Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VIỆC THỰC HIỆN THU NGÂN SÁCH TỪ CÁC KHOẢN TIỀN VAY CỦA CHÍNH PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.29 KB, 12 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Các khoản nợ quốc gia vượt quá cao so với mức an toàn ở những nền kinh tế
phát triển, trong đó có Việt Nam; đang trở thành chủ đề nóng hiện nay bởi đó là yếu tố
có nguy cơ đe dọa những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, khiến nền kinh
tế rơi vào tình trạng suy giảm. Vậy nợ Chính phủ là gì và cần nhìn nhận, xem xét vấn
đề giám sát việc thực hiện thu ngân sách từ các khoản tiền vay của Chính phủ ở nước
ta hiện nay như thế nào?

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VIỆC THỰC HIỆN THU NGÂN
SÁCH TỪ CÁC KHOẢN TIỀN VAY CỦA CHÍNH PHỦ.
1. Khái niệm nợ chính phủ.
a. Định nghĩa.
- Theo khoản 2 Điều 3 Luật Quản lý nợ công năm 2009: “Nợ Chính phủ là khoản
nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh
Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát
hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm
khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ”.
- Dưới góc độ kinh tế: Nợ Chính phủ (còn gọi là nợ công hoặc nợ Quốc gia) là
tổng giá trị các khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi
vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách. Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho
các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ
kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường
đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
b. Cơ sở thực hiện.
1


Cơ sở pháp lý để thực hiện các khoản tiền vay của Chính phủ là quyết định của
Quốc hội và cơ quan có thẩm quyền về việc tiến hành vay nợ. Bên cạnh đó, chúng chỉ


được thực hiện khi Nhà nước có nhu cầu bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước.
c. Phân loại.
- Theo phạm vi vay nợ:
+ Nợ trong nước: Là các khoản vay mà Chính phủ có được từ người cho vay trong
nước ( từ các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp…có đủ khả năng và điều kiện cho vay
tại thời điểm đó). Nợ trong nước không chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nợ Chính phủ
của nước ta.
+ Nợ ngoài nước: Là các khoản vay của người cho vay ngoài nước, thường là các
Chính phủ nước ngoài, các thể chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên Chính phủ,
các tổ chức quốc tế….Nợ nước ngoài có vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng cao nhất
trong cơ cấu nợ Chính phủ của nước ta hiện nay. Tính đến ngày 31/12/2009, tổng dư nợ
nước ngoài quốc gia (bao gồm nợ nước ngoài Chính phủ và nợ nước ngoài được Chính
phủ bảo lãnh) là 27,929 tỷ USD; dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài ngắn hạn là 290%
(khuyến nghị của WB là trên 200%); nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với tổng thu ngân sách
nhà nước 5,1% (ngưỡng an toàn của WB là dưới 35%). Cơ cấu đồng tiền vay trong tổng
dư nợ nước ngoài Chính phủ cũng khá đa dạng, được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ
giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ (1). Với số liệu trên có thể
thấy, các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ ta rất đa dạng và vẫn đang tăng lên, tuy nợ
quốc gia vẫn trong giới hạn an toàn ( so với các tiêu chí của WB ) tuy nhiên cũng cần
quan tâm đến vấn đề nợ công của Chính phủ khi trên thế giới đã có nhiều nước phải đối
mặt với cuộc khủng hoảng nợ công, gây bất ổn cho nền kinh tế xã hội của quốc gia.
- Theo cách thức vay nợ:
+ Phát hành trái phiếu Chính phủ: Trái phiếu Chính phủ là loại trái phiếu do Bộ
Tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn cho
công trình, dự án đầu tư cụ thể. Việc Chính phủ phát hành trái phiếu Chính phủ để nhằm
1

