Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tìm hiểu nội dung của chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dụng phương thức này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.65 KB, 13 trang )

A.

ĐẶT VẤN ĐỀ.

Cải cách tài chính công là một trong bốn nội dung lớn của chương trình tổng thể
cải cách hành chính trong giai đoạn 2001-2010. Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý tài
chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước là một trong những chương trình trọng
điểm, và nội dung chủ yếu là thực hiện chế độ khoán chi hành chính, tạo thế chủ động
cho các cơ quan hành chính nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Để hiểu rõ
hơn về chế độ khoán chi hành chính nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Tìm
hiểu nội dung của chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dụng phương thức
này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
B. NỘI DUNG.
I. Khái quát chung về chế độ khoán chi hành chính.
1. Khái niệm khoán chi hành chính
Khoán chi hành chính là nhà nước giao cho một số cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp có thu của nhà nước một khoản kinh phí tiến hành tự chủ trong chi tiêu và
quản lí biên chế.
2. Các cơ quan, tổ chức hành chính sự nghiệp thực hiện chế độ tự chủ.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 1, Nghị định 130/2005/NĐ-CP thì các cơ quan tổ
chức thực hiện khoán chi hành chính bao gồm:
- Các bộ,cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ;
- Văn phòng Quốc Hội, Văn phòng Chủ tịch nước;
- Tòa án nhân dân các cấp, Viện kiểm sát nhân dân các cấp;
- Văn Phòng Hội đồng nhân dân, Văn phòng ủy ban nhân dân; các cơ quan chuyên
môn thuộc ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

1


- Văn phòng Hội đồng nhân dân, Văn phòng ủy ban nhân dân; Các cơ quan chuyên


môn thuộc ủy ban nhân dân các quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương.
Ngoài ra theo quy định tai Điều 1 nghị định 43/2006/NĐ-CP thì đơn vị thực hiện
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phải là đơn vị dự toán độc lập, có con dấu và tài
khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật Kế toán. Đối với Đài
Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, các đơn vị sự nghiệp có quy trình hoạt
động đặc thù và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thì vẫn áp dụng theo quy định tại Nghị định
này, còn các tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện theo quy định tại Nghị định số
115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ.
3. Nội dung của chế độ khoán chi hành chính.
Căn cứ theo nghị định của chính phủ số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm
2005 quy định chế độ tựu chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phía
quản lý hành chính.
Cơ chế khoán chi hành chính bao gồm một số nội dung được quy định như sau:
Nhà nước sẽ giao khoán cho các đơn vị trên nguồn kinh phí (ngân sách nhà nước
cấp) cộng với các khoản thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật, tổng hợp các
nguồn kinh phí trên, đơn vị hành chính nhà nước đó sẽ tự chủ trong việc chi tiêu,
thanh toán cho các mục đích hoạt động của đơn vị. Mặc dù tự chủ trong việc chi tiêu
nhưng các đơn vị hành chính nhà nước kể trên vẫn chỉ được phép chi tiêu cho các
khoản chi có trong quy định, khuôn khổ cho phép của pháp luật, điều đó được quy
đinh tại khoản 2 Điều 6 Nghị định 130: Nội dung chi của kinh phí giao, gồm:
a) Các khoản chi thanh toán cho cá nhân: tiền lương, tiền công, phụ cấp lương,
các khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản thanh
toán khác cho cá nhân theo quy định;
b) Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn: thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư văn
phòng, thông tin, tuyên truyền, liên lạc, hội nghị, công tác phí trong nước, chi cho các
2



