Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vai trò của hoạt động thực thi pháp luật thuế nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.11 KB, 15 trang )

Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

BÀI LÀM
MỞ ĐẦU
Thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước, nhất là
trong thời đại ngày nay, hội nhập là một xu thế tất yếu của mọi quốc gia trong đó có
Việt Nam ta. Hội nhập kinh tế đồng nghĩa với việc các quốc gia dỡ bỏ những hàng rào
thuế quan giúp lưu thông hàng hóa trở nên thuận lợi hơn. Điều này có ảnh hưởng trực
tiếp đến hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, đặc biệt là thuế nhập khẩu. Nắm bắt
được tình hình đó, nhà nước đã chú trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật thuế nhập khẩu, đồng thời tạo mọi điều kiện để việc thực thi pháp luật thuế nhập
khẩu có hiệu quả trên thực tế. Vậy những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc thực thi pháp
luật thuế nhập khẩu, và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu như
nào, bài viết dưới đây xin làm rõ vấn đề nêu trên.
NỘI DUNG
I.
1.

Lý luận chung về pháp luật thuế xuất, nhập khẩu
Khái niệm về thuế xuất, nhập khẩu

Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế xuất, nhập khẩu, điều này tùy thuộc
vào từng góc độ tiếp cận. Xét về phương diện kinh tế thì: “ thuế xuất, nhập khẩu được
hiểu là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo
quy định của pháp luật, khi họ thực hiện hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua
biên giới của một nước”. Với cách hiểu này, thuế nhập khẩu được quan niệm như một
quan hệ phân phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá
nhân nộp thuế với người thu thế là nhà nước. Thuế nhập khẩu cũng được coi là đòn
bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để nhà nước điều tiết trực tiếp đối với quá trình sản
xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia.
Xét về phương diện pháp lý: “ thuế xuất, nhập khẩu có thể hiểu như là một quan hệ


pháp luật phát sinh giữa nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp

1


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

thuế), về việc tạo lập và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên
trong quá trình thu thuế xuất, nhập khẩu”.
So với các loại thuế nội địa thì thuế xuất, nhập khẩu có nhiều điểm khác biệt. Đó là:
-

Thuế xuất, nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được phép vận
chuyển qua biên giới.

-

Thuế xuất, nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hay thuế gián thu.

-

Thuế xuất, nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong nước và
điều tiết hoạt động nhập khẩu .

2.

Khái niệm pháp luật thuế nhập khẩu
Pháp luật thuế nhập khẩu là danh từ pháp lý dùng để chỉ tập hợp các quy phạm

pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong

quá trình đăng kí, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm
thuế và xử lý các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa Nhà nước và
người nộp thuế.
Xét về phương diện hình thức, pháp luật thuế nhập khẩu bao gồm các văn bản quy
phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết cả Quốc Hội; nghị định; nghị quyết của
Chính phủ….
Xét về phương diện nội dung thì pháp luật thuế nhập khẩu là bao hàm các vấn đề chủ
yếu như phạm vi áp dụng, căn cứ tính thuế, trình tự, thủ tục thu thuế nhập khẩu, chế độ
miễn giảm thuế nhập khẩu, hoàn thuế nhập khẩu, xử lý vi phạm và giải quyết các tranh
chấp liên quan đến thuế nhập khẩu….Mặt khác trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay thì pháp luật thuế nhập khẩu không chỉ bao hàm các quy định của quốc gia
mà còn bao hàm cả các quy định quốc tế mà quốc gia đó tham gia kí kết.
Vai trò của hoạt động thực thi pháp luật thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là một trong những nguồn thu của ngân sách nhà nước, nên việc
3.

thực thi pháp luật thuế nhập khẩu cũng chính là công cụ để thực hiện việc thu ngân
sách nhà nước, từ đó đảm bảo duy trì được hoạt động của bộ máy nhà nước và tạo ra
các công trình công cộng phục vụ cho người dân
2


