Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hợp đồng vay tiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.06 KB, 22 trang )

HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.........................................................................................1
B. NỘI DUNG.........................................................................................................................3
I. Một số vấn đề lý luận về lãi suất trong hợp đồng vay tiền..................................................3
1. Khái niệm hợp đồng vay tiền..............................................................................................3

2. Lãi suất trong hợp đồng vay tiền ....................................................4
3. Đặc điểm của lãi suất .......................................................................5
II. Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hợp đồng vay
tiền...........................................................................................................6
III. Thực tiễn áp dụng lãi suất trong hợp đồng vay tiền..........................................7
IV. Nhận xét và kiến nghị của cá nhân về quy định của pháp luật về vấn đề lãi
suất trong hợp đồng vay tiền..........................................................................................15

1- Về “mức lãi suất tương ứng” trong hợp đồng vay tiền................16
2- Về lãi suất cho vay trong hạn..........................................................17
3- Về lãi suất cho vay quá hạn.............................................................18
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................................21

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

:

Bộ luật dân sự


TANDTC :

Tòa án nhân dân tối cao

XXPT

:

Xét xử phúc thẩm

XXST

:

Xét xử sơ thẩm
A. LỜI MỞ ĐẦU

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

1


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta
luôn luôn nỗ lực tìm kiếm các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế nước nhà phát
triển một cách toàn diện và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Những
giải pháp đưa ra và được thực hiện trên thực tế đã thu được những kết quả khả

quan, trong đó có những biện pháp quy định về lãi suất.
Vay tiền là một hình thức rất phổ biến, trong hợp đồng vay thường có một
điều khoản gọi là lãi suất. Với những tác động tích cực của nó, lãi suất là một
yếu tố quan trọng và đôi khi không thể thiếu trong đời sống. Việc sử dụng lãi
suất trong hợp đồng vay tiền cũng vậy. Lãi suất không chỉ đem lại lợi nhuận và
thoả mãn nhu cầu về vật chất của người cho vay, lãi suất còn đem lại sự đầu tư
hay sử dụng có mục đích của người đi vay.
Trên thực tế các tranh chấp về hợp đồng vay tiền ngày càng gia tăng đặc
biệt là các tranh chấp liên quan đến lãi và lãi suất. Tuy nhiên những quy định
của pháp luật về vấn đề này còn rất chung chung và chưa rõ ràng. Điều đó càng
làm tăng thêm các tranh chấp và đã bị một số đối tượng lợi dụng những quy
định còn thiếu chặt chẽ của pháp luật để cho vay nặng lãi, để tổ chức đánh
bạc…Bài tập lớn học kỳ này en xin trình bày đề tài : “ Một số vấn đề về lãi suất
trong hợp đồng vay tiền” với kiến thức còn nhiều hạn chế và sự eo hẹp về tài
liệu, thời gian nên đề tài này không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Em xin chân thành đón nhận ở thầy cô và các bạn những ý kiến đóng góp bổ ích
để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

2


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về lãi suất trong hợp đồng vay tiền
1. Khái niệm hợp đồng vay tiền

Hợp đồng vay tiền là một hợp đồng vay có đối tượng là một tài sản đặc biệt
– tiền. Cho vay nói chung và cho vay tiền nói riêng bao gồm các yếu tố cấu
thành cơ bản sau:
· Thứ nhất, về chủ thể, việc cho vay bao giờ cũng có ít nhất hai bên chủ thể
tham gia, bao gồm bên vay và bên cho vay. Bên cho vay là người có khoản tiền
chưa dùng đến, còn bên vay chính là người đang cần sử dụng số tiền đó để thoả
mãn nhu cầu về kinh doanh hoặc tiêu dùng.
· Thứ hai, hình thức pháp lý của việc cho vay chính là hợp đồng cho vay
tiền. Hợp đồng này được các bên xác lập và thực hiện trên nguyên tắc căn bản
của hợp đồng như nguyên tắc về tự do và thống nhất ý chí, nguyên tắc tự định
đoạt…
· Thứ ba, sự kiện cho vay phát sinh bởi hai hành vi căn bản là hành vi ứng
trước và hành vi hoàn trả một số tiền nhất định.
Có thể thấy rằng, phổ biến là hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
nhưng không phải vì thế các hình thức cho vay khác không hoạt động. Có thể là
cho vay giữa hai chủ thể, hai tổ chức với nhau… hoặc dưới hình thức họ, hụi,
biêu, phường. Việc cho vay chính là giao dịch dân sự được thể hiện dưới hình
thức pháp lý là hợp đồng vay tiền. Vậy hợp đồng vay tiền là gì?
Điều 388 – Bộ Luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) định nghĩa: “Hợp đồng dân
sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”.
Là một loại hợp đồng dân sự, hợp đồng vay tài sản được hiểu là sự thoả
thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

3


HOÀNG THỊ VÂN 351759


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

trả bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng,
chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật đã quy định”
(

điều 471- BLDS 2005)