đoàn đi công tác nước ngoài và đón các đoàn khách nước ngoài vào Việt Nam (phần
bố trí trong định mức chi thường xuyên), chi phí thuê mướn, chi nghiệp vụ chuyên
môn của từng ngành, mua sắm, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định;
c) Các khoản chi khác có tính chất thường xuyên ngoài nội dung quy định tại Điều
7 Nghị định này.
Khi sử dụng nguồn kinh phí mà được sử dụng theo chế độ tự chủ, căn cứ vào tình
hình thực hiện nhiệm vụ được giao, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ tự
quyết định bố trí số kinh phí được giao vào các mục chi cho phù hợp; được quyền
điều chỉnh giữa các mục chi nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan thực hiện chế độ tự chủ
được vận dụng các chế độ chi tiêu tài chính hiện hành để thực hiện, nhưng không
được vượt quá mức chi tối đa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Khi có phát sinh các yếu tố làm thay đổi mức kinh phí đã giao, cơ quan thực hiện
chế độ tự chủ có văn bản đề nghị bổ sung, điều chỉnh dự toán kinh phí, giải trình chi
tiết các yếu tố làm tăng, giảm dự toán kinh phí gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp.
Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp (trường hợp không phải là đơn vị dự toán cấp I)
xem xét, tổng hợp dự toán của các đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp
I. Cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương (đơn vị dự toán cấp I) xem xét dự
toán do các đơn vị trực thuộc lập, tổng hợp và lập dự toán chi ngân sách thuộc phạm
vi quản lý gửi cơ quan tài chính cùng cấp để trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ phải có trách nhiệm trong hoạt động của mình,
trong đó Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ chịu trách nhiệm trước pháp luật
về các quyết định của mình trong việc quản lý, sử dụng biên chế và kinh phí quản lý
hành chính được giao. Các cơ quan quản lý cấp trên, cụ thể là Bộ tài chính, Bộ nội vụ
có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với nhau để hướng dẫn thực hiện cho các đơn vị tự
chủ, thường xuyên tổ chức chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc thực hiện chế độ tự chủ tại
các đơn vị , quy định cụ thể tại Điều 12, 13 Nghị định này. Ngoài ra các Bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch uỷ ban nhân dân các
tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương cũng có trách nhiệm liên quan đến việc thực
3



hiện tự chủ của các đơn vị (quy định cụ thể tại Điều 11 Nghị định này) thường xuyên
chỉ đạo hướng dẫn cho các đơn vị thực hiện chế độ, ban hành các tiêu chí đánh giá
cho các đơn vị, tổ chức kiểm tra giám sát việc thực hiện, hàng năm có tổ chức báo cáo
đánh giá việc thực hiện của các đơn vị, đánh giá kiến nghị đề xuất tháo gỡ các khó
khăn trong việc thực hiện.
Về biên chế, căn cứ số biên chế được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được
quyền chủ động trong việc sử dụng biên chế như sau: Được quyết định việc sắp xếp,
phân công cán bộ, công chức theo vị trí công việc để bảo đảm hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ của cơ quan. Được điều động cán bộ, công chức trong nội bộ cơ quan.
Trường hợp sử dụng biên chế thấp hơn so với chỉ tiêu được giao, cơ quan vẫn được
bảo đảm kinh phí quản lý hành chính theo chỉ tiêu biên chế được giao. Được hợp đồng
thuê khoán công việc và hợp đồng lao động đối với một số chức danh theo quy định
của pháp luật trong phạm vi nguồn kinh phí quản lý hành chính được giao.
Các đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện chế độ tài chính riêng nhằm mục đích một
mặt tiết kiệm chi tiêu ngân sách, một mặt phát huy tối đa khả năng chủ động tìm kiếm
các nguồn tài chính của đơn vị sử dụng ngân sách, pháp luật quy định nguồn tài chính
và nội dung cụ thể, trên cơ sở đó, “được tự chủ tài chính, được chủ động bố trí kinh
phí để thực hiện nhiệm vụ, được ổn định kinh phí hoạt động thường xuyên do ngân
sách nhà nước cấp đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần kinh phí theo định
kì 3 năm và hàng năm được tăng thêm theo tỷ lệ do Thủ tướng chính phủ quyết
định”. Theo cơ chế mới, các đơn vị sự nghiệp có thu được ổn định phần kinh phí từ
ngân sách nhà nước cấp trong 3 năm, hàng năm còn được tăng thêm phần chi theo tỷ
lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Các đơn vị này cũng được vay tín dụng ngân
hàng hoặc Quỹ Hỗ trợ phát triển để mở rộng hoạt động. Bên cạnh đó, được chiết khấu
hao hoặc thanh lý tài sản cố định và sử dụng kinh phí thu được từ hai nguồn này.
Ngoài ra, đơn vị sự nghiệp có thu được chủ động sử dụng biên chế.
Mục tiêu của khoán chi là tiết kiệm, đơn vị thực hiện sẽ được dùng số kinh phí tiết
kiệm được cho 6 mục đích sau: tăng thu nhập cho cán bộ, công chức; chi khen
4