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

Việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu chính là biện pháp giúp các quy định của thuế
nhập khẩu được thực hiện trên thực tiễn, qua đó góp phần phát huy vai trò của thuế
nhập khẩu trên thực tế.
II.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu
Như đã nêu ở trên, việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu có vai trò rất quan trọng,

vì vậy việc xem xét những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập
khẩu là một vẫn đề thiết yếu. Vì chỉ khi xác định được những yếu tố ảnh hưởng đến
việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu mới có cơ sở để nâng cao hiệu quả trong quá
trình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Có thể thấy việc thực thi luật thuế nhập khẩu
trong thực tế chịu tác động của rất nhiều các yếu tố khác nhau. Sau đây chúng ta cùng
đi tìm hiểu từng yếu tố tác động đến việc thực thi thuế nhập khẩu cũng như mức độ ảnh
hưởng của chúng. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu
là:
1.

Yếu tố từ chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa thị
trường.

Chính sách kinh tế của một quốc gia là sự điển hình của nhà nước đối với nền kinh
tế của một quốc gia. Thái độ, quan điểm của nhà nước đối với các quan hệ kinh tế và
được thực hiện thông qua hệ thống pháp luật. Pháp luật thuế nhập khẩu nằm trong hệ
thống các chính sách quản lí vĩ mô nền kinh tế quốc gia nên khi hệ thống này có sự
thay đổi thì bản thân pháp luật thuế nhập khẩu cũng có sự thay đổi để phù hợp với toàn
bộ hệ thống. Điều này thể hiện rõ nhất khi có sự thay đổi chính sách kinh tế đới ngoại
của nhà nước và định hướng cải cách của Đảng đối với pháp luật thuế nhập khẩu.
Chính sách thương mại quốc tế trong gia đoạn hiện nay gồm có hai xu hướng: Một là
bảo hộ mậu dịch, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các ngành sản xuất trong nước. Xu
hướng thứ hai là tự do hóa thương mại. Cắt giảm tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và
phi thuế quan của xu hướng tự do hóa thương mại. Quán triệt chủ trương, đường lối
của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực hội nhập để hoàn thiện nền kinh tế thị
3


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1


trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời đảm bảo tối đa hóa lợi ích từ các công cụ thuế, tối thiểu hóa các chi phí
trong quá trình hội nhập, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế. Những cam kết về
thuế quan mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc sẽ tham gia ký kết là nội dung quan trọng
thể hiện mức độ hội nhập của quốc gia. Các cam kết này là cơ sở để điều chỉnh các
quan hệ kinh tế tài chính trong nước với nước ngoài và giữ vai trò chi phối đối với nội
dung các quy định của pháp luật về việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Cần phải
hoạch định, thống nhất và xây dựng phù hợp với các cam kết quốc tế, xây dựng lộ trình
cắt giảm phù hợp và phản ánh đầy đủ, chính xác chính sách bảo hộ có chọn lọc, có
điều kiện và với thời hạn nhất định. Đảm bảo việc sử dụng thuế như một công cụ quan
trọng nhằm khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế đồng thời đảm bảo nguồn thu ngân
sách. Phải hình thành quá trình giảm dần tỷ trọng thuế nhập khẩu theo tỷ lệ gia tăng
tương ứng các nguồn thu từ sắc thuế nội địa.
Yếu tố từ hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu
Những quy định của pháp luật thuế nhập khẩu là một trong những yếu tố chủ đạo,
2.

quyết định đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Những quy định của pháp luật
muốn được thực thi có hiệu quả trên thực tế thì đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật
thật khả thi, phù hợp với tình hình thực tiễn trong và ngoài nước. Khi có một hệ thống
pháp luật thuế nhập khẩu tốt thì việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế là
hoàn toàn đạt được hiệu quả mong muốn, nhưng ngược lại nếu hệ thống pháp luật mà
không đảm bảo được yêu cầu đối với thực tiễn, xa rời thực tiễn, thiếu tính khả thi thì
việc thực thi pháp luật trên thực tế sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn mà ngược
lại lại làm cản trở sự phát triển của nền kinh tế nói riêng và của đất nước nói chung.
3. Những điều kiện cụ thể của nền kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước
Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế ở một thời kì nhất định là yếu tố
có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách thuế nhập khẩu và nội dung pháp

luật thực định về thuế nhập khẩu trong giai đoạn đó. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi lẽ
suy cho cùng chính sách và pháp luật về thuế nhập khẩu chỉ là tấm gương phản chiếu
4


