Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hànhchính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.41 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA HÀNH CHÍNH - NHÀ NƯỚC
BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH

-----***-----

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
ĐỀ BÀI SỐ 10
Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành
chính nhà nước.

Họ và tên


BỐ CỤC BÀI LÀM

I.

Đặt vần đề

II.

Giải quyết vấn đề
1. Lý thuyết chung.
1.1 Khái niệm khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
1.2 Khái niệm quản lý hành chính nhà nước.
1.3 Vấn đề pháp chế và đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà
nước.


2. Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiều nại, tố cáo đối với việc
đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
2.1 Vai trò của khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong hoạt
động quản lý nhà nước.
2.2 Vai trò của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc đảm bảo
pháp chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
3. Một số nhận xét.

III. Kết thúc vấn đề.

2


I.

Đặt vấn đề
Theo báo cáo của Chính phủ (sáng ngày 27 tháng 9 năm 2010), cả nước phát
sinh hơn 110.000 vụ việc khiếu nại, tố cáo; tăng so với cùng kỳ năm trước
17%. Con số này cho thấy: trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật
của người dân đã cao hơn, nhưng cũng đồng thời phản ánh tình trạng sai
phạm ngày càng nhiều trong quản lý hành chính nhà nước. Do đó, cần phát
huy hơn nữa quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bằng cách đó,
tính pháp chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước sẽ được thiết lập
và ngày càng vững chắc.

II.

Giải quyết vấn đề
1. Lý thuyết chung

1.1 Khái niệm khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Theo luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004 và 2005)
- Khiếu nại: là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo
thủ tục của luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết
định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành
vi đó là trái pháp luật, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Tố cáo: là việc công dân theo thủ tục mà luật này quy định báo cho cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích
của Nhà nước, quyền , lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
- Giải quyết khiếu nại: là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết
của người giải quyết khiếu nại.
- Giải quyết tố cáo: là việc xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc
quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo.
3


1.2 Khái niệm quản lý hành chính nhà nước.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành pháp là quản lý hành chính nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được
thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội
dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền
lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên
công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị. Hay nói
cách khác, hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành –
điều hành.
1.3 Vấn đề pháp chế và đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà
nước.
Pháp chế hiểu một cách chung nhất là “sự đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân trong

xã hội đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật hiện hành một cách nghiêm
chỉnh và triệt để, nhằm tạo ra trong xã hội một trật tự, kỷ cương cần thiết”.
Nói đến pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước là nhấn mạnh đến trật tự
pháp luật nhằm bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
củng cố và duy trì địa vị pháp lý hành chính của các cơ quan nhà nước và tổ
chức xã hội.
Bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước là tổng thể các biện
pháp, phương tiện tổ chức-pháp lý do cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công
dân áp dụng nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ
chức ấy và thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Hướng tới sự đảm bảo sự
tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh và triệt để trong quản lý hành chính.
2.

Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiều nại, tố cáo đối với

việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.

4


Trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý hành chính nhà
nước nói riêng, chủ thể quản lý suy đến cùng đều là con người. Dù là cơ quan, tổ
chức thì chủ thể nắm vai trò lãnh đạo, quản lý vẫn là con người. Mà đã là con
người thì luôn có ý chí cá nhân, và không thể tránh khỏi những sai sót trong công
tác. Có thể là do thiếu trách nhiệm, trình độ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu
của công việc hay cũng có thể là do mục đích vụ lợi mà dẫn đến vô tình hay cố ý
làm sai, làm trái quy định của pháp luật. Do đó, một yêu cầu bức thiết đặt ra cho
toàn xã hội là phải làm sao phát hiện, làm rõ và khắc phục hoặc xử lý kịp thời
những hành vi ấy, góp phần làm cho bộ máy nhà nước thêm trong sạch, củng cố
lòng tin của nhân dân lao động đối với Đảng, nhà nước ta. Và câu trả lời đó là

quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.
Quyền khiếu nại, tố cáo được Hiến pháp ghi nhận như là phương tiện bảo vệ quyền
và lợi ích của công dân, nhà nước và xã hội. Do vị trí quan trọng như vậy mà
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được Đảng và nhà nước đặc biệt quan
tâm.
II.1Vai trò của khiếu nại, tố cáo đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lý
hành chính nhà nước.
Từ khái niệm khiếu nại, ta thấy đối tượng của quyền khiếu nại, tố cáo là quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc
hành vi đó là trái pháp luật, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tức là, một người chỉ thực hiện quyền khiếu nại khi mà quyền và lợi ích chính
đáng của mình bị xâm hại mà nguyên nhân là do những quyết định, hành vi hành
chính.. của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Và chủ thể bị khiếu nại là cơ
quan, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hành chính, thực hiện hành vi
hành chính bị khiếu nại.