thưởng; chi phúc lợi; để nâng cao hiệu quả chất lượng công việc; chi thêm cho những
người thực hiện tinh giản biên chế và lập quỹ ổn định thu nhập. Cơ chế mới cũng cho
phép, nếu số kinh phí tiết kiệm được chi không hết trong năm thì vẫn được chuyển
sang năm sau. Bên cạnh đó, trong phạm vi biên chế được khoán, đơn vị thực hiện
được quyết định sắp xếp tổ chức và biên chế sau khi đã tinh giản một cách hợp lý.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng nội dung của chế độ khoán chi hành chính bao
gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, việc thực hiện chế độ khoán chi hành chính cho phép các cơ quan, đơn
vị sử dụng ngân sách được chủ động trong việc sử dụng kinh phí do nhà nước cấp trên
cơ sở bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phần kinh phí tiết kiệm được các cơ quan,
đơn vị được quyền sử dụng để nâng cao đời sống của cán bộ, công chức và đầu tư
phát triển cơ sở vật chất cho cơ quan, đơn vị mình.
Thứ hai, các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách được quyền chủ động biên chế về
nhân sự. Điều này có tác động tích cực đến công cuộc tinh giảm biên chế nhà nước.
Thứ ba, các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách phải xây dựng một quy chế chỉ
tiêu nội bộ phù hợp với quy định của pháp luật về chi tiêu ngân sách.
4. Nguyên nhân phải thực hiện khoán chi hành chính.
- Để giảm thiểu gánh nặng chi tiêu công, các cơ quan, đơn vị với quan niệm trước
đây thiếu đâu đã có nhà nước no, cơ chế xin - cho tồn tại trong một thời gian dài đi
sau vào tư tưởng ý thức, mọc rể trong suy nghĩ của họ, nhà nước ta mỗi năm phải chi
1 khoản tiền lớn cho chi tiêu : tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, chi phí thuê
mướn, chi nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành, mua sắm, sửa chữa thường xuyên
tài sản cố định;…giả sử như biên chế tăng không có hạn mức cụ thể thì nhà nước ta
phải chi một số tiền cho số biên chế này. Lượng biên chế đông mỗi năm nhà nước ta
phải chi 1 số tiền khổng lồ cho chi trả lương, khi thực hiện tự chủ buộc các cơ quan,
đơn vị phải xem xét đến lượng biên chế sao cho đủ người đúng việc.
- Thực hiện khoán chi hành chính thì buộc các đơn vị sử dụng NSNN chủ động
trong việc chi hơn, không còn mang tính thụ động, ỷ lại nữa, mà sẽ phải tự điều tiết,