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

thực trạng tình hình kinh tế và xã hội trong nước và quốc tế mà thôi. Xuất phát từ nhu
cầu đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích chung của từng quốc gia với lợi ích riêng của từng
doanh nghiệp, từng cá nhân và hộ gia đình, chính sách thuế nhập khẩu trong từng thời
kỳ có thể sẽ được xây dựng và thực hiện theo hướng thiên về mục tiêu bảo hộ; mục
tiêu tăng thu ngân sách và mục tiêu tự do hóa thương mại.
Việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu qua đó sẽ được thực hiện nghiêm túc nếu như
tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế ổn định. Ngược lại, nếu tình hình kinh
tế, chính trị trong nước và quốc tế bất ổn định thì việc thực thi pháp luật thuế nhập
khẩu một cách có hiệu quả sẽ rất khó khăn. Chủ thể nộp thuế sẽ có cơ hội để trốn thuế,
khai báo không đúng sự thật. Còn phía các cơ quan thu thuế thì sẽ không kiểm soát
được chính xác lượng hàng hóa nhập khẩu và số thuế phải thu. Bên cạnh đó, tình trạng
nhận hối lộ, quan liêu, cửa quyền của các cơ quan thu thuế cũng là những hiện tượng
đáng lo ngại.
Pháp luật thuế nhập khẩu có mục tiêu quan trọng là công cụ khuyến khích, hỗ trợ và
bảo vệ nền sản xuất trong nước. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung pháp luật thuế nhập
khẩu cần căn cứ vào tình trạng phát triển của nền sản xuất trong nước, sức cạnh tranh
của hàng hóa nước mình trên trường quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế, các quốc gia cần phải nghiên cứu đánh giá những lợi thế so sánh trong từng
ngành hàng, xác định mức độ bảo hộ đối với những hàng hóa có uy tín trên thị trường
quốc tế có khả năng cạnh tranh cao thì không cần bảo hộ mà lấy đó làm cơ sở cho việc
đàm phán về thuế quan với các nước khác.
Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh dưới hình thức pháp lí các quan hệ xã hội,
một sự phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi xã hội. Xã hội tác động vào pháp luật,

hình thành lên pháp luật và pháp luật cũng tác động ngược lại đối với xã hội làm biến
đổi xã hội. Vì vậy giữa pháp luật mà xã hội có mối quan hệ tác động qua lại với nhau,
chi phối nhau.
4. Những yêu cầu và cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển kinh tế nói riêng và phát triển đất nước nói chung. Và Việt Nam cũng không
5


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

ngoại lệ. Trong xu hướng toàn cầu hóa, việc kí kết các điều ước quốc tế giữa các chủ
thể của luật quốc tế trong đó có quốc gia là không thể tránh khỏi, mặt khác các điều
ước quốc tế này có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống pháp luật quốc gia. Luật thuế nhập
khẩu cũng là một trong các hệ thống pháp luật quốc gia, đồng thời cũng là loại thuế
phản ánh rõ nhất tiến trình hội nhập quốc tế đó nên khi xây dựng hệ thống pháp luật
thuế nhập thì mỗi quốc gia phải nội luật hóa các cam kết quốc tế về thuế nhập khẩu
bằng các cam kết đó. Hơn thế nữa việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu cũng phải
đảm bảo phù hợp với các yêu cầu và cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế. Nhất là
việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu đối với các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài
khi có sự điều chỉnh của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Ví dụ như
theo Điều 12 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005 cũng có quy định việc áp dụng
mức thuế suất thuế nhập cũng phải đảm bảo nguyên tắc đó là phù hợp với điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên . Hoặc theo Khoản 3
Điều 16 có quy định: “Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong các trường hợp sau đây
được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của tổ
chức, cá nhân nước ngoài được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao tại Việt Nam
theo định mức do Chính phủ quy định phù hợp với điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;” như vậy điều ước quốc tế cũng có ảnh hưởng
đáng kể đến những quy định của pháp luật nước ta về thuế nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng

tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Vì vậy, những yêu cầu và cam kết trong hội
nhập kinh tế quốc tế cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp
luật thuế nhập khẩu.
5.

