Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Kháng cáo phúc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.29 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Nếu quyết định khởi tố vụ án là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc điều
tra, làm phát sinh quan hệ tố tụng hình sự giữa cơ quan có thẩm quyền và những
người tham gia tố tụng; Quyết định truy tố của Viện kiểm sát là cơ sở pháp lý để
quyết định mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án. Thì kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm sẽ là cơ sở pháp lý để tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm
tiến hành mở phiên tòa phúc thẩm xét xử lại vụ án về nội dung cũng như xét xử lại
tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm.
Để đảm bảo sự thận trọng của Tòa án trong việc xét xử và tôn trọng quyền của
bị cáo, những người tham gia tố tụng khác được chống lại bản án và quyết định của
Tòa án, BLTTHS Việt Nam năm 2003 quy định về nguyên tắc thực hiện hai cấp xét
xử. Nguyên tắc này tạo điều kiện để VKS, bị cáo và những người tham gia tố tụng
có điều kiện thể hiện thái độ không nhất của mình đối với việc xét xử của Tòa án
thông qua việc kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại một lần nữa. Xuất phát từ vai
trò quan trọng của kháng cáo, kháng nghị trong hoạt động tố tụng hình sự,
BLTTHS quy định các vấn đề về kháng cáo, kháng nghị tại các Điều 231 đến Điều
240. Tuy nhiên giới hạn đề tài mà em chọn chỉ đi nghiên cứu: “Kháng cáo phúc
thẩm”.

NỘI DUNG
BLTTHS năm 2003 quy định quyền kháng cáo của những người tham gia tố
tụng hình sự nhằm cho họ cơ hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ một
cách tối đa. Đảm bảo đảm Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù
hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, không để lọt tội phạm,
không hàm oan người vô tội. Vậy kháng cáo là gì?
I. Các quy định của luật tố tụng hình sự về kháng cáo theo thủ tục phúc
thẩm:
1. Khái niệm kháng cáo
BLTTHS năm 2003 không trực tiếp định nghĩa thế nào là kháng cáo nhưng
chúng ta có thể hiểu: Kháng cáo là quyền của người tham gia tố tụng theo quy định
của pháp luật được đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại bản án và quyết


định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

1


2. Đối tượng của kháng cáo
Đối tượng của kháng cáo phúc thẩm là những bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật:
Đối tượng của kháng cáo phúc thẩm là toàn bộ bản án hoặc một phần bản án
của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật: Về tội danh, điều khoản BLHS,
tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, hình phạt chính và hình phạt bổ sung, án phí…
Đối tượng của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là các quyết định của Tòa án
cấp phúc thẩm như: Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án (Khoản 2, Điều 239,
BLTTHS); Quyết định về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Khoản 2,
Điều 316, BBLTTHS)…
Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện sai lầm không
phải là đối tượng của kháng cáo phúc thẩm mà là đối tượng của kháng nghị giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Vậy những chủ thể nào có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm?
3. Chủ thể của quyền kháng cáo (Điều 231, BLTTHS năm 2003):
Những người tham gia tố tụng có quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến
bản án hoặc quyết định của Tòa án sơ thẩm đều có quyền kháng cáo. Phạm vi
kháng cáo của những người có quyền kháng cáo đối với bản án hoặc quyết định sơ
thẩm phụ thuộc vào tư cách tố tụng của họ trong vụ án.
Căn cứ theo Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và theo hướng dẫn tại
mục 1, phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ – HĐTP ngày 08/12/2005 của HĐTP
TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “xét xử phúc
thẩm”của BLTTHS (gọi tắt là Nghị quyết số 05/2005/NQ – HDTP ngày
08/12/2005)). Những người có quyền kháng cáo bao gồm:
3.1 Bị cáo và người đại diện hợp pháp:

Bị cáo, người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của bị cáo là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng
cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm liên quan đến mình hoặc người mà
mình đại diện nếu thấy bản án hoặc quyết định đó chưa hợp lí.
Bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm : Về tội danh, điều khoản
BLHS, hình phạt chính và hình phạt bổ sung….nếu bị cáo là người thành niên và