5


có kế hoạch tính toán chi tiêu sao cho với khoản chi đó thu được hiệu quả, bởi nếu chi
mà không phù hợp dẫn đến lãng phí không đủ thì không có chuyện hết là xin và chính
thủ trưởng cơ quan đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định của
mình.
- Thúc đẩy sự năng động của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp trong việc
chủ động tìm kiếm và tăng những nguồn thu, các khoản phí, lệ phí được để lại theo
chế độ quy định, các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Nâng cao
hiệu suất hoạt động để tăng thêm thu một cách hiệu quả. Tăng tính năng động trong
việc điều tiết cán bộ biên chế sao cho hiệu quả, do ý thức làm việc thiếu trách nhiệm
của cán bộ công chức trong chế độ cũ. Trước đây khi nhà nước thực hiện biên chế
hưởng lương theo cấp bậc, ý thức làm việc chưa cao của cán bộ công chức luôn nghĩ
rằng lương đã có nhà nước trả. Lương bình quân như nhau làm nhiều hay ít cũng vậy
nhưng với khoán chi sẽ tạo ra 1 môi trường mới người làm hiệu quả sẽ nhận được
phần lương tương ứng với phần mình làm.
- Đảm bảo cho nguồn nhân lực đầu vào ổn định hơn khi mà trong thời gian trước
lượng người vào làm và biên chế cứ xin vào rồi đi học thêm lấy bằng, hoặc trình độ
không cao.. nhưng với thực hiên chế độc khoán chi hành chính này thì phải cân nhắc
sao cho nguồn nhân lực đầu vào chất lượng để thu được hiệu quả cao không gây lãng
phí thất thoát nguồn kinh phí được cấp.
5. Ưu – nhược điểm của khoán chi hành chính.
5.1. Ưu điểm của khoán chi hành chính.
Việc khoán chi hành chính tạo ra tính chủ động, sáng tạo trong việc sử dụng ngân
sách ở các cấp địa phương. Giảm gánh nặng cho ngân sách trung ương. Điều tiết vấn
đề chi tiêu, các cơ quan sẽ phải tự sắp xếp nguồn nhân lực sao cho hợp lí. Tạo ra tính
năng động trong việc tìm kiếm nguồn thu đảm bảo cho quỹ tiền của cơ quan, chủ
động đi tìm kiếm những khoản thu sao cho một phần nào đó có thể đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của địa phương mình.


6


Xoá bỏ sự bình quân chủ nghĩa, xoá bỏ sự thiên vị trong quá trình phân bổ ngân
sách khiến cơ chế xin - cho không còn môi trường tồn tại.
Áp dụng chế độ khoán chi hành chính góp phần làm cho bộ máy hành chính nước
ta được hiệu quả. Khoản chi thường xuyên về lương cho đội ngũ nhân viên nhà nước
được sử dụng hiệu quả, lượng biên chế được bảo đảm.
Việc áp dụng chế độ khoán chi hành chính làm cho bộ máy hành chính hoạt động
có hiệu quả hơn, giúp việc kiểm soát chi hành chính thuận lợi hơn, khi đã giao cho các
cơ quan, đơn vị này tự chủ thì công việc sẽ giảm bớt và giảm bớt gánh nặng cho cơ
quan cấp trên, ngày trước thì các cơ quan, đơn vị này kêu rồi lại phản ánh nên trên,
trên có chưa giải quyết kịp lại gâp ra khó khăn cho dưới thế là bài toán đặt ra trên lại
trách dưới sao chi tiêu lại tốn nhiều thế, dưới lại phản ánh nên trên chi nhiều vấn đề
lương rồi phụ cấp..khúc mắc sao lâu có tiền, thế là thiếu tiền chi cho khoản này khoản
kia, đưa ra họp thì bên nào cũng kêu cũng đổ lỗi cho nhau, đặt ra vấn đề giao kinh phí
tự chủ về biên chế và kinh phí quản lí hành chính, thủ trưởng, người đứng đầu tự phải
biết quản lí điều tiết nguồn kinh phí chi cho cơ quan, đơn vị của mình.
Thực hiện tự chủ tốt sẽ đem lai lợi ích cho chính cơ quan, đơn vị đó: ví dụ kết thúc
năm ngân sách, sau khi đã hoàn thành các nhiệm vụ công việc được giao, cơ quan
thực hiện chế độ tự chủ có số chi thực tế thấp hơn dự toán kinh phí quản lý hành chính
được giao thực hiện chế độ tự chủ thì phần chênh lệch này căn cứ theo nghị định 130
và văn bản hướng dẫn nghị định 130 thì có thể thực hiện tăng lương cho cán bộ, chi
khen thưởng, hoặc chuyển sang năm sau sử dụng tiếp…
5.2 Nhược điểm của khoán chi hành chính.
Thứ nhất: Nếu trong các đơn vị không có nguồn thu nào khác ngoài nguồn thu từ
ngân sách nhà nước cấp hoặc nguồn các thu đó không đủ, thì vấn đề đặt ra các đơn vị
đành phải tự chủ. Vậy tự chủ phải được thực hiện như thế nào cho hợp lý, vấn đề này
gây khó khăn cho các đơn vị, có thể dẫn đến chi trả không đủ gây nhiều khó khăn.