Hợp đồng vay tiền là một loại hợp đồng vay tài sản, dựa trên định nghĩa về
Hợp đồng (Điều 388 – BLDS 2005) và Hợp đồng vay tài sản (Điều 471 – BLDS
2005) ta có định nghĩa về hợp đồng vay tiền như sau: hợp đồng vay tiền là sự
thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tiền cho bên vay; khi đến
hạn trả bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay đúng số lượng và chỉ phải trả
lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
2. Lãi suất trong hợp đồng vay tiền
Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm
một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng
thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất.
Lãi xuất giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong hợp đồng vay tiền. Nó
cũng là cái mà các bên thường quan tâm khi tham gia vào quan hệ vay tài sản.
Để hiểu rõ về lãi xuất, trước tiên chúng ta phải đi làm rõ một khái niệm có liên
quan mật thiết đến nó trong hợp đồng vay tiền đó là lãi.
Lãi là một khoản tiền hoặc vật, ngoài vốn gốc, mà người cho vay nhận được
từ người đi vay khi có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về việc sử dụng
vốn vay của người này. Điều đó cho thấy, căn cứ vào lãi xuất, số tiền vay và
thời hạn vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định cho bên cho vay, tiền lãi
nhiều khi lãi suất cao, số tiền vay lớn và ngược lại.
Về lãi suất có nhiều cách định nghĩa về lãi và lãi suất. Có định nghĩa cho
rằng: lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian
nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn.


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

4


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, lãi suất được định nghĩa là tỷ lệ
của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất
định.
Từ những cơ sở trên, ta có định nghĩa về lãi suất như sau: lãi suất trong
hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã
vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc
năm do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. Căn cứ vào lãi suất số
tiền vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định. Số tiền này
tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền đã vay và thời gian vay.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về lãi suất thì hợp đồng vay
tiền sẽ không có lãi suất. Nếu các bên có thoả thuận về lãi suất thì không được
vượt quá “150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố
đối với loại cho vay tương ứng”.
3. Đặc điểm của lãi suất
Là một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh
thần của cả bên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản:
Lãi suất chủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng
vay bên vay chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời hạn nhất định do đó phải có
một tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng với thời hạn vay. Trong hợp đồng vay

thì cơ sở để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do pháp
luật quy định.
Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh
do thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc: Bản chất của
lãi suất là một tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số
tiền vay gốc trong một thời hạn nhất định.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

5


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian
vay): Như đã phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay.
Do đó, tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các
bên có thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp.
II. Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hợp đồng vay
tiền
Có thể thấy Nhà nước không phải lúc nào cũng kiểm soát được hết mọi
quan hệ pháp luật cho nên có tình trạng nhiều vi phạm pháp luật nằm ngoài
vòng kiểm soát của pháp luật. Vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay cũng rơi vào
tình trạng này. Trong BLDS 2005 chỉ quy định duy nhất một điều về lãi suất
một cách trực tiếp:
“Điều 476. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150%
của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương

ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác
định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả
nợ.”.
Ngoài ra còn có một trường hợp đặc biệt của lãi xuất đó là lãi suất nợ quá
hạn, nó được áp dụng trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay
không trả hoặc trả nợ không đầy đủ cho bên cho vay.
Theo quy định tại Điều 474 BLDS năm 2005 thì: “ Trong trường hợp vay
không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì
bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do ngân
hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả lại thời điểm trả nợ,

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

nếu có thỏa thuận” khoản 4; Còn “ Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến
hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ
gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố
tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ” ( khoản 5). Như vậy, trong hợp
đồng vay khi đến hạn mà bên vay không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ cho
bên vay thì bên vay phải trả “ lãi đối với khoản nợ chậm trả”. ( nếu là vay
không có lãi) hoặc “ lãi trên nợ gốc và lãi quá hạn” ( nếu là vay có lãi). Lãi nợ
quá hạn chỉ có thể phát sinh trong trường hợp vay có lãi. Và mức nợ lãi quá hạn

khi đó sẽ bằng mức lãi xuất cơ bản do NHNN công bố tại thời điểm trả nợ.
Việc quy định chỉ một điều luật trực tiếp về lãi suất trong BLDS 2005 là quá
khái quát sẽ tạo khe hở cho nhiều đối tượng “lách luật”, cố tình làm biến thái đi
và lợi dụng nó để kinh doanh, tổ chức thực hiện một số hình thức không lành
mạnh.
III. Thực tiễn áp dụng lãi suất trong hợp đồng vay tiền
Hợp đồng vay tiền là quan hệ tương đối phổ biến trong cuộc sống hàng
ngày. Nó có tác động giúp cho bên vay giải quyết những khó khăn khi thiếu
thốn để sản xuất và lưu thông hàng hoá, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của con
người, nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp. Hợp đồng vay tiền trong nhân
dân thường mang tính chất tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để giải quyết những khó
khăn tạm thời trong cuộc sống, trong sản xuất, kinh doanh.
Các hợp đồng dân sự luôn mang trong nó tính chất “ thoả thuận giữa các
bên ” tuy nhiên pháp luật cũng hạn chế quyền của người cho vay trong hợp
đồng vay tiền có lãi suất bằng cách “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng
không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công
bố đối với loại cho vay tương ứng”. Nhưng “ quy định vẫn chỉ là quy định ”,
không có chế tài áp dụng thì việc đưa ra các quy định này cũng không mang lại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