2


không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì phải tự mình thực hiện quyền
kháng cáo.
Nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm hần hoặc
nhược điểm về thể chất thì có thể tự mình thực hện quyền kháng cáo; người đại
diện hợp pháp của họ cũng có quyền kháng cáo mà không cần có sự đồng ý hoặc
yêu cầu của bị cáo, họ có thể kháng cáo song song cùng với bị cáo.
Người được Tòa án tuyênn bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do
bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội. Ví dụ: A không thực hiện hành vi
phạm tội nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại nhận định A có thực hiện hành vi trái pháp
luật nhưng chưa đến mức cấu thành tội phạm. Trường hợp này A có quyền kháng
cao yêu cầu Tòa án phúc thẩm sửa lại phần nhận định của bản án sơ thẩm co đúng
với sự thật.
3.2 Người bào chữa:
Người bào chữa cho bị cáo cho bị cáo chưa thành niên hoặc có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích cho bị cáo. Đây là
quyền kháng cáo độc lập, không phụ thuộc vào việc bị cáo có đồng ý hay không.
Việc kháng cáo của người bào chữa không loại trừ quyền tự kháng cáo của bị cáo.
3.3 Người bị hại và người đại diện hợp pháp:
Người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo
hướng có lợi hoặc làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại:
+ Người đại diện theo pháp luật của người bị hại:
Người đại diện theo pháp luật của người bị hại trong trường hợp người bị hại
chết, người bị hại chưa thành niên, có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần có
quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc
làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
Trường hợp người bị hại chết mà có từ hai người trở lên đều là người đại diện
hợp pháp (cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên của người bị hại) thì phân biêt như
sau:
Trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm những người này đã
đồng ý cử một người trong số họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp

3


pháp của người bị hại thì thì sau khi xét xử sơ thẩm những người này vẫn có quyền
kháng cáo. Việc kháng cáo có thể do từng người thực hiện hoặc một người trong số
họ được cử thay măt thực hiện.
Trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, những người này
chưa cử ai trong số họ thay mặt làm người đại diện hợp pháp, mà người đại diện
hợp pháp của người bị hại chỉ do một hoặc một số người tự nhận, nếu sau khi xét
xử sơ thẩm có người trong số những người chưa cử đại diện có đơn khiếu nại bản
án sơ thẩm hoặc yêu cầu xét xử phúc thẩm mà nội dung đơn của họ phù hợp với nội
dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng thì tòa án cấp
phúc thẩm chấp nhận để xét xử theo thủ tục chung. Nếu nội dung đơn của họ không
phù hợp với nội dung kháng cáo của người địa diện hợp pháp đã tham gia tố tụng
hoặc người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng không có kháng cáo nhưng trong
vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác kháng cáo, VKS kháng nghị thì
tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hoặc quyết định phúc thẩm sơ thẩm về phần có
liên quan mà họ khiếu nại hoặc yêu cầu xét xử phúc thẩm để điều tra lại hoặc xét

xử sơ thẩm lại do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (chưa đưa họ cào hoạt
động tố tụng khi quyền, lợi ích của họ xung đột với quyền, lợi ích của người đại
diện hợp pháp đã tham gia tố tụng ). Nếu trong vụ án không có kháng cáo, kháng
nghị nào khác thì đơn của họ được coi là đơn khiếu nại đối với bảm án hoặc quyết
định sơ thẩm. Trong trường hợp này, bản án hoặc quyết định sơ thẩm sẽ được xem
xét lại theo trình tự giám đốc thẩm. Ví dụ: B bị đánh đến mức tử vong do chấn
thương sọ não, ông C nhờ ông H (bác ruột của B) liên hệ với cơ quan điều tra, VKS
để giải quyết vụ việc. Gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình người bị hại
20.000.000 đồng. Trong bản án sơ thẩm tòa án xác định người đại diện hợp pháp
của người bị hại là ông H . Việc xác định của Tòa án sơ thẩm như vậy là sai vì ông
C không ủy quyền cho ông H tham gia phiên tòa. Mặt khác nếu có ủy quyền hợp
pháp tham gia phiên tòa thì bản án vẫn phải xác định người đại diện hợp pháp cho
người bị hại là cha, mẹ, vợ, con đã thành niên của người bị hại (đã chết). Sau khi
bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật chị G (vợ của anh B) có đơn kháng cáo gửi
TAND tỉnh với nội dung gia đình chị không nhận được quyết định đưa vụ án ra xét
xử nên không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Nay được biết quyết định của tòa án sơ