Trên thực tế, thủ trưởng không có quyền chấm dứt một cán bộ biên chế không có
năng lực hay phẩm chất đạo đức không tốt mà chỉ là sắp xếp họ vào một công việc
7


khác. Hay với một nhiệm vụ mới phát sinh, đòi hỏi phải tăng cán bộ nhưng thủ trưởng
đơn vị vẫn không thể quyết định, nếu được thì cũng mất nhiều thời gian. Như vậy,
kinh phí, biên chế đều chỉ là tự chủ trong tổng cố định, tự chủ mang tính tương đối
nhưng công việc vẫn phải làm.
Thứ hai: Nếu trong các đơn vị người đứng đầu kém sáng tạo, thì khoán chi cho rồi
mà lại không phân bổ đúng, phân bổ vào những khoản không cần thiết, không hợp lý
thì cũng dẫn đến tình trạng ngân sách chi trả trong đơn vị thiếu thốn, lãng phí.
* Mục tiêu của việc thực hiện khoán chi hành chính là đổi mới cơ chế quản lý
nhằm nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong
việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý; khuyến khích cơ quan chủ động sắp xếp tổ
chức và biên chế được giao; sử dụng lao động và kinh phí có hiệu quả; nâng cao hiệu
suất, chất lượng công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng
kinh phí, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.
II. Tổng quan việc thực hiện phương thức khoán chi hành chính.
1. Về việc thực hiện khoán chi hành chính ở Việt Nam hiện nay.

Sau khi được ban hành, việc thực hiện theo nghị định 130/2005/NĐ-CP cho đến
nay đã đem lại những kết quả nhất định. Đó là, từng bước hạn chế tình trạng cơ quan
chủ quản cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cơ quan cấp dưới; sử dụng kinh
phí đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả hơn, không còn tình trạng “chạy” kinh phí
còn dư cuối năm để chi tiêu cho hết, mặc dù việc chi tiêu đó chưa thực sự cần thiết;
thực hiện công khai dân chủ trong việc sử dụng kinh phí quản lý hành chính đã tạo sự
đồng thuận cao trong đơn vị, đội ngũ cán bộ biên chế được đảm bảo hơn về cả số
lượng và chất lượng…
Đến hết năm 2008, theo số liệu chưa đầy đủ đã có 22 Bộ, cơ quan ở trung ương

triển khai chế độ tự chủ cho 100% các đơn vị trực thuộc, có 44 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương thực hiện chế độ tự chủ cho 100% cơ quan, đơn vị thuộc cấp tỉnh …
Năm 2008 thấy, các cơ quan thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã triển khai
nhiều biện pháp để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và sử dụng kinh phí được giao
8