. />
2



vay từ các tổ chức, cá nhân cả trong và ngoài nước. Trái phiếu Chính phủ phát hành bằng
nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế hoặc có thể in
thêm tiền để có thể thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu Chính phủ phát hành
bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với
khi phát hành bằng nội tệ vì Chính phủ có thể không đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài
ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái.
+ Vay trực tiếp: Chính phủ có thể vay trực tiếp từ ngân hàng thương mại ở trong
nước (thực chất là ngân hàng thương mại sẽ tăng việc in tiền) hoặc các thể chế tài chính
quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB), các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức quốc tế…..để nhằm bù đắp ngân
sách nhà nước đang bị thiếu hụt. Hình thức vay này thường được Chính phủ của các nước
có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành
trái phiếu Chính phủ của họ không cao.
Ngoài ra, các khoản vay nợ của Chính phủ còn được phân theo thời hạn vay nợ: Nợ
ngắn hạn ( từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn
(trên 10 năm).
d. Tác động của việc vay nợ chính phủ đến nền kinh tế vĩ mô.
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng một khoản nợ
chính phủ lớn làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại bởi:
+ Quốc gia buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng
tiêu dùng giảm sút.
+ Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở
hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ).
Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính
phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư. Nợ trong nước tuy được
coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công
dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng
thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã

hội. Có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế
3


vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng crowding out (đầu tư cho chi tiêu của
chính phủ tăng lên).
+ Việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ làm giá trái phiếu chính phủ giảm, bởi
vậy chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua. Điều này
tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư; tác
động tích cực đến động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn
làm cho lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền
từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu ròng.
+ Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài sản thì
khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người nắm giữ tài
sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Điều này gây ra áp lực lạm
phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực.
2. Hoạt động giám sát việc thu ngân sách từ các khoản tiền vay của chính phủ
trên cơ sở pháp luật hiện hành.
a. Mục đích của việc giám sát.
Hoạt động giám sát việc thu ngân sách từ các khoản tiền vay của Chính phủ
nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn nợ, đảm bảo sự bền vững nợ về mặt dài hạn, an ninh tài
chính và tiền tệ quốc gia; Xác định sớm các rủi ro tiềm ẩn đối với danh mục nợ; Giúp cơ
quan chủ trì giám sát nợ đề xuất với Chính phủ các biện pháp xây dựng, điều chỉnh danh
mục nợ kịp thời khi cần thiết nhằm tối ưu hoá các phương án huy động vốn, giảm thiểu
rủi ro và chi phí cho ngân sách nhà nước và nền kinh tế; Làm cơ sở cho việc hoạch định
các chính sách, mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công và
nợ nước ngoài của quốc gia trong từng giai đoạn, phù hợp với các định hướng, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; Tăng cường minh bạch tài chính, tăng cường
quản lý các nghĩa vụ dự phòng; Nâng cao hiệu quả công tác phân tích, dự báo tài chính,
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô trong từng

thời kỳ.
b. Nguyên tắc giám sát.

4


Phải được thực hiện liên tục, thường xuyên; Đảm bảo các quy định, hướng dẫn
phải được tuân thủ, các kiến nghị đề xuất phải kịp thời, cụ thể và có tính khả thi; Chi phí
giám sát, phân tích, đánh giá về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia do ngân sách nhà
nước đảm bảo.
c. Hoạt động giám sát của các cơ quan có thẩm quyền.
Theo Luật quản lý nợ công năm 2009 và Thông tư số 56/2011/TT-BTC của Bộ
Tài chính ngày 29/4/2011 hướng dẫn phương pháp tính toán các chỉ tiêu giám sát và tổ
chức hoạt động giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia, thì hiện nay, những cơ
quan có thẩm quyền giám sát việc thực hiện các khoản thu ngân sách từ các khoản tiền
vay của Chính phủ đó là:
+ Quốc hội (quy định tại Khoản 5 Điều 7)
+ Chính phủ (quy định tại Khoản 5 Điều 8)
+ Thủ tướng Chính phủ (quy định tại Khoản 9 Điều 9)
+ Các Bộ như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Cơ quan ngang Bộ như
Ngân hàng nhà nước (quy định từ Điều 10 đến Điều 13)
Theo đó:
+ Quốc hội: Giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý
nợ công. Quốc hội có toàn quyền thực hiện giám sát quản lý nợ công và ban hành các
nghị quyết về quản lý nợ công. Các nghị quyết về giám sát quản lý nợ công của Quốc hội
có giá trị pháp lý cao, tương đương với luật do Quốc hội ban hành. Trong nhóm chỉ tiêu
về quản lý nợ công Chính phủ cần báo cáo và Quốc hội tổ chức thẩm tra, thảo luận và
ban hành nghị quyết có các chỉ tiêu cơ bản về nợ công, bao gồm: nợ công so với GDP;
nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP; …
+ Chính phủ: Tổ chức thanh tra, kiểm tra về huy động, phân bổ, sử dụng vốn

