Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TRỌNG TÀI VÀ VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.07 KB, 22 trang )

TRỌNG TÀI VÀ VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I – SỰ PHÁP TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ PHÁP
LÊNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2003 ĐẾN LUẬT TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI 2011.
1. Sự cần thiết phải ban hành Luật trọng tài Thương mại.
2. Những điểm mới cơ bản của Luật trọng tài Thương mại so với Pháp lệnh
trọng tài Thương mại năm 2003.
CHƯƠNG II – CHẾ ĐỊNH TRỌNG TÀI VÀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Trọng tài.
1.1. Khái niệm.
1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế.
2. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài.
2.1. Khái niệm
2.2. Vai trò, ý nghĩa
2.3. So sánh với thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của tòa
án theo thủ tục tố tụng dân sự.
3. So sánh với pháp luật nước ngoài.
CHƯƠNG III – BÌNH LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.
1


WTO: Tổ chức thương mại thế giới
VIAC: Tổ chức Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam


TTTM: Thương mại quốc tế
BPKCTT: Biện pháp khẩn cấp tạm thời
HĐTT: Hội đồng trọng tài
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
ICC: Tòa án trọng tài thuộc Phòng Thương mại Quốc tế
UNCITRAL: Uỷ ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế.

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
2


Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và nền kinh tế nước ta đã chuyển sang
mô hình phát triển theo thể chế thị trường, các tranh chấp kinh tế không những đơn
thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng kinh tế, mà còn có những tranh
chấp dưới các dạng khác nhau phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh như tranh
chấp giữa các thành viên trong công ty, tranh chấp về cổ phần, cổ phiếu, tranh chấp
giữa công ty và các thành viên của công ty…
Vậy, khi phát sinh tranh chấp thì doanh nghiệp cần tìm đến tổ chức nào để giải quyết
một cách có hiệu quả, nhanh gọn, tránh những tổn thất quá lớn cho doanh nghiệp?
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xét xử thông qua
hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng là
hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ tồn đọng, không kịp giải
quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), trong khi Toà
kinh tế Hà Nội trong năm 2007 phải xử gần 9.000 vụ án, trong đó có khoảng 300 vụ
án kinh tế và Toà kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phải xử gần 42.000 vụ án các loại,
trong đó có 1.000 vụ án kinh tế, thì VIAC cũng chỉ tiếp nhận khoảng 30 vụ 1. Tính
trung bình mỗi trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0, 25 vụ một năm, trong khi mỗi thẩm
phán Toà kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ một năm và mỗi thẩm phán ở Toà kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh xử trên 50 vụ một năm.

Theo thống kê năm 2007 về giải quyết các vụ tranh chấp về dân sự, kinh doanh,
thương mại và lao động, thì Toà án các tỉnh đã thụ lý 108.060 vụ; đã xử lý được
80.773 vụ. Ngoài ra, có 1.280 vụ được kháng cáo lên Toà án nhân dân tối cao. Những
con số này ngoài việc cho thấy sự phổ biến việc xử lý các tranh chấp bằng Toà án còn
cho thấy phần nào sự quá tải của hệ thống Toà án2.
Các tranh chấp giữa các bên Việt Nam và các bên nước ngoài vẫn tiếp tục được xét xử
chủ yếu bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Singapore (119 vụ), Hiệp hội
Trọng tài Mỹ (621 vụ); Toà án Trọng tài Quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại Quốc
tế ICC (599 vụ); Hội đồng Trọng tài Thương mại và Kinh tế Trung Quốc (1.118 vụ);
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (448 vụ)3.