7


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

kết quả như ý muốn. Nếu có chế tài áp dụng đối với việc quy định lãi suất cũng
chỉ là chế tài hành chính, trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại một khoản tiền

mà bên vay chứng minh được việc vay với lãi suất vượt qua mức quy định của
pháp luật của bên cho vay gây thiệt hại cho mình. Hơn nữa, nhu cầu đi vay của
người vay thường trong những trường hợp cấp bách và cần thiết, việc tuyên bố
hợp đồng vô hiệu của Toà án đôi khi làm ảnh hưởng đến công việc của người đi
vay. Cần phải có những quy định và chế tài cụ thể để hạn chế tình hình trên.
Việc quy định lãi suất quá cao sẽ không chỉ gây ảnh hưởng cho nền kinh tế
mà còn ảnh hưởng đến chính bên cho vay. Khi lãi suất của bên cho vay cao sẽ
khiến các doanh nghiệp, các cá nhân… (bên vay) không vay dẫn đến tình trạng
tiền bị đọng lại và không phát huy được giá trị sinh lời của nó. Doanh nghiệp
vay tiền là để đầu tư nhưng với mức lãi suất cao sẽ dự tính việc đầu tư không có
lãi nên các doanh nghiệp không vay là đương nhiên. Còn cá nhân, họ cần tiền
cũng có thể để đầu tư, cũng có thể vay để chi trả cho một công việc nào đó hay
để đảm bảo cho cuộc sống hàng ngày… lãi suất cao khiến những người này
không có khả năng trả cả gốc lẫn lãi nên họ “không dám” vay. Và như vậy
nguồn tiền trong các Ngân hàng, nguồn tiền dự trữ trong nhân dân không những
không đem lại hiệu quả mà còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp, các cá
nhân… muốn vay.
Việc quy định lãi suất thấp so với sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế cũng không ổn. Việc quy định lãi suất thấp chỉ áp dụng cho các đối
tượng ưu tiên mà pháp luật quy định còn mặt bằng chung phải phù hợp với mọi
nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất (lạm phát hay giảm phát, kinh tế phát triển hay
chậm phát triển…). Lãi suất thấp sẽ làm giảm hiệu quả của đồng tiền, làm giảm
sự phát triển kinh tế, làm giảm nguồn thu của bên cho vay. Nhìn một cách khách
quan, lãi suất thấp chỉ có lợi trước mắt cho bên vay. Nhưng cái lợi trước mắt
không phải là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

8



HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Như vậy, việc quy định lãi suất quá cao hay quá thấp đều không mang lại
hiệu quả. Nhà nước tính toán làm sao để pháp luật có những quy định hợp lý
không làm giảm hiệu quả của giá trị đồng tiền mang lại cũng không ảnh hưởng
đến quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng vay, đem lại sự phát triển bền
vững và lâu dài cho nền kinh tế.
Hơn nữa có thể thấy sự bất cập và thiếu chặt chẽ còn thể hiện ở chỗ: lãi suất
được quy định trong BLDS 2005 phải ≤ (nhỏ hơn hoặc bằng) 150% lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong
trường hợp A cho B vay với lãi suất là 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố trong thời gian 1 năm nhưng hết 1 năm B vẫn chưa trả cho A, lúc
này phát sinh lãi suất quá hạn và lãi suất này được tính như thế nào? Nếu A và
B có thoả thuận về mức lãi suất quá hạn nhưng mức lãi suất này lại vượt quá
150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố (vì lãi suất đúng
hạn mà A và B thoả thuận đã bằng 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà
nước) thì lúc này hậu quả sẽ ra sao? Việc áp dụng Điều 476 BLDS 2005 có thực
sự hiệu quả? Nếu trường hợp A và B không thoả thuận về lãi suất quá hạn thì
việc tính lãi suất này sẽ theo quy định của pháp luật, tức là vẫn ≤ (nhỏ hơn hoặc
bằng) 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, như vậy việc phân
loại lãi suất đúng hạn và lãi suất quá hạn không còn ý nghĩa bởi vì cách tính lãi
suất đúng hạn và lãi suất quá hạn là như nhau.
Thứ hai: Thực tế cho thấy việc giải việc giải quyết những tranh chấp về lãi
suất trong thời gian qua gặp không ít khó khăn. Một phần nguyên nhân là do các
quy định về lãi suất trong các hợp đồng vày còn chưa rõ ràng và ổn định, Điển
hình như việc ngân hàng liên tục có những thay đổi về chính sách lãi suất. Để
hiểu rõ thực tiến giải quyết các tranh chấp có liên quan đến lãi suất trong hợp
đồng vay tiền, trước hết ta cần đưa ra các quy định của hiện hành điều chỉnh


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

9


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

việc tính lãi suất khi có tranh chấp xảy ra ( các tranh chấp ở đây được hiểu là
tranh chấp hợp đồng vay ở ngoài tổ chức ngân hàng, tín dụng.)
Theo hướng dẫn tại Thông Tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 thì việc
tính lãi suất được thực hiện như sau:
Đối với các hợp đồng vay ( kể cả có kỳ hạn và không có kỳ hạn) giao kết
trước ngày 01/07/1996 thì số tiền lãi chưa trả tính theo quy định của BLDS; số
tiền đã trả trước ngày 01/07/1996 không phải giải quyết lại; số tiền lãi đã trả từ
ngày 01/07/1996 trở đi phải tính lại theo quy định của BLDS, nếu mức lãi suất
do các bên thỏa thuận cao hơn mức lãi suất được quy định trong BLDS.
Đối với các hợp đồng vay ( kể cả có kỳ hạn và không có kỳ hạn) giao kết từ
ngày 01/07/1996 trở đi thì việc tính lãi phải tuân theo các quy định của BLDS,
số tiền lãi đã trả cũng phải được giải quyết lại, nếu mức lãi suất mà các bên thỏa
thuận cao hơn mức lãi suất được quy định trong BLDS.
Đến đây vấn đề đặt ra là sẽ áp dụng BLDS 1995 hay BLDS 2005 để giải
quyết tranh chấp? Vấn đề này được quy định rõ trong nghị quyết số
45/2005/NQ-QH11 ngày 14/06/2005 của Quốc Hội về việc thi hành BLDS
2005. Cụ thể: Nếu HĐVTS đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức
phù hợp với quy định của BLDS 2005 thì áp dụng các quy định của BLDS
2005, còn nếu HĐVTS đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù
hợp khác với quy đinh của BLDS 2005 hoặc được thực hiện xong trước ngày

