Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.96 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Trong các loại thuế gián thu, thuế giá trị gia tăng được coi là có phương
pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu lớn
cuả chính sách thuế, như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đơn
giản, trung lập...Tuy nhiên, trong thời gian đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng đã
phát sinh một số khó khăn, vướng mắc và Nhà nước ta đã từng bước tháo gỡ
những khó khăn đó trong quá trình thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng. Do đó,
việc tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị
gia tăng là vô cùng cần thiết, đó cũng là lý do em chọn đề tài “Phân tích những
yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

1


hiện nay và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế giá trị gia
tăng”.

PHẦN NỘI DUNG
I.
1.
a.

Những nội dung cơ bản của pháp luật thuế giá trị gia tăng
Khái niệm và vai trò của thuế giá trị gia tăng
Khái niệm
Tại Điều 2, Luật thuế giá trị gia tăng 2008 (Luật thuế GTGT 2008) quy
định “Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát
sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Theo đó, thuế GTGT
là thuế đánh vào hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu


dùng chứ không đánh trực tiếp vào thu nhập cá nhân hay doanh nghiệp. Nhưng
do thuế được cộng vào phần với phần hàng hóa, dịch vụ làm giá thanh toán nên
người tiêu dùng sẽ phải chịu khoản thuế này. Với cùng một mức thu nhập nhưng
nếu chưa có thuế GTGT thì người tiêu dùng sẽ được mua được lương hàng hóa,
dịch vụ nhiều hơn so với khi áp dụng loại thuế này, do đó, nó đã gián tiếp đánh
vào thu nhập của người tiêu dùng. Người tiêu dùng sẽ không phải trực tiếp nộp
khoản thuế này cho các cơ quan thuế mà người bán sẽ nộp bởi trong quá trình
thanh toán tiền bán hàng đã bao gồm cả thuế GTGT. Đây chính là bản chất của
thuế GTGT chỉ đánh gián tiếp vào thu nhập của dân cư chứ nó không mang tính
trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế thu nhập đối với người có thu

b.

-

nhập cao.
Vai trò của pháp luật thuế giá trị gia tăng
Mọi loại thuế do Nhà nước ban hành ra đều có những vai trò nhất định
của nó, có thể kể đến một số vai trò của thuế GTGT như:
Thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế gián thu và được áp dụng rộng rãi đối với
mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc được cung ứng dịch

-

vụ, nên tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước.
Thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ nên không phải đi sâu xem xét,
phân tích về tính hợp lý, hợp lệ cuả các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức
quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu.

2



-

Ðối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế giá trị gia tăng mà còn
được khấu trừ hoặc được hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đầu vào nên có tác
dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện

-

cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế.
Thuế giá trị gia tăng cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng

-

nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu
trừ thuế giá trị gia tăng được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy
người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt
động mua bán; khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người
bán để trốn lậu thuế. Trong họat động bán lẻ người tiêu dùng không cần đòi hỏi
hoá đơn, vì họ không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào do là người tiêu dùng
cuối cùng điều này dẫn đến việc không xuất hóa đơn của người bán để trốn thuế.
Tuy vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá trị tăng thêm thường không lớn, số thuế

-

thu ở khâu này không nhiều.
Thuế giá trị gia tăng thường có ít thuế suất, bảo đảm sự đơn giản, rõ ràng. Với ít
thuế suất, loại thuế này mang tính trung lập, vì về cơ bản không can thiệp sâu

vào mục tiêu khuyến khính hay hạn chế sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tiêu dùng,
theo ngành nghề cụ thể; không gây phức tạp trong việc xem xét từng mặt hàng,

-

ngành nghề có thuế suất chênh lệch nhau nhiều.
Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cuả người nộp
thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế giá trị gia tăng, cơ quan thuế
tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tính thuế, kê khai và nộp thuế.
Từ đó, tạo tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp
thương, thoả thuận về mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra
thuế giá trị gia tăng cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải
nộp và lưu giữ chứng từ, hoá đơn đầy đủ nên việc thu thuế tương đối sát với
hoạt động kinh doanh từ đó tập trung được nguồn thu thuế giá trị gia tăng vào
ngân sách nhà nước ngay từ khâu sản xuất và thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra
được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước nên hạn chế thất thu về thuế.

