị
Đại biểu chuyên trách như một hình thức hoạt động mới của Quộc hội. Còn nếu như
trong tương lai, nước ta thiết lập cơ quan lập pháp, hoạt động thường xuyên theo cách
cải tổ lại cơ cấu tổ chức của Quốc hội như đã nêu ở phần trên thì hình thức hoạt động
này không cần thiết nữa. Hoặc như, các hình thức tổ chức đoàn giám sát, cử các thành
viên đi xem xét, xác minh…của UBTVQH, HĐDT và các UB của Quốc hội cũng cần
được pháp lí hóa cụ thể về chức năng thẩm quyền cũng như hiệu quả pháp lí của các
kết luận, kiến nghị mà đoàn, thành viên nêu ra, tránh tình trạng đi xem xét qua loa,
hình thức hoặc ngược lại những kiến nghị được đưa ra không có cơ chế xem xét, sử
dụng thỏa đáng.
IV. Đánh giá nhận xét.
Như vậy, qua việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của
Quốc hội và đưa ra một số hướng hoàn thiện. Tuy nhiên lí thuyết chỉ trên giấy tờ còn
thực tế thực hiện ra sao phỉ nhờ vào các chủ trương của Đảng và nhà nước để nước ta
có thể trở thành một nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Mong rằng Quốc hội
sẽ khắc phục những hạn chế còn tồn tại của mình. Ngoài ra, nâng cao hơn nữa hiệu
quả làm việc của Quốc hội để đáp ứng kịp thời sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đưa Việt Nam hội nhập tích cực với cộng đồng quốc tế.

C . KẾT LUẬN
Dưới ánh sáng nghị quyết của Đảng, công cuộc đổi mới Quốc hội sẽ tiếp tục tiến
hành mạnh mẽ, hiệu quả. Việc sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội, Luật bầu cử ĐBQH và
tiến hành bầu cử Quốc hội khóa XIII tới đây sẽ tiếp tục thể hiện tinh thần hoàn thiện
này, để Quốc hội ngày càng xứn đáng hơn với vai trò " Cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa".
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
9



1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, NXB CAND,
Hà Nội,2009.
2. Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, NXB
ĐHQG, Hà Nội, 2005.
3. Viên nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Bình luận khoa học hiến pháp Cộng hòa
xã XHCN Việt Nam.NXB . CTQG, Hà Nội, 1995.
4. Luật tổ chức Quốc hội.
5. Tạp chí nhà nước và pháp luật tháng 9 / 2009. tháng 6/2005.

10


11


12


13



×