BLDS 2005 có hiệu lực (01/1/2006) mà có tranh chấp xảy ra thì áp dụng quy
định của BLDS 1995 và các văn bản hướng dẫn áp dụng để giải quyết.
Pháp luật quy định như vậy nhưng thực tiến giải quyết các tranh chấp hợp
đồng vay tiền cho thấy các tòa án có cách hiểu khác nhau về cách tính lãi suất.
Có tòa tính lãi từ khi vay hoặc từ khi đến hạn trả nợ cho đến khi XXST với lãi
suất là lãi suất tại thời điểm cho vay, kể cả trong thời gian đó NHNN có sự tăng

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

10


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

giảm lãi suất. Nhưng có tòa lại áp dụng mức lãi suất do NHNN quy định qua
từng thời kỳ…
Để thấy rõ được điều này sau đây em xin đưa ra 1 vụ án cụ thể nêu ba
quan điểm khác nhau về cách tính lãi suất.
Nội dung vụ án như sau:
Ngày 30/01/1996, Bà nguyễn Thị A cho ông Trần Văn B vay số tiền
200.000.000đồng , lãi suất hai bên thỏa thuận là 5%/tháng, khi nào cần báo
trước một tháng. Bà A đã nhận đủ lãi và đúng theo thỏa thuận đến ngày
30/5/2001. Sau đó ông B không trả lãi và vốn. Bà A đã khởi kiện yêu cầu xem
xét buộc ông B trả gốc và lãi chưa trả. Thời điểm tòa án XXST là tháng 5/2004.
Có 3 quan điểm khác nhau về việc tính lãi suất trong vụ án này:
Thứ nhất: Bà A nhận lãi của ông B mỗi tháng là 200.000.000 đồng x 5% =
10.000.000 đồng. Từ tháng 02/1996 đến tháng 5/2001 tổng số tiền lãi đã nhận là
10.000.000 đồng x 51 tháng = 510.000.000 đồng. Lãi suất này được tính lại kể

từ ngày 01/07/1996. Như vậy Bà A chỉ được nhận lãi theo thỏa thuận đến ngày
01/1996, tính được là 60.000.000 đồng ( 10.000.000đồng x 6 tháng). Sau ngày
01/07/1996, lãi suất sẽ được tính đến thời điểm XXST với mức lãi tại thời điểm
XXST ( 0,625%/tháng), tính được là 101.250.000 đồng ( 200.000.000 đồng x
0,625 x 81 tháng). Như vậy đến lúc xét xử bà A chỉ được nhận tổng số tiền lãi là
161.250.000 đồng và số vốn là 200.000.000 đồng. Do bà A đã nhận
510.000.000 đồng nên phải hoàn trả lại cho ông B số tiền chênh lệch:
510.000.000 đồng – (161.250.000 đồng + 200.000.000 đồng) = 148.750.000
đồng.
Như vậy ngoài việc đòi được vốn, bà A chỉ nhận được lãi 161.250.000 đồng
. Tổng cộng cả gốc lẫn lãi là 361.250.000 đồng.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

11


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Thứ hai: Số lãi bà A nhận được không tính lại. Số lãi bà A chưa nhận được
từ tháng 5/2001 đến thời điểm XXST được tính lại với lãi suất tại thời điểm
XXST, tính được là 45.000.000 đồng (200.000.000 đồng x 0,625% x 36 tháng).
Như vậy ngoài việc đòi được vốn , bà A còn nhận được lãi: 510.000.000
đồng + 45.000.000 đồng = 555.000.000 đồng. Tổng cộng cả gốc lẫn lãi là
755.000.000 đồng.
Thứ ba: Số lãi đã nhận được không tính lại. Số lãi chưa trả từ tháng 5/2001
đến thời điểm XXST được tính theo mức lãi suât tại thời điểm giao dịch và cho
phép vượt 50%. Tại thời điểm giao dịch tháng 01/1996 theo quyết định 381/QĐNHNN1 ngày 28/12/1995 lãi suất loại cho vay trung và dài hạn là 1,7 %. Do đó

chấp nhận mức lãi suất của hợp đồng vay là 1,7% +1,7% x 50% = 2,55%/tháng.
Số tiền lãi ông A phải trả từ tháng 05/2001 đến thời điểm XXST là 200.000.000
đồng x 2,55% x 36 tháng = 183.600.000 đồng.
Như vậy, ngoài việc đòi được vốn, bà A còn được nhận số lãi lớn hơn so với
hai quan điểm trên, cụ thể số lãi bà A nhận được là: 510.000.000 đồng +
183.600.000 đồng = 693.000.000 đồng. Tổng cộng cả gôc lẫn lãi là 893.000.000
đồng.
Nhận xét
Việc tính lãi suất theo ba quan điểm nêu trên là không đúng, vi phạm quy
định tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/06/1997 và BLDS 1995. Vì
theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT và BLDS 1995 thì việc tính lãi
suất trong vụ án trên như sau:
Do hợp đồng vay tiền được các bên ký kết trước ngày 01/07/1996 nên số
tiền lãi ông B đã trả cho bà A từ tháng 02/1996 đến trước ngày 01/07/1996 là
200.000.000 đồng x 5%/tháng x 5 tháng = 50.000.000 đồng không phải tính lại.
Còn số tiền lãi đã trả từ ngày 01/07/1996 phải tính lại theo quy định tại khoản 1
điều 473 BLDS 1995.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