vay, trả nợ và quản lý nợ công; báo cáo Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về sử
dụng vốn vay, quản lý nợ công và việc thực hiện dự án, công trình quan trọng quốc gia,
chương trình phát triển kinh tế - xã hội quan trọng khác sử dụng vốn vay của Chính phủ.
+ Thủ tướng Chính phủ: Chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp
luật về quản lý nợ công.
5


+ Bộ Tài chính: Chủ trì thực hiện việc giám sát vĩ mô tình trạng nợ công, các chỉ
tiêu an toàn nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia và báo cáo Thủ tướng Chính phủ
định kỳ hàng năm trước 30/6 năm sau.
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Chủ trì giám sát, đánh giá thực trạng và hiệu quả sử
dụng vốn vay ODA theo quy định của Chính phủ; tham gia với Bộ Tài chính trong việc
kiểm tra, giám sát về nợ công; tính toán các chỉ tiêu an toàn nợ; tình hình huy động, sử
dụng vốn vay và trả nợ công, nợ nước ngoài quốc gia.
+ Ngân hàng nhà nước: Tham gia, phối hợp với Bộ Tài chính trong việc kiểm
tra, giám sát về nợ nước ngoài của quốc gia, các chỉ tiêu an toàn nợ nước ngoài của quốc
gia, tình hình huy động, sử dụng vốn vay và trả nợ nước ngoài của quốc gia.
+ Các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan khác ở Trung ương có trách nhiệm
phối hợp và tạo điều kiện cho cơ quan kiểm tra, giám sát trong quá trình kiểm tra, giám
sát; báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu kịp thời, đầy đủ và chịu trách nhiệm về những
nội dung đã cung cấp có liên quan đến việc huy động, sử dụng vốn vay và trả nợ công và
nợ nước ngoài của quốc gia.
II. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VIỆC THU NỢ CHÍNH PHỦ.
1. Những mặt tích cực.
- Về mặt pháp lý.
Vay nợ chính Chính phủ là một vấn đề lớn và vô cùng quan trọng đối với hầu hết
các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Do tác động của khủng hoảng tài chính
toàn cầu, vấn đề này ngày càng có xu hướng tăng. Bởi vậy, tăng cường hoạt động giám
sát của các cơ quan nhà nước trong việc giám sát việc thực hiện các khoản thu ngân sách

từ các khoản tiền vay của chính phủ là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết.
Trong thời gian qua, hoạt động giám sát việc thực hiện các khoản thu ngân sách từ các
khoản tiền vay của Chính phủ đã đạt được nhiều thành tựu, trong đó phải kể đến việc Quốc
hội đã ban hành Luật Quản lý nợ công Việt Nam 2009 nhằm hoàn thiện hơn khung pháp lý
về quản lý nợ công nói chung cũng như về giám sát nợ Chính phủ nói riêng. Ngoài ra, đối
với vay nợ trong nước của Chính phủ, văn bản cao nhất điều chỉnh vay nợ trong nước của
Chính phủ là “ Nghị định 34/1999/NĐ-CP quy định việc phát hành công trái xây dựng tổ
6