đúng mục đích, có hiệu quả, một số cơ quan trung ương báo cáo có số tiết kiệm tương
đối cao (đạt trên 10%) như: Bộ Ngoại giao đạt 26,67%; Kiểm toán Nhà nước đạt
19,86%; Bộ Công Thương đạt 14,22%; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đạt 10,97%;
Bộ Thông tin và Truyền thông đạt 14,44%; …Nhờ nguồn kinh phí tiết kiệm, một số
cơ quan đã có nguồn để chi tăng thu nhập cho cán bộ công chức như: Cục trợ giúp
pháp lý Bộ Tư pháp là 2.516.000 đồng (0,6 lần), Bộ Ngoại giao là 1.830.000 …
Tuy nhiên qua quá trình thực hiện cơ chế tự chủ cũng cho thấy một số hạn chế nhất
định trong công tác quản lý, sử dụng kinh phí của các cơ quan nhà nước và trong việc
đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng kinh phí của các cơ quan quản lý thể hiện ở các
mặt như sau:
- Thứ nhất: Vẫn chưa có một căn cứ xác đáng để quy định tỉ lệ giữa khối lượng
công việc chuyên môn của mỗi cơ quan so với số lượng biên chế như thế nào là phù
hợp. Theo một khía cạnh nào đấy, việc phân bổ NSNN theo định mức biên chế sẽ có
tác động tiêu cực đến việc thực hiện tinh giản biên chế, khuyến khích các cơ quan nhà
nước tăng số lượng biên chế so với nhiệm vụ được giao.
- Thứ hai: Một trong những mục tiêu cơ bản của chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước đã được quy
định tại điều 2, Nghị định số 130/2005/NĐ-CP là thực hiện quyền tự chủ đồng thời
gắn với trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị. Tuy nhiên điều này chưa được thể hiện rõ
nét: Về sử dụng kinh phí được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được vận dụng
các chế độ chi tiêu tài chính hiện hành để thực hiện, nhưng không được vượt quá mức
chi tối đa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Kinh phí tiết kiệm cũng
đcược quy định rõ đc chi cho những khoản gì theo điều 8 nghị định 130….

- Thứ ba: Theo quy định, các cơ quan chủ quản cấp trên, UBND các cấp ban hành
các tiêu chí cơ bản để làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ
quan trực thuộc khi thực hiện chế độ tự chủ, trong đó phải có các tiêu chí đánh giá về
các nội dung khối lượng, chất lượng công việc thực hiện, thời gian giải quyết công
việc, tình hình chấp hành chính sách, chế độ và quy định về tài chính. Tuy nhiên, đến
9


nay hầu như các cơ quan chủ quản cấp trên, UBND các cấp đều chưa ban hành được
tiêu chí cơ bản, nên chưa có căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ
quan trực thuộc, do đó việc xác định kinh phí tiết kiệm cũng chỉ được thực hiện thông
qua công tác xét duyệt, thẩm định quyết toán ngân sách hàng năm…
2. Khả năng áp dụng phương thức khoán chi hành chính ở Bộ tư pháp.
Bộ Tư pháp Việt Nam là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về: công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư
pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch
vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Áp dụng nghị định 130/ 2005 Bộ tư pháp đã áp dụng khoán chi hành chính một
cách tích cực và triệt để. Bộ tư pháp đã ban hành hàng loạt những thông tư, thông tư
liên tịch để hướng dẫn các cơ quan nội bộ áp dụng một cách có hiệu quả nghị định
130/2005 và nghị định 34/2006 về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Chẳng hạn như
Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT BTP-BTC về Hướng dẫn bảo đảm tài chính từ
ngân sách nhà nước để thi hành án…Việc áp dụng khoán chi hành chính ở bộ tư pháp
đã thể hiện rõ sự phù hợp cũng như tạo nên sự hiệu quả trong quản lí hành chính cũng
như tài chính của bộ. Cụ thể:


Khoán chi hành chính đã giúp cho Bộ tạo được thế chủ động trong việc quản lý


và phân bổ ngân sách của bộ, xóa bỏ được những bất cập của cơ chế xin cho.


Khoán chi hành chính giúp cho các cán bộ, công chức của bộ tư pháp có trách

nhiệm hơn trong quản lí và chi tiêu ngân sách.


Khoán chi hành chính giúp cho việc tiết kiêm ngân sách được thực hiện một

cách có hiệu quả.