4


thẩm, chị đề nghị tăng mức bồi thường vì tòa án sơ thẩm không xét đến phần bồi
thường dân sự. Tuy ông C không kháng cáo nhưng nội dung kháng cáo của chị G là
phù hợp với quyền và lợi ích của ông C nên không thể mở phiên tòa phúc thẩm để
xét kháng cáo mà phải giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm…
+ Người đại diện theo ủy quyền của người bị hại:
Người đại diện của người bị hại theo ủy quyền có quyền kháng cáo phần bản
án, quyết định sơ thẩm liên quan đến phần bồi thường thiệt hại. Do đó, việc tòa án
cấp phúc thẩm chấp nhận người bị hại ủy quyền cho mẹ mình và chấp nhận ủy
quyền lại giữa mẹ và cha của người bị hại kháng cáo theo hướng không cho bị cáo
được hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng (Theo quyết định giám đốc thẩm số

24/2006/HS – GDT ngày 23/8/2006 của tòa hình sự TANDTC).
3.4 Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự:
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền
kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến phần bồi thường thiệt hại.
Do nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự tham gia vụ án hình sự để giải quyết vấn đề
dân sự phát sinh trong vụ án hình sự,vì vậy quyền kháng cáo của họ chỉ hạn chế
trong phạm vi những bản án, quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại,
3.5 Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp:
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp (đại
diện theo pháp luật hoặc đại diênk theo ủy quyền) có quyền kháng cáo phần bản án
hoặc quyết định sơ thẩm liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ hoặc của chủ thể
mà họ đại diện.
3.6 Người bảo vệ quyền lợi của đương sự:
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự chưa thành niên, người có nhược điểm
về thể chất hoặc tâm thần có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định sơ thẩm liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. Đây là quyền kháng cáo
độc lập, không phụ thuộc đương sự có đồng ý hay không.
4. Thời hạn kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm
4.1 Thời hạn kháng cáo bản án:

5


Thời hạn kháng cáo bản án là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Tronng
trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ
ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
4.2 Thời hạn kháng cáo những quyết định của tòa án cấp sơ thẩm:
Thời hạn kháng cáo quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án của tòa án cấp sơ
thẩm là 7 ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Thời
hạn kháng cáo quyết định về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của tòa án

cấp sơ thẩm tương tự thời hạn kháng cáo bản án.
- Kháng cáo quá hạn: (Điều 235, BLTTHS, Hướng dẫn tại Mục 5, Phần I,
Nghị quyết 05/2005/NQ – HDTP ngày 08/12/2005)
Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chinh đáng. Lý do
chính đáng là những trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà
người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định.
Ví dụ: Do thiên tai, lũ lụt, ốm đau, tai nạn phải nằm viện…Việc xét lý do kháng
cáo quá hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm không phụ
thuộc vào việc ngoài bị cáo, đương sự kháng cáo quá hạn, trong vụ án còn có bị
cáo, đương sự khác kháng cáo trong thời hạ luật định. Tòa án cấp phúc thẩm thành
lập hội đồng xét xử gồm 3 thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn. Phiên họp
xét lý do kháng cáo quá hạn không bắt buộc phải có sự tham gia của đại diện VKS
cùng cấp. trong trường hợp cần thiết hội đồng xét xử có quyền triệu tập người
kháng cáo quá hạn đến phiên hop trình bày bổ sung về lý do kháng cáo quá hạn
hoặc yêu cầu ho cung cấp giấy tờ , tài liệu bổ sung chứng minh cho việc kháng cáo
quá hạn của mình là có lý do chính đáng. Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định
chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn.
- Thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo phúc thẩm:
Thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo là ngày tiếp theo của ngày được xác
định. Ngày được xác định là ngày tòa án cấp sơ thẩm tuyên án (trong trường hợp bị
cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa kháng cáo); ngày bản án được giao hoặc niêm
yết (trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tai phiên tòa kháng cáo); ngày
người có quyền kháng cáo nhận được quyết định (trong trường hợp kháng cáo
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án).