12


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Lãi suất cao nhất của loại vay trung và dài hạn tại thời điểm vay theo quyết
định 381/QĐ – NHNN1 ngày 28/12/1995 là 1,7%. Như vậy, từ ngày
01/07/1996 đến thời điểm XXST, tòa án chỉ chấp nhận mức lãi suất của HĐVTS
là 1,7% + 1,7% x 50% = 2,55%/tháng. Theo đó số tiền lãi mà ông B phải trả bà

A tù 01/7/1996 đến thời điểm XXST là: 200.000.000 đồng x 95 tháng =
484.500.000 đồng.
Số tiền lãi Bà A đã nhận từ ngày 01/07/1996 đến ngày 30/05/2001 là:
200.000.000 đồng x 5%/tháng x 59 tháng = 590.000.000đồng. Suy ra số tiền mà
bà A đã nhận vượt quá số tiền mà bà nhận được theo quy định của pháp luật là :
590.000.000 đồng - 484.500.000 đồng = 105.000.000đồng. Số tiền này cần
được khấu trừ vào tiền gốc. Do đó ông B chỉ còn phải trả bà A: 200.000.000
đồng - 105.000.000 đồng = 95.000.000 đồng.
Như vậy bà A nhận được 50.000.000 đồng ( tiền lãi trước ngày 01/07/1996);
590.000.000 đồng (tiền lãi từ ngày 01/07/1996 đến ngày 30/05/2001chưa tính
lại) và 94.500.000 đồng ( một phần nợ gốc). Tổng cộng cả gốc lẫn lãi bà A nhận
được là: 50.000.000 đồng + 590.000.000 đồng + 94.500.000 đồng =
734.500.000 đồng.
Ngoài việc tính lãi suất không đúng như trên, trong thưc tiến giải quyết các
tranh chấp Hợp đồng vay tiền có liên quan đến lãi suất, một số tòa án vẫn mắc
những “ lỗi” khác. Ví dụ:
Vụ án tranh chấp hợp đồng vay giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Hoa và
bị đơn là ông Khổng Văn Định, đã được tòa án nhân dân quận Hai bà Trưng
XXST tại bản án số 11/2009/DST ngày 23/3/2009.
Nội dung vụ án: Cuối năm 2002, Công ty tiếp thị đầu tư nông nghiệp và
phát triển nông thôn ( công ty tiếp thị) có kí hợp đồng kinh tế với công ty cổ
phần xuất nhập khẩu tổng hợp do ông Địch làm đại diện. Trong quá trình thực
hiện hợp đồng, ông Địch đã nhiều lần xin tạm ứng tiền, tổng cộng là
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

13


HOÀNG THỊ VÂN 351759


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

323.000.000 đồng. Lúc đó bà Hoa là kế toán trưởng công ty tiếp thị đã làm thủ
tục tạm ứng tiền cho ông Địch. Ngày 30/4/2003 ông Địch thanh toán
143.000.000 đồng. Số tiền 180.000.000 đồng ông không trả được. Ngay
25/06/2003 công ty tiếp thị bị cơ cấu lại. Do phải giao tài chính gấp cho Trung
tâm tiếp thị triển lãm nông nghiệp và phát triển nông thôn nên bà Hoa đã gọi
điện cho ông Địch và nói sẽ cho ông vay tiền. Được sự nhất trái từ phía ông
Địch, bà đã trả ngay cho công ty tiếp thị 180.000.000 đồng hộ ông vào ngày
25/06/2003 theo phiếu số 68. Sau đó nhiều lần bà đến nhà ông Địch để đòi nợ
nhưng ông Địch đều xin khuất. Đến ngày 11/5/2006, ông Địch đã viết giấy
khuất nợ và hẹn trả bà làm 2 lần: Lần 1 thanh toán 50% số nợ vào ngày
30/06/2006, đồng thời thanh toán lãi 1%/ tháng cho bà kể từ ngày thanh toán
thay cho ông tại công ty. Hết năm 2006 ông Địch không trả được nợ và lại viết
giấy khuất nợ vào ngày 8/1/2007 hẹn ngày 30/4/2007 sẽ trả nợ. Đến hẹn ông
Địch vẫn không trả nợ và cho tiếp sau đó cũng chưa trả cho bà hoa được đồng
nào. Cuối cùng bà Hoa đã khởi kiện yêu cầu tòa án buộc ông Địch phải trả cho
bà cả nợ gốc và lãi.
Tòa án sơ thẩm đã áp dụng BLDS 2005 và xử: Buộc ông Địch phải trả cho
bà Hoa số tiền nợ gốc là 180.000.000 đồng và lãi là 123.672.600 đồng. Tổng
cộng là 303.672.600 đồng.
Sau đó Viện kiểm sát nhân dân quận hai bà trưng đã kháng nghị. TAND TP
Hà Nội đã thu lý và XXPT tại bản án số 254/2009/DSPT ngày 23/9/2009
Tòa án phúc thẩm đã nhận định: Tại thời điểm xác lập giao dịch vay tiền
giữa ông Địch và bà Hoa là ngày 25/06/2003 – ngày bà Hoa nộp số tiền
180.000.000 đồng vào công ty tiếp thị thay cho ông Địch. Do đó văn bản pháp
luật cần được áp dụng để giải quyết tranh chấp là BLDS 1995 và thông tư liên
tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997. Tòa án sơ thẩm đã áp dụng BLDS 2005 là
không chính xác. Vì vậy, Tòa án phúc thẩm đã tính lại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