1

VIAC có 140 trọng tài viên. Năm 2004 thụ lý 26 vụ; năm 2005 thụ lý 18 vụ; năm 2008 thụ lý 48 vụ. Tính trung
bình mỗi năm số vụ việc giải quyết tăng khoảng 15
2
Số liệu thống kê tình hình xét xử của Toà án ở 64 tỉnh thành phố giai đoạn 1/1/2007 đến 31/12/2007
3
/>
3


Như vậy, giải pháp hiện nay, cần nâng cao vai trò của trọng tài và để đảm bảo cho sự
việc tranh chấp được diễn ra minh bạch, khách quan, tiết kiệm chi phí cho quá trình
giải quyết vụ việc và quyền lợi của các bên đương sự không bị xâm phạm thì biện
pháp khẩn cấp tạm thời cũng có ý nghĩa đặc biệt và cần được lưu tâm trong giải quyết
tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài để làm sao sử dụng chúng một cách hiểu
quả nhất.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I – SỰ PHÁP TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ PHÁP

LÊNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2003 ĐẾN LUẬT TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI 2011.
3. Sự cần thiết phải ban hành Luật trọng tài Thương mại.
Năm 1963 và 1964 ở miền Bắc nước ta đã thành lập Hội đồng Trọng tài Ngoại thương
và Hội đồng Trọng tài Hàng hải4. Vào những năm 1970, một hệ thống các trọng tài
kinh tế từ huyện, tỉnh đến Trung ương đã được thành lập để giải quyết tranh chấp giữa
các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã. Trọng tài kinh tế ở thời điểm đó thực chất
là những cơ quan hành chính nhà nước có chức năng giải quyết tranh chấp giữa các xí
nghiệp nhà nước mà chưa thực hiện được vai trò trọng tài như tên gọi của mình.
Trong khi đó, Toà án nhân dân không có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp
này mà chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự giữa các cá nhân với nhau,
chủ yếu là các vấn đề hôn nhân và gia đình hoặc tranh chấp liên quan đến hàng hoá có
mục đích để sử dụng cá nhân và tiêu dùng. Từ năm 1998 hệ thống Trọng tài kinh tế đã
giải thể. Việc giải quyết các tranh chấp kinh tế từ đó đã được thực hiện bằng hai con
đường: Toà kinh tế thuộc hệ thống Toà án nhân dân và các Trung tâm trọng tài kinh
tế5. Theo quy định của Nghị định số 116/CP, Trọng tài kinh tế thực sự được xác định
là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tức là tổ chức phi Chính phủ có thẩm quyền giải
quyết tranh một số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn tách rời chức năng quản lý
nhà nước như trước đây.
Để đáp ứng nhu cầu của hoạt động trọng tài trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, ngày 25/02/2003,
4

Đây là hai tổ chức tiền thân của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VIAC). VIAC được thành lập theo Quyết định số 204/TTg ngày 28 tháng 4 năm 1993 của Thủ
tướng Chính phủ trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài hàng hải.
5
Các Trung tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo Nghị định số 116/CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ về tổ chức
và hoạt động của Trọng tài kinh tế.


4


Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại (có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/7/2003) tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các Trung tâm
Trọng tài thương mại thay cho hoạt động của các Trọng tài kinh tế.
Về cơ bản Pháp lệnh Trọng tài thương mại phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế
trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của Trọng tài như: quy định về hiệu lực của
thoả thuận trọng tài, điều kiện trở thành Trọng tài viên, về trọng tài vụ việc, mở rộng
thẩm quyền chọn trọng tài viên, ghi nhận mối quan hệ giữa Trọng tài và Toà án bằng
một loạt các quy định cụ thể như hỗ trợ thi hành thoả thuận trọng tài, chỉ định Trọng tài
viên, giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, giải quyết yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, lưu trữ hồ sơ trọng tài
v.v.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, qua hơn sáu năm thực hiện, Pháp lệnh
này đã bộc lộ không ít những hạn chế và bất cập như: Phạm vi thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của trọng tài; chủ thể của các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài; giá
trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài về mặt nội dung và hình thức; việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời; việc triệu tập nhân chứng; vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài,
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; việc hủy quyết định trọng tài, vấn đề địa điểm tiến
hành trọng tài; cách tính thời hiệu khởi kiện v.v…
Mặc dù so với trước đây đã có những quy định tiến bộ hơn, Pháp lệnh trọng tài thương
mại năm 2003 vẫn chưa tạo được cơ sở pháp lí đầy đủ cho việc thực hiện chủ trương
của Nhà nước khuyến khích các bên sử dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp
thương mại và các tranh chấp khác, cầm được khắc phục bằng việc ban hành một đạo
luật mới về trọng tài thương mại – Luật trọng tài thương mại để thay thế Pháp lệnh
trọng tài thương mại năm 2003 trên cơ sở kế thừa những chế định tiến bộ và khắc phục
những hạn chế sao cho phù hợp với thực tế để tạo ra những quy định hoàn chỉnh hơn.
Sau một quá trình nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn áp dụng Pháp lệnh trọng
tài thương mại, kế thừa và phát triển các quy định đã đi vào cuộc sống, thì Luật trọng