quốc năm 1999”. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành 1 số văn bản pháp luật như: “
Nghị định 141/2003/NĐ-CP năm 2003 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương; Nghị định 42/2005/NĐ-CP quy
định việc phát hành công trái xây dựng tổ quốc năm 2005 - công trái giáo dục”. Các văn bản
này điều chỉnh một số phân đoạn trong quy trình quản lý nợ trong nước thông qua trái phiếu,
tập trung chủ yếu cho quy trình phát hành và sử dụng vốn huy động, như quy định rõ về các
chủ thể phát hành các công cụ nợ; mục đích, phương thức, điều kiện phát hành, nguyên tắc
xác lập lãi suất; cách thức thanh toán và sử dụng nguồn vốn huy động; phân công trách
nhiệm quản lý đối với quá trình phát hành và bảo lãnh phát hành.
Đối với vay nợ nước ngoài, văn bản pháp lý cao nhất hiện nay là Nghị định số
134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý vay và trả
nợ nước ngoài, và Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ ban
hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức. Căn cứ vào các
Nghị định này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quy chế hướng dẫn cụ thể về quy
trình, thủ tục đối với từng nghiệp vụ quản lý nợ nước ngoài như cấp và quản lý bảo lãnh
Chính phủ, cho vay lại từ nguồn vay, viện trợ nước ngoài của Chính phủ, xây dựng hệ
thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng và báo cáo thông tin nợ. Nhìn chung, các văn
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động vay nợ nước ngoài là tương đối đầy đủ và
đồng bộ, đã thể hiện những quan điểm đổi mới trong quản lý nợ của Chính phủ, phù hợp
Luật ngân sách nhà nước năm 2002, đồng thời cập nhật những khái niệm, những phương

pháp luận quản lý nợ hiện đại, phù hợp thông lệ quốc tế.
Ngoài việc quản lý bằng quy phạm pháp luật, quản lý nợ còn có các công cụ khác
như: kế hoạch vay, trả nợ hàng năm; dự toán NSNN, trong đó xác định mức bội chi và kế
hoạch vay, trả nợ hàng năm; các quy định quản lý đối với sử dụng nguồn vốn như pháp
luật về đấu thầu mua sắm và đầu tư xây dựng, quy định về quản lý tài chính, giải ngân…
Thực tiễn điều hành trong những năm qua cho thấy các công cụ này đã đem lại hiệu quả
thiết thực.
- Về công tác thực hiện.

7


Theo TS. Lê Quốc Hội, đến năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam ước khoảng
42,2% GDP và tổng nợ công đã vượt quá 50% GDP

(2)

. Theo phân tích của IMF (2010),

Việt Nam vẫn ở mức rủi ro thấp của nợ nước ngoài. Để các khoản vay này trở thành
nguồn thu của Ngân sách nhà nước và phải được chi tiêu một cách hiệu quả thì hoạt động
giám sát của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Ngân hàng nhà nước phải được tiến hành một
cách nghiêm khắc, hiệu quả.
Đối với hoạt động giám sát các khoản thu từ các khoản vay của Chính phủ, Quốc
hội có thẩm quyền cao và toàn diện nhất. Theo các quy định pháp luật hiện hành thì Quốc
hội có toàn quyền thực hiện giám sát quản lý nợ công và ban hành các nghị quyết về quản
lý nợ công. Các nghị quyết về giám sát quản lý nợ công của Quốc hội có giá trị pháp lý
cao, tương đương với luật do Quốc hội ban hành. Trong nhóm chỉ tiêu về quản lý nợ
công Chính phủ cần báo cáo và Quốc hội tổ chức thẩm tra, thảo luận và ban hành nghị
quyết có các chỉ tiêu cơ bản về nợ công, bao gồm: nợ công so với GDP; nợ nước ngoài