Sự hội nhập kinh tế quốc tế

Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng quan trọng đến nội
dung, chính sách thuế nhập khẩu của quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. Đối với Việt
Nam, những thay đổi lớn lao và quan trọng trong chính sách thuế nhập khẩu thực sự đã
6


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

được khởi động từ năm 1998 (để thực hiện cam kết giảm thuế theo quy định của
AFTA) và gần đây nhất là những thay đổi trong chính sách thuế nhập khẩu đối với
hàng hóa nhập khẩu đến từ Hoa Kỳ, nhằm thực hiện các cam kết giảm thuế theo hiệp
định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Hầu hết những thay đổi này đều được thể chế
hóa thành các quy định của pháp luật về thuế nhập khẩu, nhằm đảm bảo tính khả thi và
tính hiện thực cho các chính sách đó trong thực tiễn. Hội nhập kinh tế quốc tế đồng
nghĩa với việc mở rộng quan hệ buôn bán hàng hóa qua biên giới các quốc gia. Nhập
khẩu hàng hóa là một nhu cầu tất yếu của các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển.
Đặc biệt, Việt Nam là một nước có số lượng hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài khá
lớn. Về phía các nhà lập pháp, việc hoàn thiện pháp luật về thuế nhập khẩu nhằm thực
thi pháp luật thuế nhập khẩu một cách có hiệu quả trở nên một vấn đề cấp bách hơn
bao giờ hết. Nó vừa phải đảm bảo mang lại lợi ích cho quốc gia vừa phải hài hòa với
pháp luật của các nước có quan hệ nhập khẩu hàng hóa.
Trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản lí thu thuế nhập khẩu
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang nằm trong nhóm nước đang phát triển thì

6.

vấn đề nhập khẩu là không thể tránh khỏi, số lượng hàng nhập khẩu rất lớn và mặt
hàng nhập khẩu cũng phong phú. trị giá hải quan là một con số đáng kể. Do đó, công
tác kiểm tra, quản lý của cơ quan hải quan đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực
thi pháp luật thuế nhập khẩu hiện nay. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ hải quan nước ta hiện
nay còn yếu kém nên không kiểm soát được hết hàng buôn lậu. Bên cạnh đó, công tác
lập pháp của ta còn có nhiều hạn chế, cũng là xuất phát từ đội ngũ cán bộ có năng lực
chưa thật sự tốt. Bằng chứng là việc đặt ra những mức thuế chưa thật sự phù hợp dẫn
đến việc người nộp thuế khó chấp nhận. Mức thuế suất thay đổi liên tục dẫn đến khó
khăn trong việc áp dụng; hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ, còn nhiều qui định
chồng chéo chưa thống nhất, gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng
Như vậy, có thể thấy, năng lực quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nói
chung và của đội ngũ cán bộ nói riêng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi
pháp luật thuế nhập khẩu trong thực tế.
7


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1
7.

Ý thức của chủ thể thực hiện việc nộp thuế nhập khẩu

Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực thi Luật thuế nhập khẩu.
Hiện nay có những gian lận chủ yếu sau trong việc nộp thuế của các chủ thể nộp thuế:
Thứ nhất là việc trốn thuế của các chủ thể nộp thuế: đây là tình trạng đang xảy ra
khá thường xuyên và với số lượng lớn hiện nay mà chúng ta gọi là tình trạng buôn lậu
qua biên giới;
Thứ hai là việc khai báo không trung thực giá tính thuế nhập khẩu. Các chủ thể nộp
thuế thường không khai báo chính xác mà khai giá nhập khẩu thấp hơn. Ví dụ công ty