tài thương mại đã ra đời và có hiệu lực vào ngày 01/01/2011.
Để giải quyết riêng cho các tranh chấp thương mại quốc tế thì Việt Nam cũng đã thành
lập được Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VIAC) theo Quyết định số 204/TTg ngày 28 tháng 4 năm
1993 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên cơ
5


sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại thương (thành lập năm 1963) và Hội đồng
Trọng tài Hàng hải (thành lập năm 1964).
Theo Điều lệ, VIAC có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
quốc tế như các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cung ứng dịch vụ; phân phối đại
diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật;
li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng
hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ v.v.
4. Những điểm mới cơ bản của Luật trọng tài Thương mại so với Pháp lệnh trọng
tài Thương mại năm 2003.
Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng
tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh TTTM): khắc phục việc phân định không rõ
ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở
đó bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự,
Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành khác
với Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM). Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp
lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông
qua việcmở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên
quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những
điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù
hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới.
Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về các
tình huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài6. Đặc biệt, còn có quy định trường

hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện (nguyên đơn) có quyền được
tự do lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa thuận
trọng tài bị vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải quyết tranh chấp.
Luật TTTM có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp7. Quy định này dựa trên một thực tế là thông
thường người tiêu dùng bị đặt ở vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điểu kiện
và điều khoản trong hợp đồng in sẵn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch
vụ, do vậy cần có quy định bảo vệ họ trong các tình huống cần thiết.
6
7

Điều 18, Luật trọng tài thương mại năm 2011.
Luật trọng tài thương mại, năm 2011.

6


Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật TTTM có các quy
định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình thành ở nước ta một đội
ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn và uy
tín xã hội8. Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh trọng tài năm 2003, Luật trọng
tài thương mại không yêu cầu phải có quốc tịch Việt Nam. Như vậy, có nghĩa là
người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các
bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này còn đáp ứng nhu
cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tích cức hội nhập thế giới.
Về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM bổ sung một số điểm mới
sau đây:
Thứ nhất, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho khái
niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp lệnh năm

2003 quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được tiến hành tại
Trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài (khoản 6 Điều 3
Luật TTTM).
Thứ hai, Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng
tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng
thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện
tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên (Chương XII với 07 Điều).
Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài được thu
thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời (Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định của Luật đã tiếp thu quy định của Luật mẫu
UNCITRAL được thông qua năm 2006 nhằm giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có
hiệu quả hơn.
Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định không
phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên được gửi đơn lên
Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng tài”,
bởi vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và
làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài mà pháp luật của hầu hết các
nước đều công nhận.
8

Luật trọng tài thương mại, năm 2011.

7


Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng là nguyên
tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các nước phát
triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy những quy

định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố
tụng trọng tài và không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền
phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu
quả các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.
Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là thể hiện rõ nét mối quan hệ
giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các
bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý
quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt
kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập
chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài
vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán
quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã
cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục
được những bất cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng
trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ
thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
Quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Khác với Pháp lệnh TTTM, thủ tục tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật quy định một Hội
đồng gồm 03 thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và quyết định
của Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù hợp (Điều 71).
Nhằm khuyến khích hoạt động của các tổ chức trọng tài, tạo điều kiện cho các Trọng
tài viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ các quyền và thực hiện tốt
nghĩa vụ, Luật TTTM có 01 điều quy định về việc thành lập Hiệp hội trọng tài. Hiệp
hội trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Trọng tài viên và các Trung tâm
trọng tài. Việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội trọng tài được thực hiện theo quy
định của pháp luật về hội nghề nghiệp (Điều 22 Luật TTTM) 9.