5


Và từ khái niệm tố cáo, ta thấy đối tượng của quyền tố cáo là những “hành vi vi
phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền , lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức”. Như thế là đối tượng của quyền tố cáo có phạm vi rộng hơn quyền
khiếu nại. Bởi lẽ, quyền khiếu nại được sử dụng khi quyền, lợi ích của mình bị
xâm hại, còn tố cáo là khi quyền và lợi ích của nhà nước, của tổ chức và của người
khác bị xâm hại.
→ Tóm lại, căn cứ chung của quyền khiếu nại, tố cáo (hiểu một cách đơn giản) là:
những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Cá nhân ở đây có thể là cá

nhân thuộc cơ quan, tổ chức, đơn vị nói trên hoặc cá nhân là công dân.
Sau đây ta sẽ phân tích một ví dụ cụ thể để làm rõ vấn đề này:
“Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Huỳnh Tấn Thành vừa có thông báo sẽ thụ lý
đơn khiếu nại của ông Nguyễn Ngọc Sang - Chi Cục trưởng Chi cục Kiểm lâm
tỉnh này. Trước đó, ngày 24/4/2009, ông Sang ký quyết định thu hồi con dấu của
Đội kiểm lâm cơ động. Ngày 18/5/2009, UBND tỉnh Bình Thuận có văn bản chỉ
đạo Sở NN-PTNT và Chi Cục Kiểm lâm xử lý ông Sang vì cho rằng quyết định
thu hồi con dấu của ông Sang là trái luật. Ngày 23/12/2009, UBND tỉnh ra quyết
định xử lý kỷ luật ông Sang với hình thức cảnh cáo. Ông Sang khiếu nại quyết
định kỷ luật cảnh cáo của UBND tỉnh, vì cho rằng đã vi phạm Nghị định số
35/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005, về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức.
Theo ông Sang, Nghị định 35/CP ngày 17/3/2005 quy định thời hiệu xử lý kỷ luật
là ba tháng, và… “Thời hiệu xử lý kỷ luật có thể kéo dài thêm nhưng không quá
6 tháng. Quá thời hiệu xử lý kỷ luật thì chấm dứt việc xem xét kỷ luật cán bộ,
công chức” (khoản 3, điều 9). Ông Sang cho rằng, tính từ ngày tỉnh có văn bản
xem xét kỷ luật (18/5/2009) đến ngày ra quyết định kỷ luật ông (23/12/2009) là 7
tháng 5 ngày, nên chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận đã vi phạm pháp luật, xâm
phạm
quyền

lợi
ích
hợp
pháp
của
ông”.
Phân tích ví dụ trên thì ta thấy: bằng quyền khiếu nại chính đáng của mình, ông
Sang đã đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận xem xét lại việc ra quyết
định xử lý kỉ luật cảnh cáo đối với ông. Vì căn cứ vào: khoản 3 Điều 6; khoản
2, khoản 3 Điều 9 Nghị định số 35/2005/ NĐ – CP ngày 17/03/2003 về việc

xử lý kỉ luật cán bộ, công chức, thì việc ra quyết định kỉ luật trên đã vi phạm
6