14


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

- Về lãi suất thỏa thuận: Theo quyết định 393/2003/QĐ- NHNN ngày
28/4/2003 thì mức lãi suất cơ bản vào thời điểm cho vay tháng 06/2003 là
0,625%/tháng, các bên thỏa thuận lãi suất 1% là cao hơn 50% quy định tại
khoản 1 Điều 473 BLDS 1995. Do đó tòa án chỉ chấp nhận mức lãi suất là
0,625% + 0,625% x 50% = 0,9375%/tháng. Lãi suất nợ trong thời hạn từ ngày
25/6/2003 đến ngày 30/4/2007 ( ngày ông Địch hẹn trả cuối cùng theo giấy khất
nợ lần 2 đã được bà Hoa đồng ý) là : 46 tháng 5 ngày x 0,9375%/tháng x
180.000.000 đồng = 77.906.250 đồng.
- Về lãi suất nợ quá hạn: Theo quyết định 1539/QĐ- NHNN ngày
30/06/2009 được áp dụng từ ngày 1/7/2009 thì mức lãi suất cơ bản bằng VNĐ là
7%/ năm tương đương 0,583333%/tháng. Lãi suất quá hạn được tính bằng 150%
lãi suất cơ bản = 0,875%/tháng. Lãi suất nợ quá hạn được tính từ ngày
30/4/2007 đến thời điểm XXST (23/3/2009) là : 26 tháng 23 ngày x
0,875%/tháng x 180.000.000 đồng = 42.157.500 đồng.
Tổng số tiền lãi trong hạn và quá hạn: 77.906.250 đồng + 42.157.500 đồng
= 120.063.750 đồng
Tổng số tiền mà ông Địch phải trả cho bà Hoa là: 180.000.000 đồng( nợ gốc)
+ 120.063.750 đồng (nợ lãi) = 300.063.750 đồng.
IV. Nhận xét và kiến nghị của cá nhân về quy định của pháp luật về vấn
đề lãi suất trong hợp đồng vay tiền.
Qua phân tích ở trên cá nhân em xin đưa ra một số nhận xét về các quy
định của pháp luật hiện hành về lãi suất trong hợp đồng vay tiền. Các Toà án

thường phải giải quyết rất nhiều vụ tranh chấp về hợp đồng vay tiền mà trong
đó, lãi suất là một trong những vấn đề vướng mắc hay xảy ra. Tuy đã có một số
văn bản hướng dẫn, giải thích của các cơ quan pháp luật, nhưng vẫn chưa giải
đáp được rõ ràng và chính xác một số quy định về lãi suất. Nguyên nhân là do
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

15


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

các quy định liên quan đến lãi suất còn quá phức tạp, không đồng bộ, thiếu cụ
thể và thường xuyên thay đổi. Bài viết này xin nêu ra một số vấn đề về mức lãi
suất tương ứng, về lãi suất cho vay trong hạn và về lãi suất cho vay quá hạn
trong các hợp đồng vay tài sản như:
1- Về “mức lãi suất tương ứng” trong hợp đồng vay tiền
Điểm thứ 19, phần III, Công văn số 16/1999/KHXX ngày 1-2-1999 của
TANDTC đã giải thích về mức lãi suất tương ứng trong hợp đồng vay tài sản
nói chung vay tiền nói riêng như sau: Tuy hướng dẫn tại điểm a và b, khoản 4,
mục I, Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của TANDTC,
VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính “ Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án
về tài sản” không nêu cụ thể, nhưng trong ví dụ theo điểm này đã hướng dẫn
cách tính cụ thể là: Khi tính lãi phải áp dụng mức lãi suất tương ứng (mức lãi
suất cho vay cùng loại) của Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xác lập
hợp đồng (thời điểm vay), được ghi trên hợp đồng tín dụng hay khế ước vay
tiền.
Đặc biệt, theo Quyết định số 189/1999/QĐ-NHNN1 ngày 29-5-1999 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về “ quy định trần lãi suất cho vay bằng đồng

Việt Nam của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng”, thì cũng sẽ không thể
xác định được “lãi suất tương ứng” với thời hạn cho vay. Vì nếu như trước
đây Ngân hàng Nhà nước luôn quy định hai mức lãi suất ngắn hạn và trung dài hạn khác nhau, thì cho đến Quyết định số 189/1999/QĐ-NHNN1 chỉ còn
quy định một mức trần lãi suất duy nhất đối với cả hai loại cho vay này. Được
biết, thay vì quy định các mức lãi suất cụ thể như thời gian qua, sắp tới Ngân
hàng Nhà nước sẽ “ xác định và công bố lãi suất cơ bản ” theo quy định tại
Điều 18, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thì Toà án sẽ càng khó khăn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