9


Hà Phương, “Những điểm mới cơ bản của Luật trọng tài thương mại” ngày 9/8/2010.

8


CHƯƠNG II – CHẾ ĐỊNH TRỌNG TÀI VÀ VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
4. Trọng tài.
4.1.
Khái niệm.
Trọng tài hiện nay thường được hiểu theo hai nghĩa: i) phương thức giải quyết tranh
chấp, phân biệt với phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án; và ii) cơ quan (tổ
chức) thực hiện việc giải quyết tranh chấp. Theo nghiên cứu của các luật gia ở những
nước có nền kinh tế thị trường phát triển, định nghĩa trọng tài với tư cách là một
phương thức giải quyết được chấp nhận rộng rãi hơn.
Black’s Law Từ điển định nghĩa: “Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp theo đó
bên thứ ba trung lập (trọng tài viên) ra phán quyết sau khi tất cả các bên tranh chấp
đã trình bày ý kiến, quan điểm của mình về vụ việc. Trong quá trường hợp trọng tài tự
nguyện, các bên tranh chấp là người chọn lựa trọng tài viên và trọng tài viên này là
người có quyền ra phán quyết. Phán quyết có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các
bên tranh chấp ”10.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại, trọng tài thương mại
là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo
quy định của luật này (Khoản 1, Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2011)11.
4.2.
Đặc điểm và ý nghĩa của trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế.
Đặc điểm.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phi chính phủ.

Việc thành lập các trung tâm trọng tài theo sang kiến của các trọng tài viên hoặc các
tổ chức phi chính phủ và được Nhà nước công nhận sự tồn tại hợp pháp của tổ chức
này.
Trọng tài viên là người hành nghề tự do, không nhân danh quyền lực nhà nước mà
nhân danh cá nhân hoặc trung tâm trọng tài. Với tư cách là người giải quyết tranh
chấp, việc đảm bảo tính vô tư, khách quan của trọng tài viên được đặt lên hàng đầu.
Trong hình thức trọng tài thường trực, trọng tài được tổ chức dưới hình thức các trung
10

TS.Nguyễn Bá Diến (chủ biên), Giáo trình Tư pháp quốc tư pháp quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2001; tr 617.
11
Khoản 1, điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2011.

9


tâm trọng tài là các tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động theo phương thức tự thu, tự
chi.
Các phán quyết trọng tài không có bộ máy cưỡng chế riêng đảm bảo thực thi. Để phán
quyết này được thực thi, các bên phải sử dụng thủ tục công nhận và cho thi hành phán
quyết trọng tài được pháp luật quy định.
Thủ tục trọng tài xét xử kín.
Đây là đặc điểm đặc trưng của phương thức trọng tài so với xét xử bằng tòa án. Việc
xét xử vừa đảm bảo được bí mật kinh doanh, vừa đảm bảo được uy tín của các bên
tranh chấp.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài không phụ thuộc vào phạm vi lãnh
thổ.
Đặc điểm này tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh có nhiều cơ hội trong việc lựa
chọn tổ chức trọng tài giải quyết tranh chấp của mình một cách phù hợp nhất và tạo ra