6


Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của
thời hạn. Nếu là ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày lễ

thì thời hạn kết thúc tai ngày làn việc đầu tiên liên tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời
điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc 24 giờ của ngày đó.
- Xác định ngày kháng cáo:
Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cao là ngày
bưu điện nơi gửi đống dấu phong bì.
Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua ban giám thì trại giam thì ngày kháng cáo
là ngày mà Ban giám thị nhận được đơn.
Trường hợp người kháng cáo đến nộp đơn hoặc trình bày trực tiếp về việc
kháng cáo tại tòa án thì ngày kháng cáo là ngày tòa án nhận được đơn hoặc lập biên
bản về việc kháng cáo.
5. Thủ tục kháng cáo; thông báo kháng cáo, gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo
phúc thẩm:
- Thủ tục kháng cáo (Điều 233 BLTTHS):
Người kháng cáo phải gửi đơn đến tòa án đã xử sơ thẩm hoặc tòa án cấp phúc
thẩm hoặc trình bày trực tiếp với tòa án đã xử sơ thẩm việc kháng cáo.
- Thông báo về việc kháng cáo:
Theo Điều 236, BLTTHS việc kháng cáo phải được Tòa án cấp sơ thẩm thông
báo cho những người tham gia tố tụng trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được
kháng cáo. Nghị quyết số 05/2005/NQ – HDTP ngày 08/12/2005 xác định rõ hơn:
Tòa án cấp sơ thẩm không phải thông báo về việc kháng cáo cho chính những
người được kháng cáo. Đối với những người tham gia tố tụng khác tòa án phải
thông báo cho họ biết nếu việc xét xử phúc thẩm có liên quan đến quyền lợi, nghĩa
vụ của họ. Người được thâng báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý
kiến của mình về nội dung kháng cáo cho tòa án cấp phúc thẩm. Ý kiến của họ
được đưa vào hồ sơ vụ án.
- Gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo (Khoản 2, Điều 237)
Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo cho tòa án cấp phúc
thẩm trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo.
6. Bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo phúc thẩm:


7


6.1 Bổ sung, thay đổi kháng cáo: (Hướng dẫn tại Mục 7, Phần I, Nghị quyết
05/2005/NQ – HDTP ngày 08/12/2005)
- Trong trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo thì người kháng cáo có quyền
bổ sung, thay đổi nội dung kháng cáo đối với phần hoặc toàn bộ bản án mà mình có
quyền kháng cáo theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo.
- Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị thì trước khi bắt đầu
hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền bổ sung, thay đổi nội dung
kháng cáo nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
6.2 Rút kháng cáo:
- Trong trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, trong vụ án không
còn kháng cáo khác, kháng nghị khác thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ.
Trước khi mở phiên tòa, thẩm quyền ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm
thuộc về thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Tại phiên tòa, thẩm quyền
ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm thuộc về hội đồng xét xử.
- Trong trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, nhiều người
kháng cáo nhưng có người rút, có người không rút kháng cáo thì tòa án sẽ xét xử
với phần kháng cáo còn lại.
- Trong trường hợp người kháng cáo đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo
nhưng sau đó có kháng cáo lại mà vẫn còn trong thời hạn kháng cáo thì vẫn được
chấp nhận để xét xử phúc thẩm.
7. Hậu quả của kháng cáo phúc thẩm:
7.1 Hậu quả của kháng cáo phúc thẩm đối với việc thi hành án (Điều 237,
BLTTHS):
Kháng cáo toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành.
Kháng cáo một phần bản án thì phần bản án bị kháng cáo chưa được đưa ra thi
hành. Phàn bản án đối với những bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật và được thi hành.( Trừ các trường hợp thuộc