Đông Nam, giám đốc Nguyễn Gia Thiều đã móc nối với công ty Đông Nam Hồng
Kông mua hơn 40000 chiếc điện thoại di dộng khai giá thấp hơn so với giá thực tế
thanh toán từ 75 đến 375 USD trốn thuế nhập khẩu trên 100 tỉ. Khai thấp về chất
lượng hàng: những chủ thể nộp thuế thường khai chất lượng hàng thấp hơn so với thực
tế nhằm trốn thuế nhập khẩu; Khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị
quảng cáo; Đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp cao hơn; Khai báo gian
dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn; Không kê
khai trung thực thuế nhập khẩu.
Việc chủ thể nộp thuế có những hành vi này nhằm trốn thuế hoặc giảm số thuế phải
nộp sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Nguồn hàng
hóa nhập khẩu vào trong nước sẽ rất khó để kiểm soát được một cách chính xác, làm
thất thu một khoản tiền rất lớn vào ngân sách nhà nước, phá vỡ thế cân bằng tiêu dùng
trong nước, hàng hóa nội địa bị chèn ép là những nguy cơ xảy ra do ý thức của chủ thể
nộp thuế.
Thứ ba là gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, khai sai nguồn gốc xuất xứ
hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam cam
kết giảm thuế;
Từ đó cho thấy, khi các chủ thể thực hiện nghĩa vụ nộp thuế mà không thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật thì việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế
gặp rất nhiều khó khăn và khó đảm bảo được hiệu quả tốt.
8


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1
III.

Thực trạng việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay

Việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế đã đạt được những thành tựu to

lớn, góp phần tích cực vào sự phát triển của đất nước, tạo ra những lợi ích cơ bản cho
nền kinh tế nước nhà. Nhưng bên cạnh đó, trong quá trình thực thi pháp luật thuế nhập
khẩu đã cho thấy những hạn chế, thiếu xót chưa phù hợp của pháp luật thuế nhập khẩu
làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu,
chưa phát huy được hết vai trò của thuế nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác
cũng cho thấy được những yếu kém của công tác quản lý, thu thuế nhập khẩu và nộp
thuế nhập khẩu của các chủ thể. Những thành tựu và những hạn chế thiếu xót được thể
hiện như sau:
1.

Những thành tựu đạt được trong việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu

Nhìn chung, luật thuế nhập khẩu hiện nay đã phù hợp với các nguyên tắc và nền
tảng pháp lí chung của các chế định kinh tế quốc tế, góp phần hình thành nền tảng pháp
lí quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Việc thực thi pháp
Luật thuế nhập khẩu cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể vào công trình phát
triển đất nước như: đã tạo nguồn thu quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, tác
động tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước nâng cao năng lực cạnh
tranh của các ngành sản xuất trong nước. Đồng thời cũng đã phát huy vai trò của mình
trong việc bảo hộ một cách hiệu quả những mặt hàng có thế mạnh sản xuất trong nền
sản xuất nội địa như các sản phẩm từ sản xuất nông nghiệp hay các ngành sản xuất còn
non trẻ khác xét điều kiện trong nước còn chưa thể đáp ứng các tiêu chuẩn kĩ thuật
cũng như chất lượng so với các quốc gia khác trên thế giới như ngành sản xuất ô tô.
2.

Những hạn chế, vướng mắc, khó khăn trong việc thực thi pháp luật thuế
nhập khẩu

Trong việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu còn gặp một số những khó khăn đáng
kể như hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu cũng còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế trong

quá trình thực thi. Mức thuế suất thay đổi liên tục dẫn đến khó khăn trong việc áp
9