tính cạnh tranh giữa các trung tâm trọng tài để không ngừng nâng cao năng lực và uy
tín trong việc đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn.
Vai trò, ý nghĩa:
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khá phổ biến trên thế giới, nhất là tại những nước
có nền kinh tế thị trường phát triển.Tại Việt Nam, tuy mới được hình thành nhưng
trọng tài cũng được khuyến khích sử dụng trong một loạt các luật như Luật Thương
mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Hàng hải…Hiện nay, Việt Nam đã có
Luật trọng tài thương mại (ban hành 2011) là văn bản pháp lí quy định chi tiết về
trọng tài, trình tự giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Trong tài vốn phổ biến và được
sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế là bởi có nhiểu tính ưu việt, đáp ứng được
nh cầu của các doanh nghiệp. Các ưu điểm đó là: Thủ tục tố tụng linh hoạt; tính trung
lập, vô tư khách quan và tính chuyên nghiệp của trọng tài viên; tính bí mật; quyết định
trọng tài là chung thẩm và ràng buộc các bên; sự công nhận quốc tế12…
Tóm lại, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp linh hoạt, nhanh
chóng và hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần
lưu ý lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp thích hợp khi soạn thảo các ký kết
các hợp đồng thương mại.

12

“Trọng tài thương mại – phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả” ngày 10/2/2009. .

10


5. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài.
5.1.
Khái niệm.
Biện pháp KCTT (Interim injunctive relief, Vorläufiger Rechtsschutz) được hiểu là
một công đoạn tố tụng rút ngắn và giản đơn nhằm giúp cơ quan tài phán can thiệp

nhanh chóng, kịp thời nhằm bảo vệ chứng cứ, tài sản tranh chấp hoặc các đảm bảo
khác thiết yếu cho thi hành các nghĩa vụ, trong khi phiên tranh tụng chính chưa kết
thúc. Tuy rằng mục đích hướng tới là các biện pháp cụ thể, ví dụ kê biên tài sản,
phong tỏa tài khoản, cấm định đoạt tài sản, song Chương VII LTT 2011 các Điều từ
48 đến 53 về biện pháp KCTT là một quy trình, quy định quyền yêu cầu, thẩm quyền
xem xét và ban hành các quyết định tố tụng, các đảm bảo, quyền khiếu nại và yêu cầu
đền bù thiệt hại nếu có.
Trong pháp luật Việt Nam, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 có một chương
riêng với 28 điều quy định về biện pháp KCTT (Chương VIII, các Điều từ 99 đến
126). Về bản chất, các quy định mới của các Điều từ 48 đến 53 Luật Trọng tài
Thương mại năm 2010 (LTT 2011) là luật riêng so với các quy định chung của
BLTTDS 2004. Nói cách khác, trong tố tụng trọng tài phải áp dụng trước tiên các quy
định của LTT 2011, nếu các quy định đó thiếu, chưa rõ hoặc chưa cụ thể thì cần áp
dụng các nguyên tắc chung về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Quy
trình tố tụng này là một phần phụ, phái sinh, có tính chất chuẩn bị, bổ trợ cho một thủ
tục tố tụng chính đang được cơ quan tài phán thụ lý. Đây là một chế định của luật tố
tụng dân sự, thường có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, các biện pháp này phải do một bên yêu cầu, thường là nguyên đơn, còn cơ
quan tòa án thường không có quyền tự mình ra các quyết định nhằm bảo tồn tài sản
tranh chấp hoặc chứng cứ; trừ những trường hợp hết sức hãn hữu tòa án mới tự mình
(ex officio) ra các lệnh tòa, ví dụ được nêu tại Điều 119, Điều 102 1-5 BLTTDS 2004;
Thứ hai, phải có những điều kiện nhất định kèm theo các yêu cầu cho áp dụng biện
pháp này, ví dụ phải có chứng cứ đủ tin rằng quyền lợi của bên yêu cầu sẽ không
được đảm bảo nếu không áp dụng ngay các biện pháp ví dụ như phong tỏa tài khoản
hay kê biên tài sản;
Thứ ba, quy trình ban hành các lệnh tòa để bảo toàn tài sản hay chứng cứ hoặc các
biện pháp mang tính tạm thời khác thường là thủ tục rút gọn, dựa trên yêu cầu, các
chứng cứ, hồ sơ của bên yêu cầu cung cấp, thường không thể có thời gian để tổ chức
lấy lời khai của chứng nhân, cũng không mở phiên xét xử, mà cơ quan tài phán quyết
định thường là dựa trên hồ sơ;