Khoản 2, Điều 255, BLTTHS), và quyết định áp dụng chữa bệnh của tòa án vẫn có
hiệu lực thi hành mặc dù có kháng cáo.(Khoản 3, Điều 316).
7.2 Hậu quả của kháng cáo đối với phạm vi xét xử phúc thẩm: (Điều 241).

8


Nội dung kháng cáo, kháng nghị giới hạn phạm vi xét xử phúc thẩm là nguyên
tắc cổ xưa trong kho tàng pháp luật nhân loại. Vì vậy:
- Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo:
Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xet hết tất cảc các kháng cáo hợp pháp.
- Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo của
bản án sơ thẩm nếu xét thấy cần thiết.
II. Một số đề xuất hoàn thiện các quy định của luật tố tụng hình sự về
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm:
Qua quá trình nghiên cứu các quy định của luật tố tụng hình sự về kháng trình
tự, thủ tục kháng cáo, thời hạn kháng cáo, hậu quả của việc kháềg cáo. Có thể thấy,
những quy định này thực sự đang ngày càng phát huy vai trò to lớn của mình trong
hoạt động tố tụng, là một nhân tố giúp những người tham gia tố tụng hình sự có
thêm nhiều cơ hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, những
quy định này của Bộ luật tố tụng hình sự cũng không tránh khỏi một số điểm hạn
chế. Sau đây là một số kiến nghị của em khi đi sâu nghiên cứu vấn đề kháng cáo
theo thủ tục phúc thẩm:
- Thứ nhất, Điều 231, BLTTHS năm 2003 quy định “những người có quyền
kháng cáo” quy định người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền
kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định của tòa án sơ thẩm (Theo hướng dẫn tại
tiểu mục 1.1 mục 1 phần I, Nghị quyết 05/2005/NQ – HDTP ngày 08/12/2005).
Quy định như vậy là quá rộng vì có những quyết định trong bản án về xử lý vật
chứng, án phí…là những quy định không liên quan đến quyền lợi của người bị hại
và thực tế họ cũng không kháng cáo về vấn đề đó. Trong khi Điều 231, BLTTHS

quy định quá rộng thì tại Điểm e, Khoản 2, Điều 51, BLTTHS lại quy định người bị
hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền: “kháng cáo bản án, quyết định
của tòa về phần bồi thường cũng như hình phạt đối với bị cáo”. Như vậy, phạm vi
kháng cáo của người bị hại lại quá hẹp, họ chỉ có quyền kháng cáo về khung, mức
và loại hình phạt mà không được kháng cáo về tội danh như vậy là hạn chế quyền
của người bị hại? Có thể thấy trong cùng một BLTTHS mà có hai điều luật liên
quan đến kháng cáo của người bị hại đã không thống nhất với nhau và hướng dẫn
của cơ quan có thẩm quyền cũng không giải quyết được mâu thuẫn này. Đây là một

9


vấn đề không chỉ liên quan đến quyền của người bị hại mà còn liên quan đến các
quy định như phạm vi xét xử, quyền sửa án sơ thẩm của tòa án cấp phúc thẩm…Vì
vậy, cần có một quy định roc ràng và thống nhất về quyền kháng cáo của người bị
hại. Theo đó chúng ta nên thống nhất quy định người bị hại có quyền kháng cáo
toàn bộ bản án trong mọi điều luật có liên quan đến vấn đề này tại BLTTHS.
- Thứ hai, BLTTHS cũng cần quy định thêm trường hợp có đơn kháng cáo của
người đại diện hợp pháp của người bị hại tại Khoản 3, Điều 249 nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của người bị hại là người chưa thành niên hoặc có
nhược điểm về tâm thần hoặc về thể chất thống nhất với quy định tại Điều 231,
BLTTHS. Tuy quy định tại Điều 249 là quy định về thẩm quyền sửa bản án sơ
thẩm của tòa án cấp phúc thẩm nhưng chúng ta cũng cần quy định thêm để bảo vệ
quyền lợi của người bị hại là người chưa thành niên vì theo tinh thần tại Điều 231
quy định cho người đại diện hợp pháp cho người bị hại được quyền kháng cáo toàn
bộ bản án vì xuất phát từ đặc điểm của những người này họ chưa hoặc không có
đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi như người bình thường, thể hiện
bản chất nhân đạo của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Thứ ba, Cần bổ sung thêm quyền kháng cáo cho người bị hại và đại diện hợp
pháp của họ tại Điểm e, Khoản 2, Điều 51, BLTTHS đối với quyết định cho bị cáo