16


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

hơn, thậm chí không thể áp dụng được các mức lãi suất để xét xử các tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân với nhau. Những vấn đề trên cần
phải được các cơ quan hữu quan hướng dẫn, giải thích kịp thời.
2- Về lãi suất cho vay trong hạn.
Công văn số 16/1999/KHXX của TANDTC nêu lên một vướng mắc thực
tế là, nếu áp dụng mức lãi suất tại thời điểm xác lập hợp đồng thì đối với những
hợp đồng được xác lập rất lâu sẽ có mức lãi suất quá cao so với mấy năm gần
đây. Để giải quyết vướng mắc đó, Công văn đã hướng dẫn: Đối với những hợp
đồng vay tài sản được xác lập đã lâu có mức lãi suất cao so với mức lãi suất
đang áp dụng, thì khi giải quyết tranh chấp, Toà án áp dụng Quyết định số
79/QĐ-NH1 ngày 16-4-1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về điều
chỉnh lãi suất tiền gửi và tiền vay. Theo quy định tại Quyết định này thì: “Số dư
tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
của dân cư và dư nợ vay Ngân hàng đến cuối ngày 19-4-1993 chuyển sang đều

áp dụng theo lãi suất tại Quyết định này”. Do đó, các khoản vay được xác lập
trước ngày 19-4-1993 mà đến ngày 19-4-1993 chưa trả và phát sinh tranh chấp,
thì Toà án áp dụng mức lãi suất theo Quyết định số 79/QĐ-NH1 trên đây của
Ngân hàng Nhà nước để giải quyết, nghĩa là lãi suất cho vay cùng loại ở đây
được xác định là mức lãi suất cho vay cùng loại tại thời điểm vay vốn được ghi
trên hợp đồng hay khế ước vay tiền đến ngày 19-4-1993, còn từ ngày 19-41993 trở về sau thì lãi suất được xác định theo mức lãi suất cho vay cùng loại
theo quy định tại Quyết định số 79/QĐ-NH1 nói trên.
Qua hướng dẫn trên, có hai vấn đề cần rất quan trọng được làm rõ là:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

17


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

- Tại sao các khoản vay được xác lập trước ngày 19-4-1993 thì Toà án lại
đều thống nhất “áp dụng mức lãi suất theo Quyết định số 79/QĐ-NH1”?
- Và tại sao “từ ngày 19-4-1993 trở về sau thì lãi suất được xác định theo
mức lãi suất cho vay cùng loại theo quy định tại Quyết định số 79/QĐ-NH1”.
3- Về lãi suất cho vay quá hạn
Hiện nay Khoản 2, Điều 313; khoản 5, Điều 471 Bộ luật Dân sự; Điều
233, Luật Thương mại; Điểm e, khoản 2, điều 13 Nghị định số 17-HĐBT ngày
16-1-1990 của HĐBT quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 nói trên đều có quy định về
việc nếu người có nghĩa vụ chậm thanh toán tiền vay (tiền gốc và lãi), thì phải
trả lãi cho số tiền chậm thanh toán theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà
nước quy định. Các quy định đó có lẽ xuất phát từ thực tế nhiều năm trước đây,

lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước luôn quy định với một mức cố
định bằng 150% của lãi suất trong hạn.
Nhưng kể từ ngày 1-6-1999 trở đi, theo Quyết định số 189/1999/QĐNHNN1 ngày 29-5-1999 nói trên, quy định về lãi suất quá hạn đã được thay
đổi cơ bản như sau: “Lãi suất nợ quá hạn được thoả thuận cụ thể trong hợp
đồng tín dụng giữa bên cho vay và bên đi vay, nhưng tối đa không quá 150%
mức lãi suất cho vay trong hạn cùng loại”. Điều đó có nghĩa là, lãi suất quá hạn
trên có thể thay đổi trong khoảng bằng từ 100% cho đến < 150% lãi suất trong
hạn. Vậy lãi suất quá hạn làm căn cứ để Toà án áp dụng xét xử các tranh chấp
cho vay tiền sẽ là mức lãi suất tối đa (bằng 1,5 lần) hay mức lãi suất tối thiểu
(bằng 1 lần) hay mức trung bình (bằng 1,25 lần) trong khoảng trên?
Đó cũng là vấn đề cần được các cơ quan chức năng làm rõ.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

18


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Sự cần thiết phải sửa đổi các quy định về lãi suất và lãi suất quá hạn
trong các điều khoản của BLDS 2005.BLDS 2005 sử dụng khái niệm lãi suất
cơ bản để làm căn cứ viện dẫn khi xác định lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
trong đó có hợp đồng vay tiền và lãi suất quá hạn do vi phạm nghĩa vụ trả nợ
và nghĩa vụ thanh toán. Tuy vậy, căn cứ lãi suất cơ bản hiện này không còn phù
hợp vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất bằng cách giao cho Ngân hàng Nhà
nước ban hành mức lãi suất cơ bản như cách quy định của BLDS 2005 là
không còn phù hợp do việc xác định lãi suất tiền vay trong thực tế hiện nay đã
có nhiều biến động và chịu sự chi phối mạnh mẽ của quy luật thị trường, vượt