11


Thứ tư, hình thức quyết định thường là các lệnh tòa (court’s order, einstweilige
Verfügung), không phải là bản án;
Thứ năm, bên bị thi hành các lệnh tòa đó có quyền khiếu nại, nếu việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp đó không có cơ sở, gây ra thiệt hại cho bên bị thi hành thì người này có
quyền yêu cầu bồi thường;
Thứ sáu, sau khi có lệnh tòa, bên yêu cầu thường phải tự liên hệ với cơ quan thi hành
án (ví dụ Gerichtsvollziehers theo luật Đức) để yêu cầu cho thi hành13.
5.2.

Vai trò, ý nghĩa.

Với mục đích là để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bào toàn tình trạng tài
sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm việc giải quyết vụ việc một cách đúng đắn,
minh bạch, nhanh chóng và hiệu quả nên việc áp dụng BPKCTT mang nhiều ý nghĩa
quan trọng không chỉ đối với vụ việc mà còn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
bên tranh chấp.
Trên thực tế, vì lợi ích của mình hoặc do thiếu thiện chí nhiều người đã có tẩu tán tài
sản, hủy hoại hoặc xâm phạm chứng cứ…Việc áp dụng BPKCTT trong những trường
hợp này một mặt chống lại được các hình vi đó, bảo vệ được chứng cứ, giữ nguyên
được giá trị chứng minh của chứng cứ tránh cho hồ sơ vụ việc thương mại bị sai lệch
bảo đảm giải quyết đúng đắn tranh chấp thương mại. Mặt khác, qua đó còn bảo toàn
được tình trạng tài sản, tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, giữ được
tài sản bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án hoặc Trọng tài.
Ngoài ra, việc áp dụng BPKCTT còn đáp ứng được các nhu cầu cấp bách của các bên
tranh chấp, tạo điều kiện cho họ sớm ổn định cuộc sống của mình và những người
sống phụ thuộc vào họ. Trên cơ sở đó, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các

bên.
5.3.
So sánh với thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của tòa
án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Giống nhau:
- Vai trò và ý nghĩa: là công đoạn tố tụng rút ngắn và giản đơn giúp các cơ quan tài
phán can thiệp nhanh chóng, kịp thời bảo đảm tính khách quan, công bằng của vụ án
và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các bên tham gia.
- Các biện pháp bảo đảm tương đương: một khoản tiền, kim khí quý, đá quý giấy tờ
có giá trị do cơ quan có thẩm quyền ấn định tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát
sinh khi áp dụng BPKCTT không đúng.
13

PGS.TS Phạm Duy Nghĩa “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp
điện tử - TTPLDS.

12


Tiêu chí
Tố tụng thương mại
1.Quyền yêu cầu Các bên tranh chấp
áp dụng

2.Thẩm
quyền
quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy
bỏ BPKCTT


14

- Hội đồng trọng tài.
Theo yêu cầu của một trong
các bên Hội đồng trọng tài có
thể áp dụng, thay đổi, bổ sung
một hoặc một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời14 vào bất kì
thời điểm nào đối với các bên
tranh chấp.
- Tòa án.
Sau khi nộp đơn khởi kiện,
nếu quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm phạm hoặc
có nguy cơ trực tiếp bị xâm
hại, một bên có quyền làm
đơn gửi đến Tòa án có thẩm
quyền yêu cầu áp dụng một

Khoản 2, Điều 49, Luật trọng tài thương mại năm 2011, NXB Lao động.