Khoán chi hành chính giúp tinh giảm biên chế, làm cho bộ máy hành chính nội

bộ của bộ gọn nhẹ hơn, hoạt động hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng khoán chi hành chính, ngoài những thuận lợi và
thành tựu đạt được thì Bộ tư pháp cũng còn gặp những bất cập sau:
10




Một số cơ quan hành chính của bộ chưa thật sự quan tâm chỉ đạo sát sao để

triển khai thực hiện; về nhận thức và quán triệt chủ trương thực hiện cơ chế tự chủ của
một bộ phận cán bộ công chức chưa cao, chưa thấy việc thực hiện cơ chế tự chủ là tạo
điều kiện cho thủ trưởng và cán bộ công chức trong đơn vị chủ động sử dụng biên chế
và kinh phí được giao, gắn việc sử dụng kinh phí với chất lượng và hiệu quả công
việc.



Một số cơ chế chính sách chưa được cụ thể hóa, hoàn thiện nên các cơ quan

còn bị động trong quá trình triển khai thực hiện.


Một số cơ quan còn lúng túng trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và

các tiêu chí làm căn cứ đánh giá cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ, mà chủ yếu vẫn căn
cứ vào chương trình công tác được cấp trên giao hàng năm.


Việc lập dự toán vẫn chưa sát với thực tế mà chủ yếu dựa vào những số liệu có

sẵn từ các năm trước khiến cho việc chi tiêu vẫn chưa đạt được hiệu quả cao.
Từ những phân tích về thành tựu cũng như những bất cập của việc áp dụng cơ chế
khoán chi hành chính ở bộ tư pháp chúng ta cũng thấy rõ tính hữu dạng của cơ chế
này trong quản lí hành chính cũng như quản lí ngân sách. Vì vậy, chúng ta cần khắc
phục những bất cập để có thể áp dụng một cách đúng đắn và hiệu quả nhất làm sao tận
dụng được tất cả những ưu điểm của cơ chế này. Một số giải pháp khắc phục những
bất cập trên đây:


Những cơ quan nội bộ cần phải quan tâm hơn nữa cho việc thực hiện cơ chế

này, lãnh đạo đốc thúc cán bộ, công chức có tinh thần trách nhiệm hơn trong việc thực
hiện cơ chế.



Việc lập dự toán cần phải phù hợp với thực tế, cần tìm hiểu chính xác, rõ ràng

không để tình trạng qua loa, đại khái. Dự toán chi phù hợp vừa đủ, không quá ít để
dẫn tới tình trạng thiếu thốn nhưng cũng không quá nhiều dẫn đến tình trạng chi tiêu
lãng phí, thâm hụt ngân sách.


Ngân sách tiết kiệm được cần phải được chi tiêu một cách hợp lí, có hiệu quả

theo quy định của các văn bản pháp luật hướng dẫn.
11




Nâng cao trình độ nhận thức của cán bộ, công chức về các quy định của khoán

chi hành chính để họ có thể thực hiện một cách chính xác, không chi nhầm lẫn giữa
các quỹ ngân sách, đảm bảo ngân sách được chi tiêu hiệu quả.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy, qua việc phân tích trên chúng ta có thể hiểu hơn về chế độ khoán chi
hành chính đồng thời thấy được khả năng áp dụng chế độ này của Bộ tư pháp trong
giai đoạn hiện nay. Việc áp dụng chế độ này có nhiều tác động tích cực đến hoat động
của cơ quan hành chính nói chung và Bộ tư pháp nói riêng. Tuy nhiên không chỉ có
những tác động tích cực mà còn có những điểm hạn chế nhất định. Do đó khi thực
hiện chế độ tự chủ về tài chính cần phải có những phương hướng nhất định để nhằm
thực hiện tốt chế độ này. Từ đó có thể nâng cao tính chủ động sáng tạo tiết kiệm ngân
sách.

12



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1.

Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 quy định

chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý
hành chính đối với cơ quan nhà nước.
2.

Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định chế độ tự chủ, tự

chịu trách nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập.
3.

Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5 tháng 9 năm 2005 quy định về chế

độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
4. Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV ngày 17/01/2006, số
71/2007/TTLT-BTC-BNV ngày 26/6/2007 của Liên Bộ Tài chính - Bộ Nội
vụ.
5.

/>
6.

/>

6/Key/ViewArticleContent/ArticleId/1542/Default.aspx
7. />
13



×