quy định về thời hiệu (quá 6 tháng) xử lí kỷ luật cán bộ công chức. Đúng ra thì
sau 6 tháng việc xem xét kỷ luật đối với ông Sang sẽ chấm dứt, nên hành vi nêu
trên của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận là trái với quy định của pháp luật –
xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân ông Sang. Và với việc thực hiện
quyền khiếu nại đó, ông Sang đã yêu cầu Ủy ban nhân dân xem xét, tiến tới hủy
bỏ quyết định kỉ luật ông.
→ Từ đây, có thể khái quát được rằng: Thông qua khiếu nại, tố cáo của công
dân mà nhiều hành vi tham nhũng, vi phạm dân chủ hay việc giải quyết công
việc chưa thỏa đáng của cơ quan công quyền bị phát hiện và được làm sáng tỏ.
Đơn cử như ví dụ trên: với tư cách là chủ thể bị xâm hại quyền và lợi ích, ông
Sang - bằng quyền khiếu nại “trực tiếp” phát hiện những sai phạm trong hoạt
động quản lý nhà nước, mà cụ thể là ra quyết định xử lý kỉ luật đối với cán bộ,
công chức sai quy định. Đặt giả thiết như: nếu nhà nước ta không quy định, hay
chỉ quy định cho có mà không chú trọng, quan tâm đúng mức tới quyền khiếu
nại, tố cáo thì người dân sẽ xem nhẹ và không có ý thức tự giác thực hiện. Từ
đó, không thể phát hiện những hiện tượng tiêu cực, những sai phạm dù rất
nghiêm trọng trong bộ máy quản lý hành chính. Đồng nghĩa với nó là, các cơ
quan nhà nước cũng coi quyền khiếu nại, tố cáo là “hình thức” mà không cần
chú ý tới quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, rồi tự
ý làm theo ý kiến chủ quan. Sai phạm lần đầu không bị phát hiện và xử lý sẽ tạo
tiền lệ xấu cho sai phạm sau. Ban đầu sẽ chỉ là những sai phạm nhỏ, không
đáng kể (như tiến hành không đúng trình tự thủ tục, xử lý kỉ luật chưa đúng với
mức vi phạm..) nhưng về sau sai phạm càng nghiêm trọng (tham nhũng, lơi
lỏng công tác thanh tra…), không chỉ làm suy yếu hiệu quả quản lý hành chính
trong bộ máy nhà nước mà còn gây hại cho lợi ích quốc gia.
Khiếu nại, tố cáo là một hình thức giúp người dân tự mình tham gia vào

công tác quản lý nhà nước. Nếu quyền chính trị - pháp lý này được phát huy mạnh
mẽ hơn nữa thì sẽ góp phần làm trong sạch hơn bộ máy quản lý hành chính, đội
7


ngũ cán bộ, công chức. Răn đe những ai có tư tưởng lợi dụng chức quyền mà tư lợi
cho bản thân. Đồng thời, nếu làm tốt công tác khiếu nại, tố cáo thì bản thân những
người làm cán bộ sẽ luôn phải có ý thức, trách nhiệm trong công việc; luôn phải tự
mình kiểm tra, xem xét lại các quyết định hành chính và hành vi hành chính …nếu
thấy trái pháp luật thì phải kịp thời sửa chữa, khắc phục để tránh phát sinh khiếu
nại, tố cáo. Như thế là khiếu nại, tố cáo còn có chức năng phòng ngừa trước những
vi phạm trong hoạt động quản lý hành chính.
Vì thế, việc thực hiện khiếu nại, tố cáo có vai trò vô cùng to lớn trong việc mở
rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường và bảo đảm pháp chế.
II.2Vai trò của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc đảm bảo pháp
chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
“Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ 6 năm qua (tính đến năm 2005), các cơ
quan hành chính nhà nước đã tổ chức gần 25.000 cuộc thanh tra, kiểm tra trách
nhiệm thực hiện luật khiếu nại tố cáo, tiếp nhận hơn 878.000 đơn thư khiếu nại tố
cáo, kiến nghị của công dân, 80% số đơn thư được xem xét giải quyết. Qua giải
quyết khiếu nại tố cáo đã thu hồi số tiền và tài sản trị giá hơn 123 tỷ đồng, hơn
6.000 ha đất, kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính hơn 6.000 người có sai phạm,khởi
tố 91 vụ việc, 171 đối tượng về hình sự”. (Theo Vietbao.vn)
Có thể nói: mục đích của khiếu nại, tố cáo, nhằm chấm dứt những hành vi vi phạm
đường lối, chính sách và pháp luật, yêu cầu phục hồi các quyền và lợi ích đã bị
xâm hại. Ngăn ngừa thói lộng quyền và lạm quyền của những cơ quan nhà nước
được trao quyền, không để họ tùy ý sử dụng quyền lực nhà nước như một thứ công
cụ đắc lực phục vụ cho mục đích riêng. Nhưng nếu chỉ dừng ở đấy thôi thì chưa
đủ, chưa chứng tỏ được sự nghiêm minh của pháp luật; mà còn phải xử lý đúng
pháp luật cá nhân hay tổ chức đã vi phạm pháp luật, góp phần củng cố pháp chế xã

hội chủ nghĩa và kỉ luật trong quản lý hành chính nhà nước.
Giải quyết đơn thư khiếu nại của người dân, đầu tiên là tiến hành xem xét
các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định ký luật có tính hợp
pháp hay không. Qua đó, các cơ quan chức năng phải tự đánh giá lại hành vi hành
8