3


-

Tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá có
hoá đơn chứng từ; việc tính tuế đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện
pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán cùng thực hiện tốt

-

hơn chế độ hoá đơn, chứng từ.
Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá,

chuyên môn hoá sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ

-

giá thành sản phẩm.
Thuế giá trị gia tăng được ban hành gắn liền với việc sửa đổi, bổ sung một số
loại thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu...góp phần làm
cho hệ thống chính sách thuế cuả Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với
sự vận động và phát triển cuả nền kinh tế thị trường, tương đồng với hệ thống
thuế trong khu vực và trên thế giới, góp phần đẩy mạnh việc mở rộng hợp tác
kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

2.
a.

Một số nội dung các quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng
Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế được quy định tại Điều 3 Luật thuế GTGT 2008 là
hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam,
trừ các đối tượng quy định tại Điều 5, Luật thuế GTGT 2008.
Như vậy, trừ 26 đối tượng được quy định trong Luật thuế GTGT và được
cụ thể hóa tại Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 (TT
số 129/2008/TT-BTC) ra thì các loại hàng hóa, dịch vụ còn lại đều nằm trong
diện chịu thuế GTGT. Với quy định loại trừ này cho ta thấy tính bao chum lên
hầu hết các hàng hóa, dịch vụ của thuế GTGT.

b.

Đối tượng nộp thuế
Thuế GTGT được cộng vào giá bán và người tiêu dùng phải chịu nhưng

họ không trực tiếp nộp thuế cho các cơ quan thuế. Người nộp thuế là các tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ thuộc diện chịu
thuế GTGT không phân biệt ngành nghề kinh tế, thành phần sản xuất kinh

4


doanh. Các tổ chức ở đây là các doanh nghiệp được thành lập theo Luật doanh
nghiệp 2005 và hợp tác xã được thành lập theo Luật hợp tác xã 2003.
Các đối tượng trên sẽ phải nộp thuế GTGT khi có hành vi kinh doanh các
hàng hóa, dịch vụ nằm trong diện chịu thuế GTGT và có phát sinh giá trị tăng
thêm của hàng hóa dịch vụ tại Việt Nam.
Hành vi kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm sinh lợi. Mục đích của lợi nhuận sẽ chứng minh cho hành
vi kinh doanh của các chủ thể.
Khi có hành vi kinh doanh như trên và có hàng hóa, dịch vụ nằm trong
đối tượng chịu thuế thì họ phải nộp thuế khi phát sinh GTGT của hàng hóa, dịch
vụ đó tại bất kỳ khâu sản xuất nào. Kể cả khâu nhập khẩu các đối tượng trên vẫn
phải nộp thuế GTGT bởi đây là lần đầu tiên hàng hóa dịch vụ đó có mặt trên thị
trường Việt Nam nên toàn bộ giá trị của nó cộng với thuế nhập khẩu sẽ là phần
giá trị tăng thêm.
Như vậy, đối tượng nộp thuế ở đây bao gồm các tổ chức, cá nhân sản xuất
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa dịch
vụ là đối tượng chịu thuế GTGT.
c.

Căn cứ tính thuế
Thuế GTGT được tính dựa vào giá tính thuế và thuế suất.


-

Giá tính thuế: tùy vào từng trường hợp mà có các cách tính gia thuế khác nhau.
Đối với hàng hóa, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT, đối với hàng hóa nhập
khẩu là gia trị nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu, đối với hàng hóa,
dịch vụ dùng để trao đổi sử dụng nội bộ, biếu tặng là giá tính thuế của hàng hóa,
dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này,
đối với hoạt động thuê tài sản là số tiền thuê từng kỳ, đối với hàng hóa bán theo
phương thức trả góp là giá bán của hàng hóa dịch vụ tính theo giá bán trả một
lần, đối với hàng hóa gia công là giá gia công, đối với hàng hóa dịch vụ khác do
Chính phủ quy định.