hưởng án treo (biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện) của tòa án sơ
thẩm vì án treo không phải là “hình phạt”. Có như vậy thì mới kiểm sát được tối đa
tính hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định của tòa án sơ thẩm, và cũng bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Nếu không quy định như vậy
trong nhiều trường hợp quyết định cho bị cáo hưởng án treo của tòa án cấp sơ thẩm
sẽ dẫn đến việc áp dụng bừa bãi, hiện tựợng lộng quyền…gây mất lòng tin của
nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật. Ví dụ: A bị B gây thương tích, ttyr lệ
thương tật là 9% Tòa sơ thẩm cho bị cáo B hươngr án treo, thấy B không bị không
phải chịu hình phạt tù mà còn ngang nhiên ở nhà, A nảy sinh ý định “tự xử” liền
đến nhà B gây thương tích cho B theo cách nghĩ “nợ máu phải trả bằng máu”;
những tình huống như vậy trên thực tế đã không ít lần xảy ra tạo hồi chuông báo
động cần phải quy định đầy đủ về vấn đề này.

10


- Thứ tư, Về quy định tại Điều 235, BLTTHS về kháng cáo quá hạn, mặc dù đã
được hướng dẫn thực hiện tại Mục 5, Phần I, Nghị quyết 05/2005/NQ – HDTP
ngày 08/12/2005. Tuy nhiên, vấn đề chấp nhận kháng cáo quá hạn nếu lý do chính
đáng không phải là vấn đề phức tạp mà việc giải quyết kháng cáo quá hạn lại rất
phức tạp. Trong khi Điều 235, BLTTHS và Mục 5, Nghị quyết 05/2005/NQ –
HDTP mới chỉ quy định chủ yếu về thủ tục xét lý do kháng cáo quá hạn chưa quy
định về rất nhiều vấn đề như vấn đề thời hạn, thủ tục cách thứ giải quyết cũng như
những việc có liên quan đến vấn đề thi hành án. Ví dụ: Những phần bản án bị
kháng cáo quá hạn đã có hiệu lực pháp luật và có thể đã được đưa ra thi hành thì sẽ
được giải quyết như thế nào? Chưa được quy định và hướng dẫn cụ thể để tòa án
cấp phúc thẩm và cơ quan có liên quan có thể căn cứ để vào đó để giải quyết. Vì
vậy cần phải bổ sung những quy định về vấn đề này vào BLTTHS và có những
hướng dẫn thống nhất về cách thức giải quyết của những cơ quan có thẩm quyền.
Làm được điều này, cũng sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích của những người kháng