xa những dự liệu của nhà làm luật, khi ban hành BLDS 2005. Bản thân các quy
định về lãi suất cơ bản, suy cho cùng, cũng là kết quả tham khảo từ lãi suất thị
trường liên ngân hàng ở Việt Nam, nhưng thực chất lại thường mang tính chủ
quan của cơ quan quản lý (Thống đốc Ngân hàng Nhà nước), không theo kịp
lãi suất thực tế diễn ra trên thị trường, và đôi khi tỏ ra lạc hậu rất xa so với thực
tế.
Thứ hai, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước
cũng như sự thay đổi trong các quan hệ cung - cầu trong thị trường vốn, theo
hướng ngày càng tiến dần đến với những đòi hỏi khách quan của loại quan hệ
này, đòi hỏi phải cần có sự thay đổi căn cứ xác định lãi suất thích ứng. Sắp tới,
Nhà nước sẽ không điều hành lãi suất theo cơ chế công bố lãi suất cơ bản như
từ trước tới nay, nên căn cứ áp dụng lãi suất cơ bản trong BLDS hiện hành
không còn khả thi.
Thứ ba, về mặt kỹ thuật, nhiều điều luật quy định về lãi suất trong BLDS
2005 không được trình bày chặt chẽ, có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau, gây khó khăn cho việc áp dụng và thực thi pháp luật cụ thể như sau:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

19


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Tại khoản 1 Điều 467 BLDS 2005 quy định. “Lãi suất vay do các bên thoả
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.” Về mặt kĩ thuật pháp lý , cách
diễn đạt “ không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản ” gây khó khăn cho việc

nhận thức và áp dụng điều luật. Hiện có nhiều cách hiểu khác nhau: Thứ nhất, là
lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng chỉ có thể lên tới gấp 1,5 lần lãi suất cơ bản;
Thứ hai : được phép thỏa thuận cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng phần vượt quá
đó phải không được vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản ( nói cách khác, các
bên có thể thỏa thuận lãi suất trong hợp đồng lên đến 250% lãi suất cơ bản).
Đây cũng là cách hiều được hướng dẫn tại tiểu mục 4 Mục I Thông tư lien tịch
số 01/ TTLT ngày 19/6/1997. Do đó cần bỏ từ “vượt” trong điều khoản trên.
Bên cạnh đó khi thay đổi “ lãi suất cơ bản” bằng “ lãi suất trái phiếu kho bạc
thấp nhất” cùng với sụ phát triển của nền kinh tế thì tỉ lệ trên cũng có sự thay
đổi, tăng lên mức 300% hay 3 lần.
Khoản 2 Điều 467 BLDS 2005 quy định. “Trong trường hợp các bên có
thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp
về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương
ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”.Như vậy, “ có tranh chấp về lãi” ở
đây được hiểu là gì? Nếu các bên thỏa thuận mức lãi suất quá cao và sau đó bên
vay lại không chấp nhận mức lãi suất đó nữa và khởi kiện thì giải quyết như thế
nào? Sẽ áp dụng ,mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố như khoản 2 Điều 467
BLDS 2005 hay áp dụng mức lãi suất không vượt quá 150% mức lãi suất cơ
bản do NHNN công bố tại khoản 1 Điều 467 BLDS 2005? Để tránh việc hiểu
sai dẫn đến áp dụng khác nhau về vấn đề này, nên bỏ từ “hoặc có tranh chấp
về lãi suất”.
Với những bất cập nói trên, cần thiết phải tìm kiếm một loại lãi suất phù
hợp để căn cứ cho việc xác định lãi suất trong BLDS và để viện dẫn về lãi suất
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

20


HOÀNG THỊ VÂN 351759


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

trong các hợp đồng vay tiền. Bởi vậy, việc Ban soạn thảo đưa ra những đề xuất
sửa đổi các quy định liên quan đến vấn đề lãi suất, như Dự thảo Luật Sửa đổi,
bổ sung một số điều của BLDS là một việc làm cấp thiết.
Như vậy,vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay tiền còn chứa đựng rất nhiều
vấn đề bất cập cần phải được nghiên cứu và sửa chữa cho phù hợp hơn.
C. KẾT LUẬN
Qua phân tích ở trên, quy định của pháp luật về vay tiền có lãi suất ta có
thể thấy rằng những quy định của pháp luật về lãi xuất còn khá phức tạp, không
đồng bộ và hay thay đổi. Chính vì vậy khi xử lí các vụ tranh chấp về vay có tài
sản vướng mắc lớn nhất của tòa án khi giải quyết là vẫn đề lãi xuất trong hợp
đồng vay. Cần phải sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật cho phù hợp với
thực tiễn hơn và giúp cho cơ quan giải quyết dễ dàng giải quyết khi có tranh
chấp xảy ra.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam 2 ( chủ biên, Lê Đình Nghị), NXB Giáo
Dục, Hà Nội 2009.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

21


HOÀNG THỊ VÂN 351759

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

2, Đỗ Văn Điệp , Khóa luận tốt nghiệp. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vay

tài sản, trường ĐH Luật Hà Nội năm 2011
3, Nguyễn Ngọc Điện (2001) , Bình luận khoa học về bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự trong Luật Dân Sự Việt Nam, NXB Tp Hồ Chí Minh.
4, Châu Thị Điệp (2005), Cách tính lãi suất trong HĐVTS, tạp chí TAND.
5, Lê Minh Hùng (2008), Về lãi suất trong HĐVTS và lãi suất quá hạn trong dự
thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLDS 2005. Tạp chí nghiên cứu lập
pháp.
6, Bộ luật dân sự năm 2005
7, Mạng internet.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

22



×