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

dụng. Mức thuế suất hiện nay của VN là 17.8%, cao hơn rất nhiều so với các nước
đang phát triển khác là thành viên của WTO như: Trung Quốc 10.1%, Grudia 6.61% ;
Estonia 7.93% .Trong tiến trình hội nhập, biểu thuế suất của VN nhìn chung còn phản
ánh khuynh hướng thực hiện chức năng bảo hộ và thu ngân sách là chính.
Vấn đề xác định giá trị hải quan trong nhập khẩu hàng hóa theo thông lệ quốc tế vẫn
còn hẹp về phạm vi áp dụng, hiệu quả chưa cao, nhiều trường hợp không tạo ra sự
công bằng, tự do trong thương mại. Hơn thế nữa hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ,
còn nhiều qui định chồng chéo chưa thống nhất, gây nhiều khó khăn trong việc áp
dụng. Chẳng hạn như: Theo qui định tại điều 15 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
về thời hạn nộp thuế đã qui định rõ thời hạn nộp thuế. Tuy nhiên theo điều 28 khoản 1
luật hải quan sửa đổi bổ sung thì qui định về kiểm tra, đăng kí hồ sơ lại lấy tiêu chuẩn
chấp hành tốt pháp luật hải quan. Ngoài ra không có sự thống nhất giữa qui định của
luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và luật quản lí thuế về tỉ lệ số tiền nộp phạt đối với
trường hợp nộp chậm tiền thuế. Cụ thể theo điều 23 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu thì tỉ lệ này là 0.1% còn theo điều 106 luật quản lí thuế là 0.05%. Để giải quyết
tình trạng này, pháp luật về thuế nhập khẩu đã co những qui định về thuế để tự vệ,
chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử. Mặc dù chúng ta đã có 2
pháp lệnh về chống trợ cấp và pháp lệnh về chống bán phá giá nhưng những qui định
này vẫn chưa phát huy tác dụng trên thực tế hầu như không được áp dụng. Lí do những
văn bản chưa qui định cụ thể, một số qui định còn chưa phù hợp và VN vẫn chưa được
các thành viên WTO công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường. Do vậy quá
trình áp dụng những qui định này cũng khá khó khăn. Pháp luật hiện hành qui định về
bộ hồ sơ hải quan nhiều hơn so với công ước Kyoto 4 loại đó là: Chứng thư giám định,
bản kê khai chi tiết hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa, tờ khai tri giá hải quan. Qui

định mới về việc không truy thu đối với hàng hóa thuộc diên truy thu nếu chuyển
nhượng lại cho chủ thể được miễn hoặc xét miễn thuế nhập khẩu để tránh những hiện
tượng tiêu cực trong thực tiễn. (Điểm a khoản 1 điều 21 nghị định 149/2005/NĐ-CP).
Qui định này dẫn đến hiện tượng các đối tượng thuộc diện chịu thuế câu kết với tổ
10


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

chức cá nhân thuộc diện miễn thuế hoặc xét miễn thuế hoặc cán bộ hải quan làm hồ sơ
gỉa để không bị truy thu thuế. Với sự ra đời của luật quản lí thuế 2006 đã ghi nhận một
cách cụ thể trình tự thu tục về kê khai thuế nhập khẩu, nộp thuế nhập khẩu, truy thu
thuế nhập khẩu, hoàn thuế Vì vậy những qui định trong luật thuế nhập khẩu về những
thủ tục này trở nên không cần thiết nữa thậm chí còn gây ra sự chồng chéo, không
đồng nhất.
IV.

Ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế xuất, nhập khẩu ở Việt
Nam.

Từ thực tiễn việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu đồng thời cũng từ việc phân tích
những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật thuế nhập khẩu, thì có những giả pháp được đưa
ra sau đây giúp cho việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu có hiệu quả cao trên thực tế
như sau:
Kiến nghị về sửa đổi pháp luật thuế xuất, nhập khẩu
Pháp luật cần bổ sung một số quy định chi tiết và cụ thể hơn nữa nhằm tạo một hành
1.