5


-

Thuế suất: áp dụng cho thuế GTGT được nghiên cứu sao cho phù hợp nhất với
đặc điểm kinh tế của từng quốc gia. Thuế suất được quy định cụ thể tại Điều 8
Luật thuế GTGT 2008 và theo đó, thuế suất áp dụng cho thuế GTGT ở nước ta

d.

có 3 mức cơ bản: 0%, 5% và 10%.
Phương pháp tính thuế
Theo quy định của Luật thuế GTGT, các văn bản hướng dẫn thi hành và
thực tiễn áp dụng thì có bốn phương pháp xác định số thuế phải nộp đó là:

-


Phương pháp cộng thẳng trực tiếp hay còn gọi là phương pháp kế toán
Thuế GTGT = thuế suất x (tiền công + lợi nhuận)
Phương pháp cộng gián tiếp
Thuế GTGT = thuế suất x tiền công + thuế suất x lợi nhuận
Phương thức trừ trực tiếp
Thuế GTGT = thuế suất x (giá đầu ra – giá đầu vào)
Phương thức trừ gián tiếp (còn gọi là phương pháp hóa đơn hay phương pháp
khấu trừ)
Thuế GTGT = thuế suất x giá đầu ra – thuế suất x giá đầu vào
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở

II.
1.

Việt Nam hiện nay
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng có nguồn gốc từ thuế doanh thu và Pháp là nước đầu
tiên trên thế giới ban hành Luật thuế giá trị gia tăng - vào năm 1954. Bắt đầu từ
nước Pháp, thuế giá trị gia tăng đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế
giới. Ngày nay, các quốc gia thuộc khối Liên minh Châu Âu, châu Phi, châu Mỹ
La Tinh và một số quốc gia Châu Á trong đó có Việt Nam đã chính thức áp
dụng thuế giá trị gia tăng. Các quốc gia khác cũng đang trong thời kỳ nghiên
cứu loại thuế này. Tính đến nay đã có khoảng 130 quốc gia áp dụng thuế giá trị
gia tăng.
Ở nước ta, tại kỳ họp lần thứ 11 Quốc hội khoá 9, Quốc hội nước ta đã
thông qua Luật thuế giá trị gia tăng ngày 10/05/1997 và có hiệu lực thi hành kề
từ ngày 01-01-1999. Tiếp theo đó, để phù hợp hơn với tình hình thực tế, Quốc
hội cũng đã thông qua Luật sửa đổi vào ngày 17/06/2003 và mới đây tại kỳ họp

6



thứ 3 Quốc hội khóa XII ngày 03/06/2008 đã thông qua Luật thuế GTGT mới
thay thế 2 luật trên và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
Qua lịch sử phát triển của luật thuế GTGT có thể thấy các quy định về thuế
GTGT luôn luôn thay đổi qua từng thời kỳ, đang ngày càng được hoàn thiện hơn
nữa để phù hợp với thực tiễn và nhu cầu của xã hội. Hơn nữa cùng với việc ban
hành Luật thuế GTGT 2008 là các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành cũng
được ban hành để đảm bảo cho các đối tượng thi hành có thể thực thi pháp luật
thuế một cách chính xác và đầy đủ nhất.
2.

Chế độ hóa đơn, chứng từ
Hóa đơn chứng từ là bằng chứng chi nhận, phản ánh tình hình sản xuất
của cơ sở sản xuất kinh doanh. Quản lý tốt các nguồn hóa đơn sẽ hạn chế được
các gian lận về thuế GTGT. Theo quy định của Luật thuế GTGT 2008 thì việc
mua bán hàng hóa, dịch vụ phải có hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp
luật. Đây cũng là một trong những yếu tố đảm bảo cho việc thực thi pháp luật
thuế GTGT được thực hiện một cách rành mạch, có cơ sở pháp lý rõ ràng, giảm
thiểu tình trạng hóa đơn, chứng từ “khống”, gây thiệt hại cho Nhà nước và cả xã
hội.
Trước đây các quy định về hóa đơn chứng từ thường được quy định ở các
văn bản có giá trị pháp lý thấp và mang tính riêng biệt cho từng ngành từng lĩnh
vực. Điều này làm cho việc quản lý rất khó khăn. Vì vậy, cuối năm 2002 để
thống nhất việc quản lý hóa đơn chứng từ, Ủy thường vụ Quốc hội đã ra pháp
lệnh về hóa đơn chứng từ. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng thuế GTGT hóa
đơn chứng từ giữ vai trò quan trọng bởi nó là cơ sở để các cơ quan thuế xác định
kiểm tra, xem xét việc nộp thuế, khấu trừ và hoàn thuế nên cần phải có những
quy định riêng. Hàng năm ngành thuế phát hành rất nhiều hóa đơn GTGT bên
cạnh đó có rất nhiều doanh nghiệp được phép phát hành hóa đơn, do đó việc

quản lý số hóa đơn trên thị trường là rất khó khăn. Nhiều doanh nghiệp được
thành lập với mục đích chủ yếu là buôn hóa đơn, làm hóa đơn khống, chiếm
đoạt tiền hoàn thuế. Ngoài ra, nhằm hạn chế việc xuất hóa đơn ghi khống thì

7


phải có biện pháp tuyên truyền người tiêu dùng khi mua hàng hóa dịch vụ có
thói quen nhận hóa đơn. Số hóa đơn mà người mua hàng không nhận dễ tạo điều
kiện để cho doanh nghiệp ghi khống cho doanh nghiệp khác để doanh nghiệp
này được khấu trừ đầu thuế đầu vào.
3.