của quốc gia so với GDP; trả nợ chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước; nghĩa vụ
trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu. Kèm theo đó là các nội
dung về: mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công trong từng
giai đoạn 5 năm nhằm bảo đảm chỉ tiêu an toàn về nợ; quyết định tổng mức, cơ cấu vay
và trả nợ hàng năm của Chính phủ gắn với dự toán ngân sách nhà nước; quyết định chủ
trương đầu tư đối với dự án, công trình quan trọng quốc gia từ nguồn vốn vay của Chính
phủ; và giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý nợ công.
Nhờ hoạt động giám sát của Quốc hội cũng như các cơ quan có thẩm quyền mà công tác
thu, quản lí nợ công của Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng như đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và tài trợ cho bội chi ngân
sách nhà nước (khoản vay của chính phủ chiếm khoảng 17%/ tổng vốn đầu tư toàn xã
hội, bù đắp thâm hụt ngân sách khoảng 5%/GDP) (3).
2. Những hạn chế còn tồn tại.

2

. />%E1%BB%87t-nam-nam-2010-v-khuy%E1%BA%BFn-ngh%E1%BB%8B-cho-nam-2011/
3
. />
8


Tuy Luật quy định cơ sở pháp lý về trách nhiệm giám sát quản lý nợ công của cơ
quan giám sát cao nhất là Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền khác rất rõ ràng nhưng
trong thực tiễn để Quốc hội có thể thực hiện việc giám sát việc các khoản nợ công nói
chung và các khoản nợ Chính phủ nói riêng thì vẫn còn có những hạn chế
Thứ nhất, còn thiếu các chuẩn mực, tiêu chí để đại biểu Quốc hội căn cứ vào đó để
đánh giá các báo cáo. Thực tế tại nhiều kỳ họp cho thấy, việc xem xét các báo cáo được
thực hiện dưới dạng Quốc hội thảo luận báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện ngân
sách Nhà nước và nợ công. Trong khi thảo luận, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng báo

cáo còn thiếu vấn đề này, vấn đề khác, hay vấn đề này chưa được đặt ra đúng mức, vấn
đề kia còn chưa rõ nguyên nhân, giải pháp…
Thứ hai, việc thảo luận tại Quốc hội thường mới chỉ tập trung vào thực trạng tình
hình, nhất là các vấn đề còn hạn chế, yếu kém mà ít đi sâu vào phân tích, đánh giá việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan theo quy định của pháp luật.
Từ đó, việc xác định trách nhiệm cũng chỉ dừng lại ở những đánh giá chung, chưa thật rõ
ràng, cụ thể, dẫn tới hoạt động xem xét báo cáo phần nào chưa phát huy hết hiệu lực và
hiệu quả của phương thức giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp.
Thứ ba, đại biểu Quốc hội còn thiếu các thông tin cần thiết và điều kiện thực tế để
xem xét đánh giá một cách cụ thể, sâu sắc các báo cáo của Chính phủ. Vì đa phần khi về
họp Quốc hội, thì các đại biểu Quốc hội mới nhận được báo cáo của Chính phủ và báo
cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách. Với thời gian hạn hẹp tại một kỳ họp thì
đại biểu khó có điều kiện để đánh giá một cách toàn diện, cụ thể, xác định rõ trách nhiệm
của các cơ quan được đề cập trong báo cáo.
Như đã nói ở trên, hiện nay pháp luật đã quy định tương đối rõ về vấn đề này,
nhưng trong thực tế vẫn còn nhiều việc phải làm để tăng cường trách nhiệm và năng lực
giám sát quản lý nợ công của Quốc hội từ việc vay, sử dụng và trả nợ. Trong đó, hoạt
động giám sát của Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đóng vai trò quan trọng,
nhất là việc giám sát việc vay và sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay của Chính phủ.
III/ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT.
9


Thứ nhất, quy định chặt chẽ và thống nhất về các chỉ tiêu nợ công chủ yếu. Có thể
nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế về thể hiện các nhóm chỉ tiêu
cơ bản về nợ công theo quy định của Luật Quản lý nợ công, các chỉ tiêu phụ trong từng
nhóm chỉ tiêu cũng như quy định hiệu lực pháp luật của các nhóm chỉ tiêu này trong các
nghị quyết của Quốc hội, từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế trong khi vẫn đảm bảo
tuân thủ luật pháp của Việt Nam.