lang pháp lý đầy đủ thống nhất cho hoạt động nhập khẩu, đây là giải pháp đòi hỏi phải
có tính thống nhất đồng bộ nhằm tránh việc mâu thuẫn chồng chéo giữa các quy định

của Luật và văn bản dưới luật. Trên cơ sở các cam kết của quá trình hội nhập, chúng ta
phải nội luật hóa, từ đó xây dựng một hệ thống pháp luật tương thích với những
nguyên tắc chung cho thương mại quốc tế hướng tới một pháp luật minh bạch, phù hợp
và có tính khả thi cao.
Việc hoàn thiện chính sách pháp luật thuế nhập khẩu cần được hoàn thiện bởi các
nội dung sau:
Thứ nhất, pháp luật thuế xuất, nhập khẩu cần xây dựng hàng rào bảo hộ thuế quan
hợp lí:
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong thời gian gần đây khi Việt
Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì càng đòi hỏi chúng ta
phải cắt giảm hàng rào thuế quan, do đó cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện nhanh
chóng các loại thuế nhập khẩu bổ sung thêm như thuế tự vệ, chống pháp giá, chống trợ
cấp, chống phân biệt đối xử với trong nhập khẩu hàng hóa. Trong giai đoạn hiện nay,
11


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

vai trò của thuế nhập khẩu buộc phải giảm dần vì vậy việc nâng cao vai trò của thuế
nhập khẩu bổ sung là rất cần thiết. Pháp luật thuế nhập khẩu chưa quy định cụ thể,
cũng như chưa làm rõ được vai trò của thuế nhập khẩu bổ sung, vì vậy chưa phát huy
được vai trò của loại thuế này trên thực tiễn .
Thứ hai,cải cách thủ tục và hồ sơ miễn thuế, xét giảm thuế: trên thực tế cho thấy thủ
tục và hồ sơ miễn thuế, xét giảm thuế rất phức tạp, điều này làm cho chủ thể làm thủ
tục mất rất nhiều thời gian, gây ra nhiều tốn kém. Vì vậy cần cải cách lại cho gọn nhẹ
và thiết thực hơn. Nhiều doanh nghiệp cho rằng, hiện nay, quy định về miễn thuế nhập
khẩu còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài theo quy
định hiện hành về miễn thuế xuất nhập khẩu còn có sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài. Miễn thuế đối với nhà đầu tư trong nước kém ưu đãi hơn so
với đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo công bằng minh bạch về chính sách không phân

biệt đối xử theo đúng quy định của WTO, thì cần tập hợp toàn bộ các quy định về miễn
thuế xuất nhập khẩu trong các văn bản Luật có liên quan và đưa vào Luật thuế xuất
nhập khẩu sửa đổi, áp dụng chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài. Nguyên tắc là
chọn những quy định miễn thuế ở mức cao nhất cho từng đối tượng để áp dụng chung
cho các dự án đầu tư, lược bỏ những quy định không khả thi.
Thứ ba, sửa đổi quy định của luật về giá tính thuế: Về cơ bản, việc áp giá tối thiểu
trong luật hiện hành có khả năng hạn chế được gian lận thương mại, nhưng xét về lâu
dài thì đây là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước vì không cạnh
tranh nổi với hàng ngoại nhập. Hàng hóa xuất khẩu trong nước phụ thuộc nhiều vào
nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nếu chúng ta vẫn áp dụng mức giá cố định trong khi giá
thế biến động thì các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Vì vậy cần thay đổi cho phù hợp
hơn với tình hình thực tế.
Thứ tư, thay đổi về thời hạn nộp thuế: Luật hiện hành chưa có sự phân loại doanh
nghiệp theo mức độ chấp hành pháp luật để quy định các điều kiện ràng buộc kèm theo
nên nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng ân hạn thuế để chây ỳ chậm nộp thuế chiếm đoạt
Ngân sách của Nhà nước. Để đảm bảo thuận lợi cho các doanh nghiệp chấp hành tốt
12