Trình độ và ý thức pháp luật của cán bộ thuế
Trình độ và ý thức pháp luật của cán bộ thu thuế đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong việc thực thi pháp luật thuế, bởi có thể nói họ đóng vai trò
trung gian trong việc nộp và thu thuế, giữa những người nộp thuế và cơ quan
thuế; nếu họ có trình độ thì việc nộp thuế sẽ được diễn ra một cách nhanh chóng,
chính xác, nếu họ có phẩm chất đạo đức tốt thì việc thu và nộp thuế sẽ đảm bảo
công minh, trung thực nhất.
Cụ thể hơn, cán bộ thu thuế phải là những người nắm vững về chế độ hoá
đơn, chứng từ, sổ kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế,
hoàn thuế giá trị gia tăng. Hơn nữa, khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì vai trò
cuả người thu thuế đồng thời cũng là người trả thuế (thoái thu) và vai trò cuả
người nộp thuế cũng là người thu thuế (được cơ quan thuế khấu trừ hoặc hoàn
lại). Người thu thuế phải có khả năng tính được mức thuế phải thu, mức thuế
khấu trừ cho đúng, đủ, kịp thời. Về khả năng thì có thể đào tạo được, nhưng vấn
đề quan trọng nhất là người thu thuế nếu kém phẩm chất sẽ có điều kiện để tiêu
cực, đó là việc tính mức khấu trừ, mức thoái thu cao hơn mức chính xác, làm
thiệt hại cho ngân sách nhà nước hoặc khấu trừ không đủ, hoàn thuế chậm trễ


4.

làm thiệt hại cho các chủ thể đã chịu thuế trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Ý thức pháp luật của đối tượng nộp thuế
Với sự phát triển của xã hội, pháp luật thuế của nước ta hiện nay đang áp
dụng cơ chế tự khai, tự nộp, tự tính thuế đối với đối tượng nộp thuế; từ đó có thể
thấy Nhà nước và pháp luật nước ta rất đề cao vai trò và trách nhiệm của người
nộp thuế. Ðối với người nộp thuế, tất nhiên ngoài khả năng tính toán đầy đủ số
thuế mình còn phải nộp sau khi được khấu trừ, còn phải có đầy đủ phẩm chất
cuả một nhà kinh doanh lương thiện xem việc nộp thuế đầy đủ, kịp thời là một
nghĩa vụ hợp lý và công bằng. Vì vậy, ý thức pháp luật của đối tượng nộp thuế

8


là một yếu tố cơ bản hàng đầu giúp cho việc thực thi pháp luật thuế được thực
hiện chủ động, linh hoạt và chính xác, để xã hội ngày càng phát triển và hiện đại
5.

hơn.
Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, đoàn thể, tổ chức
Để thực thi một cách tốt nhất pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế
GTGT nói riêng thì không chỉ đòi hỏi trách nhiệm của cơ quan thuế mà nó đòi
hỏi sự phối hợp giữa nhiều cơ quan chức năng. Có thể hiểu như sau: Khi một
chủ thể tiến hành nộp thuế thì đơn giản hành vi đó đã làm phát sinh nên quan hệ
pháp luật thuế giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế, nhưng trước đó, để biết
đến nghĩa vụ nộp thuế của mình thì chủ thể nộp thuế phải có sự hiểu biết nhất
định về những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ nộp thuế của mình
thông qua các trang báo mạng, chương trình truyền hình, qua sự giáo dục của

nhà trường; còn khi chủ thể nộp thuế đã biết rõ về hành vi trốn thuế của mình
nhưng vẫn thực hiện hành vi trốn tránh nghĩa vụ thuế thì họ sẽ phải gánh chịu
các hậu quả pháp lý do pháp luật quy định. Từ đó, có thể thấy, để thực thi tốt
pháp luật thuế GTGT đòi hỏi cần có sự phối hợp chặt chẽ hoạt động giữa cơ
quan thuế, các cơ quan truyền thông, cơ quan tài chính, cơ quan hải quan, các
đơn vị giáo dục, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các cơ quan