Thứ hai, các chỉ tiêu nợ công cũng như các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội và
ngân sách Nhà nước nên hướng tới tính toán cho cả giai đoạn 5 năm, 10 năm phù hợp với
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm, chiến lược vay, trả nợ trung, dài hạn, kế hoạch vay, trả nợ hàng năm...
Thứ ba, hình thành mối liên hệ biện chứng đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu quản lý nợ
công, ngân sách Nhà nước và các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Cần nghiên cứu hình
thành cách thể hiện mối liên hệ giữa ngân sách Nhà nước và nợ công, tạo thành mối liên
hệ hữu cơ giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách Nhà nước, phân bổ
ngân sách Trung ương, bổ sung ngân sách địa phương và kế hoạch vay, trả nợ hàng năm.
Cách đặt vấn đề như vậy sẽ cho thấy, với các chỉ tiêu kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm và
10 năm như vậy, thì nguồn lực tài chính quốc gia sẽ phải được bố trí như thế nào cho phù
hợp, hài hòa với các mục tiêu này.
Thứ tư, nâng cao tính công khai trong công bố, giải trình thông tin, số liệu về ngân
sách Nhà nước và nợ công chính là một biện pháp quan trọng nhằm tăng cường hiệu lực
quản lý các chỉ tiêu này. Quốc hội cần yêu cầu cơ quan báo cáo cập nhật và cung cấp
chuỗi số liệu về kinh tế - xã hội, ngân sách Nhà nước, cơ sở dữ liệu về nợ công ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn theo quy định của pháp luật để các đại biểu Quốc hội có thể theo
dõi, phân tích, tính toán, so sánh làm cơ sở để thảo luận về các chỉ tiêu này.
Thứ năm, Quốc hội cần phải tăng cường kỷ luật và giám sát việc thực hiện thu chi
ngân sách. Kỷ luật ngân sách ở đây thể hiện qua việc Quốc hội cần phải đưa ra các quy
tắc tài khoá rõ ràng và yêu cầu Chính phủ thực hiện nghiêm ngặt. Quy tắc tài khoá ở đây
có thể được thể hiện qua hàng loạt các chỉ tiêu về tỷ lệ nợ công/GDP, tỷ lệ thâm thụt ngân
sách tối đa hàng năm, quy tắc về vay mượn (ví dụ như không được vay mượn từ ngân
10


hàng Trung ương hay không được ứng trước ngân sách để chi tiêu, không được vay
mượn quá bao nhiêu phần trăm so với tổng thu/chi,…). Các chỉ tiêu này nếu được thực
hiện nghiêm sẽ giúp giảm bớt các rủi ro về nợ công, nợ Chính phủ, theo đó cũng nâng
cao được hiệu quả giám sát của Quốc hội.

Thứ sáu, đề xuất hoàn thiện pháp luật: cần phân tách rõ chức năng quản lý nợ công
với giám sát nợ công, cần phân định rõ các cơ quan có thẩm quyền giám sát, nội dung và
phương thức giám sát nhằm đảm bảo cho hoạt động giám sát diễn ra hiệu quả.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, hoạt động giám sát thực hiện các khoản thu ngân sách từ
các khoản tiền vay của Chính phủ trên cơ sở pháp luật hiện hành đã có nhiều mặt tích
cực. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh đạt được vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và
thách thức. Bởi vậy; việc đánh giá, nhìn nhận lại những hoạt động giám sát của Quốc hội
và các cơ quan có thẩm quyền để rút ra những bài học, chỉ rõ những thách thức và giải
pháp trong thời gian tới có ý nghĩa vô cùng cần thiết và quan trọng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
11


1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tài chính, Hà Nội, 2007.
3. Tạp chí kinh tế và phát triển điện tử.
4. Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XII về tình hình kinh tế –
xã hội năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2011.
5. Luật quản lý nợ công năm 2009.
6. Thông tư số 56/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 29/4/2011

7. Các trang:






12



×