chính, quyết định hành chính của mình. Kiểm điểm nghiêm túc những điểm còn
thiếu sót, chưa thỏa đáng đã xâm hại quyền và lợi ích của công dân. Từ nhận thức
đến hành động, các cá nhân, cơ quan thẩm quyền phải tiến hành sửa sai: kịp thời
đình chỉ hoặc bãi bỏ những quyết định, hành vi hành chính đó. Bên cạnh đó, cũng
phải có nghĩa vụ giải quyết tận gốc vấn đề, đặt ra vấn đề trách nhiệm, kỷ luật với
bất cứ ai, cơ quan nào đã có sai phạm trong quản lý hành chính nhà nước. Nếu
nguyên nhân không phải bắt nguồn từ cá nhân hay cơ quan chủ quản mà do cơ chế,
chính sách của nhà nước thì họ cũng phải tìm cho ra, rồi kiến nghị phương hướng
khắc phục. Không để những cá nhân, tổ chức lợi dụng “kẽ hở” của pháp luật để
mưu lợi bất chính, góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật, tạo cơ sở
pháp lý đầy đủ để công dân nghiêm chỉnh chấp hành.
Giống như công tác giải quyết khiếu nại, việc giải quyết đơn thư tố cáo của
công dân cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Qua đây, các cơ quan, cá nhân
có thẩm quyền phát hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ như: Những vụ án
tham nhũng tại Đại lộ Đông - Tây (thành phố Hồ Chí Minh), vụ PMU 18, vụ đất
đai tại Đồ Sơn (Hải Phòng)... Sau khi tìm ra cá nhân, tổ chức, cơ quan có trách
nhiệm thì yêu cầu cá nhân, tổ chức, cơ quan đó phải chấp hành quyết định xử lý tố
cáo “nếu không chấp hành thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” (Điều 98 Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998). Bằng cách này, lợi ích thiết thực của cá nhân, tổ chức...hay của cả nhà
nước sẽ được bảo vệ, được khôi phục.
Giải quyết tố cáo không chỉ là cách mà các cơ quan chức năng có thể nhanh

chóng phát hiện những vi phạm nói chung, mà còn biết được ai, cơ quan, tổ chức
nào là chủ thể của hành vi vi phạm đó. Xử lý nghiêm minh mọi trường hợp vi
phạm pháp luật, bất kể họ là ai, là công dân bình thường hay quan chức ở cấp nào
để khẳng định pháp luật là công bằng, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải chịu
sự điều chỉnh của pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Mặt khác, bằng
9


việc giải quyết tố cáo còn xác định được những cán bộ, quan chức thoái hóa, biến
chất mà xử lý, đưa ra truy cứu trách nhiệm hình sự nếu cần thiết. Một mặt, nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, có năng lực, trách nhiệm trong công tác, nâng
cao chất lượng và hiệu quả quản lý hành chính. Mặt thứ hai là để nâng cao ý thức
tự giác chấp hành pháp luật của công dân nói chung, tạo điều kiện đưa pháp luật đi
sâu vào đời sống và người lao động có đủ điều kiện tự bảo vệ mình.
3. Một số nhận xét.
Thông qua hành vi khiếu nại, tố cáo công dân cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nắm bắt được những thông tin cần thiết về vi phạm pháp luật của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang, cá nhân để xem xét, xử lý những cán
bộ công chức, cá nhân vi phạm, khôi phục lại quyền đã bị xâm hại. Thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo tức là công dân đã tham gia đấu tranh chống những vi
phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể, công dân, góp phần vào việc
giám sát chung của toàn xã hội đối với hoạt động quản lý nhà nước nói chung và
quản lý hành chính nhà nước nói riêng; nâng cao hiệu lực quản lí của bộ máy nhà
nước. Từ đó, trách nhiệm của cơ quan nhà nước (cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo) ngày càng được nâng cao, góp phần vào việc giải quyết các vấn
đề liên quan đến lợi ích của công dân, giữ vững niềm tin của công dân với nhà
nước.
III.

Kết thúc vấn đề.


Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền và nghĩa vụ chính trị - pháp
lý của công dân. Đồng thời, là cơ hội, điều kiện để công dân phát huy đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình, tăng cường ý thức trách nhiệm trong việc xây
dựng, quản lý nhà nước và đảm bảo pháp chế, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nxb CAND, năm 2008.
2. Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)
3. www.vietbao.vn
4. www.baodatviet.com
5. Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hộ chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992.

11



×