cáo quá hạn, hạn chế được thực trạng vô trách nhiệm của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, tránh tồn đọng án khi quy định về thời hạn… cho vấn đề này.
- Thứ năm, Trong nhiều trường hợp việc bổ sung kháng cáo dẫn đến việc mở
rộng phạm vi những người có liên quan đến kháng cáo. Điều đó đòi hỏi phải triệu
tập thêm những người đó đến phiên tòa phúc thẩm mà vấn đề này lại chưa được
quy định trong luật. Vì:
Nếu việc bổ sung kháng cáo được tiến hành trong thời hạn kháng cáo, sau khi
chấp nhận kháng cáo có bổ sung đó tòa án cấp phúc thẩm có thể kháng cáo và triệu
tập những người có liên quan đến kháng cáo (kể cả kháng cáo bổ sung) theo quy
định chung.
Nếu tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc bổ sung kháng cáo tại phiên tòa là
hợp lệ và việc bổ sung kháng cáo dẫn đến việc mở rộng phạm vi người có liên quan
đến kháng cáo thì tại phiên tòa phúc thẩm sẽ không có mặt những người có quyền
và lợi ích hợp pháp liên quan đến phần kháng cáo mới được bổ sung. Ví dụ: Trong
trường hợp ngay trước khi mở phiên tòa mà tòa án phúc thẩm mới nhận được
kháng cáo quá hạn của bị cáo …kháng cáo yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại

11


kháng cáo được hội đồng xét xử chấp nhận, và có căn cứ để giảm mức bồi thường
thiệt hại cho bị cáo những nguyên đơn dân sự lại không có mặt tại phiên tòa?
Theo đó, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho những người tham gia tố tụng, tạo
điều kiện cho họ được tham gia phiên tòa để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, cần
phải quy định thêm về việc triệu tập thêm những người có liên quan đến kháng cáo
bổ sung….
- Thứ sáu, Về trường hợp có nên bổ sung thêm quyền kháng cáo theo hướng
bất lợi cho bị cáo của người đại diện hợp pháp, người bào chữa cho bị cáo là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần hiện vẫn còn rất
nhiều quan điểm. Do pháp luật không hạn chế hướng kháng cáo nên có quan điểm

cho rằng người đại diện hợp pháp và người bào chữa cho bị cáo, người chưa thành
niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần có quyền kháng cáo theo
hướng bất lợi cho bị cáo. Tuy nhiên hiểu như vậy là sai với tinh thần của BLTTHS
về vấn đề này vì: Người đại diện hợp pháp, người bào chữa cho bị cáo là những
người tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo vốn đã
hạn chế những khả năng tự bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, hai chủ
thể này không thể dùng quyền kháng cáo của mình để yêu cầu hội đồng xét xử sử
bản án theo hướng bất lợi cho bị cáo – người mà những người này đang đại diện và
bảo vệ. Như vậy pháp luật cần có quy định để hạn chế hướng kháng cáo của người
đại diện hợp pháp và người bào chữa cho bị cáo là người chưa thành niên hoặc là
người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần với nội dung bất lợi cho bị cáo của
chính bị cáo, người đại diện hợp pháp và người bào chữa, cũng không thể coi đây
là căn cứ để tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định sửa bản án theo hướng tăng nặng
trách nhiệm hình sự cho bị cáo tại Khoản 3, Điều 249, BLTTHS năm 2003.

KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu về các quy định của luật tố tụng hình sự chúng ta có
thể thấy vai trò của kháng cáo phúc thẩm trong quan hệ tố tụng. Chúng ta đã chỉ ra
những hạn chế, những điểm chưa phù hợp của luật khi quy định về vấn đề. Hi vọng
trong thời gian tới BLTTHS nói chung và chế định về thẩm quyền kháng cáo phúc
thẩm nói riêng được sớm sửa đổi, bổ sung nhằm đưa pháp luật vào đời sống thực

12


thế, năng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án. Củng cố lòng tin của nhân dân
vào nền pháp chế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên đây là phần trình bày của em về vấn đề “kháng cáo phúc thẩm”. Trong
bài làm có gì thiếu sót mong thầy(cô) bỏ qua và đóng góp ý kiến cho bài làm thêm
hoàn thiện. Xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008.
2. Võ Khánh Vinh (chủ biên), “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003”, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.
3. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2003.
4. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
05/2005/NQ – HDTP ngàyCô 08/12/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
5. Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công, “Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án
hình sự”, Nxb. Lao động, Hà nội, 2008.
6. Phan Thị Thanh Mai, “Phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận
án thạc sỹ luật học. Hà nội, 1998.

13


14



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×