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

nghĩa vụ thuế, mặt khác vẫn đảm bảo chặt chẽ công tác quản lý, cần quy định thêm các
điều kiện ràng buộc như phải đảm bảo mức độ tín nhiệm hoặc có bảo lãnh, tín chấp.
Thứ năm, giảm thuế nhập khẩu. Ở các nước có mức thuế xuất, nhập khẩu cao, hành
động trốn thuế thông qua việc áp mã sai, buôn lậu hoặc tránh nộp thuế diễn ra khá phổ
biến. Do vậy, việc giảm thuế nhập khẩu có khả năng tạo ra nguồn thu cao hơn vì đã
làm giảm chi phí thực thi và tăng lượng hàng hóa xuất, nhập khẩu chịu thuế do các
hoạt động buôn lậu giảm bớt.
2. Hoàn thiện pháp luật về quản lí thuế xuất, nhập khẩu
Thứ nhất, Cán bộ quản lí và thu thuế xuất, nhập khẩu còn yếu. Lực lượng hải con còn

mỏng, chất lượng cán bộ chưa đồng đều. Nhiều vụ gian lận, trốn thuế còn có sự tham
gia của các cán bộ quản lí. Muốn giảm bớt buôn lậu trốn thuế cần nâng cao trách
nhiệm, đạo đức trách nhiệm nghề nghiệp cho cán bộ quản lí và thu thuế xuất, nhập
khẩu. Về công tác cán bộ: phải quy định rõ trách nhiệm của từng loại cán bộ trên từng
vị trí công tác, chú trọng vào kết quả công tác, phẩm chất đạo đức của từng cán bộ,
không ngừng đào tạo và phát triển năng lực cán bộ.
Thứ hai, Hoàn thiện tổ chức bộ máy của ngành hải quan nói chung và của hệ thống
quản lý thu thuế xuất, nhập khẩu nói riêng theo hướng, đảm bảo sự thống nhất, tập
trung trong vấn đề hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện quy trình thu thuế xuất,
nhập khẩu từ cơ quan Tổng cục đến các cục hải quan tỉnh, thành phố. Tùy theo tình
hình thực tế của hoạt động xuất, nhập khẩu mà hình thành nên cơ cấu tổ chức cho phù
hợp.
Thứ ba, tăng cường kiểm tra, kiểm soát, làm trong sạch nội bộ để tăng cường hiệu lực
của cơ quan thực thi pháp luật trong đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại.
3.

Các giải pháp khác

Thứ nhất, cần nâng cao trách nhiệm của các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế xuất, nhập
khẩu. Việc nâng cao ý thức của các chủ thể nộp thuế xuất, nhập khẩu là một trong các
giải pháp quan trọng để việc thực thi pháp luật thuế xuất, nhập khẩu đạt hiệu quả cao.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa hiện
13


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1

đại hóa đất nước thì việc đảm bảo được sự thực hiện nghiêm túc pháp luật của các chủ
thể là một yếu tố cần và đủ để tạo ra hiệu quả trong quá trình thực thi pháp luật thuế
nói chung và thuế xuất, nhập khẩu nói riêng.

Thứ hai, trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay, để tạo ra
hiệu quả trong việc thực thi pháp luật thuế xuất, nhập khẩu thì cần đảm bảo thực hiện
đúng các cam kết và thông lệ quốc tế. Chính sách thuế nhập khẩu phải phù hợp với
thông lệ quốc tế và xu hướng cải cách của thế giới, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện
hội nhập kinh tế và thu hút nguồn lực tài chính có lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta.
KẾT LUẬN
Việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác
nhau, để cho việc thực thi có hiệu quả thì đòi hỏi phải đảm dung hòa các yếu tố đó. Từ
việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu, các
nhà làm luật và thực hiện pháp luật sẽ dễ dàng hơn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật thuế xuất, nhập khẩu, thực thi pháp luật thuế xuất, nhập khẩu có hiệu quả hơn trên
thực tế.

MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

14


Hoàng Thị Ngoan – 350607 – NO1 – TL3 – Nhóm 1
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Nxb.

2.

CAND, Hà Nội, 2005
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Tư pháp,


3.
4.
5.

Hà Nội, 2005;
Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tài chính, Hà Nội, 2007;
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005;
Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 của Chính phủ quy định chi

6.

tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005;
Thông tư 113/2005/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế

7.

nhập khẩu năm 2005;
Trang web:

-
- sinhvienluat.vn
- thongtinphapluatdansu.vn
- tailieu.vn
- taichinhcujut.com

15




×