6.

thanh tra, kiểm tra…
Phương tiện, kĩ thuật trong hoạt động quản lí thuế
Với sự phát triển của khoa học, công nghệ ngày càng hiện đại thì việc đòi
hỏi nâng cao về phương tiện, kĩ thuật trong quản lý thuế là một đòi hỏi vô cùng
hợp lý. Cần ưu tiên đầu tư và phát triển các hệ thống thông tin phục vụ chuyên
ngành như các chương trình quản lý mã số đối tượng thuế, quản lý hóa đơn, tính
thuế…;cung cấp các trang thiết bị để xây dựng hệ thống tin học một cách đồng
bộ giúp cho đối tượng nộp thuế và các cơ quan chức năng có đầy đủ thông tin và

III.
1.

dữ liệu cần thiết phục vụ cho việc thực thi pháp luật thuế dễ dàng hơn.
Một số đề xuất nhằm thực thi tốt pháp luật thuế giá trị gia tăng
Biện pháp tuyên truyền hướng dẫn
Để pháp luật thuế GTGT được thực hiện tốt trên thực tế thì cần phải đẩy
mạnh công tác tuyên truyền trước tiên là tới các đối tượng nộp thuế đặc biệt là

9



các đối tượng mới bắt đầu sản xuất kinh doanh để họ thấy được quyền và nghĩa
vụ của họ trong kê khai và nộp thuế. Các phương tiện thông tin và đại chúng có
các chuyên mục tìm hiểu giải đáp các thắc mắc về thuế nói chung và về thuế
GTGT nói riêng để mọi người dân hiểu về loại thuế mà họ là đối tượng chịu
thuế.
Bộ tài chính tổ chức các hội thảo khoa học có sự tham gia của các doanh
nghiệp các nhà kinh tế và phía người tiêu dùng để phát hiện những sai sót bất
cập trong nội dung pháp luật thuế cũng như tìm ra các giải pháp cùng tháo gỡ
vấn đề.
Hiện nay, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, số người truy cập
mạng ngày càng nhiều cần đưa các quy định liên quan đến nội dung cũng như
thủ tục hành chính về thuế GTGT lên mạng. Điều này không chỉ giúp cho các
doanh nghiệp có thể tự tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành mà còn
tạo điều kiện cho hoạt động tra cứu liên quan đến loại thuế này.
2.

Biện pháp kiểm tra giám sát
Bộ Tài chính cần tăng cường công tác quản lý kiểm tra việc in ấn, phát
hành hóa đơn của các cơ sở kinh doanh đảm bảo việc quản lý các hóa đơn
GTGT đang lưu thông trên thị trường. Xác định đúng đối tượng mua bán hóa
đơn chỉ là những cơ sở có hoạt động sản xuất kinh doanh ra hàng hóa dịch vụ là
đối tượng chịu thuế GTGT. Các cơ quan có sự phối hợp giữa cơ quan thuế, cơ
quan kiểm toán Nhà nước, kiểm toán tài chính để phát hiện ra các hành vi gian
lận thuế, các trường hợp mua bán hóa đơn bất hợp pháp và có các biện pháp xử
lý kịp thời, nghiêm minh.
Hoàn thuế là khâu mang lại lợi ích trực tiếp cho doanh nghiệp bởi vậy để
hạn chế gian lận trong quá trình này các cơ quan thuế đẩy mạnh công tác thanh
tra kiểm tra trước cũng như sau khi hoàn thuế GTGT đặt biệt là đối hàng hóa
xuất khẩu qua biên giới. Các cơ quan hải quan tăng cường biện pháp quản lý
cũng như giám sát chặt chẽ việc kiểm tra và xác nhận hàng hóa thực tế đã xuất

khẩu, chặn đứng hiện tượng quay vòng hàng hóa thực tế đã xuất khẩu, xuất khẩu

10


khống. Đối với đối tượng có hàng hóa xuất khẩu cần quy định bắt buộc phải mở
tài khoản tại ngân hàng và thanh toán qua ngân hàng.
Các cơ quan thuế kiểm tra việc thực hiện pháp luật thuế GTGT của các đối
tượng nộp thuế nhưng trong việc thực hiện này còn có trách nhiệm của các cơ
quan liên quan. Do đó, công tác kiểm tra giám sát ngược lại với những cơ quan
này có cũng phải được quan tâm. Nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp trong
đó cơ chế “dân kiểm tra”.
Ngoài ra, để kiểm tra xác định được quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp có phù hợp với những gì phản ánh trong hóa đơn hay không thì
các cơ quan thuế phối hợp chặt chẽ với Sở kế hoạch đầu tư để có biện pháp quản
lý hoạt động của các đối tượng này khi cấp giáy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Sở kế hoạch và các cơ quan khác có trách nhiệm trong việc cấp giấy chứng nhận
đăng kí kinh doanh kiên quyết không cấp giấy chứng nhận cho những đối tượng
có dấu hiệu thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích buôn bán hóa đơn, chiếm
đoạt tài sản của Nhà nước.
Để thực hiện tốt pháp luật thuế GTGT liên quan đến nhiều cơ quan khác.
Muốn việc kiểm tra giám sát có hiệu quả thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa
các cơ quan và có sự phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan tránh trường hợp
khi có vi phạm xảy ra thì không xác định được nguyên nhân từ phía nào.
3.

Đào tạo đội ngũ cán bộ thuế, cán bộ hải quan có đạo đức và trình độ nghiệp
vụ
Thuế GTGT là luật thuế khá hiện đại ở Việt Nam, quá trình thu thuế đòi

hỏi phải có chuyên môn nghiệp vụ bởi việc thu thuế ở khâu trước còn kiểm tra
được ở khâu sau. Cần tăng cường đào tạo chuyên môn cho cán bộ thuế, cán bộ
hải quan không chỉ đáp ứng các yêu cầu về nghiệp vụ thuế hải quan nói chung
mà phải có khả năng phát hiện ra các thủ đoạn gian lận, tinh vi của các đối
tượng nộp thuế trong giai đoạn hiện nay. Các cán bộ thuế, cán bộ hải quan
không chỉ là những người am hiểu về nghiệp vụ thuế hoặc hải quan mà còn phải

11


nắm vững được các lĩnh vực liên quan như kế toán, pháp luật kinh tế…Có
những con người vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ thì mới xây dựng được
bộ máy hành chính thuế đơn giản nhưng hiệu quả, đáp ứng được những yêu cầu
của cuộc cải cách hệ thống thuế hiện nay.
4.

Sửa đổi, bổ sung ban hành một số luật có liên quan
Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia các ngành luật hoặc các đạo
luật không tuyệt đối độc lập với nhau mà chúng còn luôn có mối quan hệ với các
ngành luật khác. Để thực hiện tốt pháp luật thuế GTGT cũng cần thiết phải sửa
đổi, bổ sung ban hành các luật có liên quan.

PHẦN KẾT LUẬN
Việt Nam đang từng bước tiến tới hội nhập nền kinh tế thế giới. Để bắt
kịp với tiến trình này thì chúng ta phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù
hợp và thích nghi với điều kiện và hoàn cảnh của nền kinh tế thế giới. Trong đó
việc thực hiện cải cách về thuế là một vấn đề hết sức quan trọng, nhằm làm tăng
sức cạnh tranh trên các lĩnh vực về thương mại mậu dịch, nguồn vốn đầu tư từ
nước ngoài. Từ khi ra đời cho đến nay thuế GTGT đã chiếm được vị trí quan
trọng trong hệ thống thuế của các nước và đóng vai trò vô cùng quan trọng đối

với nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy, việc đảm bảo cho việc thực thi pháp luật thuế
GTGT là một yêu cầu vô cùng quan trọng và cấp thiết đòi hỏi sự nỗ lực từ các
cơ quan chức năng có liên quan, đội ngũ cán bộ thuế có đạo đức và trình độ và
cần có các biện pháp kiểm tra, giám sát đạt hiệu quả.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

Luật thuế giá trị gia tăng 2008.
Trần Thị Minh Hiền, Luận văn thạc sĩ luật học: pháp luật về thuế giá trị gia

3.

tăng ở Việt Nam, thực trạng và hướng dẫn hoàn thiện, Hà Nội 2006.
Nghị định của chính phủ số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 quy định chi

4.

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật thuế giá trị gia tăng.
Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 hướng dẫn thi hành một số
điều của luật thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thi hành Nghị định số

5.

123/2008/NĐ-CP.
Và một số website khác.


13



×