13

Tố tụng dân sự
- Đương sự, người đại diện hợp
pháp của đương sự và cơ quan
tổ chức khởi kiện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác (khoản 1,2 Điều
162) (1)

- Trong trường hợp do tình thế
khẩn cấp, cần bảo vệ ngay bằng
chứng, ngăn cản hậu quả
nghiêm trọng có thể xảy ra thì
cá nhân, cơ quan tổ chức có
quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án
ra quyết định áp dụng
BPKCTT kèm việc nộp đơn
khởi kiện cho Tòa án đó (2)
- Tòa án chỉ tự mình ra quyết
định áp dụng trong trường hợp
quy định tại Điều 119,
BLTTDS, 2004.(3)
Chỉ có Tòa án.
- Trước khi mở phiên tòa thì do
một thẩm phán xem xét, quyết
định.
- Tại phiên tòa do Hội đồng xét
xử xem xét, quyết định.


hoặc một số biện pháp khẩn
cấp tạm thời.
Một bên cũng có quyền yêu
cầu Tòa án thay đổi, bổ sung,
hủy bỏ BPKCTT.
Tuy nhiên, nếu một trong các
bên đã yêu cầu Hội đồng
trọng tài áp dụng một hoặc
một số biện pháp KCTT mà

lại có đơn yêu cầu Tòa án áp
dụng BPKCTT thì Tòa án
phải từ chối và trả lại đơn yêu
cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp
dụng BPKCTT không thuộc
thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài (khoản 5, Điều 53
LTTTM năm 2011)

3.Thủ tục áp dụng, - Hội đồng trọng tài.
thay đổi, hủy bỏ
• Bên yêu cầu làm đơn
BPKCTT
gửi Hội đồng trọng tài. Nội
dung của đơn được quy định
tại khoản 2, điều 50 LTTTM.
Kèm theo đơn yêu cầu thì bên
yêu cầu phải cung cấp cho
Hội đồng trọng tài chứng cứ
để chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng BPKCTT
đó.
Trong thời hạn 3 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận đơn,
ngay sau khi bên yêu cầu đã
thực hiện biện pháp bảo đảm
thì hội đồng trọng tài xem xét
ra quyết định áp dụng. Trường
hợp không chấp nhận thì
14


-Thủ tục áp dụng BPKCTT:
Người yêu cầu phải làm đơn
gửi đến Tòa án có thẩm quyền.
Nội dung của đơn quy định tại
khoản 1, điều 117 BLTTDS
năm 2004. Tùy theo yêu cầu áp
dụng BPKCTT mà người yêu
cầu phải cung cấp cho Tòa án
chứng cứ để chứng minh cho
sự cần thiết phải áp dụng
BPKCTT đó.
Đối với trường hợp yêu cầu (1),
thẩm phán được phân công
xem xét, giải quyết. Trong thời
hạn 3 ngày kể từ ngày nhận
đơn nếu người yêu cầu không
phải thực hiện biện pháp bảo
đảm hoặc ngay sau khi người


thông báo bằng văn bản và
nêu rõ lí do cho bên yêu cầu
biết.
Việc thi hành quyết định áp
dụng BPKCTT của Hội đồng
trọng tài được thực hiện theo
quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự.
• Thủ tục thay đổi, bổ

sung được thực hiện như trên.
• Thủ tục hủy bỏ
BPKCTT.
Hội đồng trọng tài hủy bỏ
BPKCTT đã được áp dụng
trong trường hợp sau đây:
+ Bên yêu cầu áp dụng
BPKCTT yêu cầu hủy bỏ.
+ Bên thi hành quyết định áp
dụng BPKCTT đã nộp tài sản
hoặc có người khác thực hiện
biện pháp bảo đảm thi hành
nghĩa vụ đối với bên có yêu
cầu.
+ Nghĩa vụ của bên có nghĩa
vụ chấm dứt theo quy định
của pháp luật.
Thủ tục: Bên yêu cầu phải
làm đơn đề nghị hủy bỏ
BPKCTT gửi Hội đồng trọng
tài. Hội đồng trọng tài xem xét
và ra quyết định. Quyết định
hủy bỏ BPKCTT phải được
gửi ngay cho cho các bên
tranh chấp và cơ quant hi hành
án dân sự.
- Tòa án.
Giống như thủ tục của Hội
15


đó thực hiện biện pháp bảo
đảm quy định tại Điều 120
BLTTDS, 2004 thì Thẩm phán
phải ran gay quyết định áp
dụng BPKCTT, trường hợp
không chấp nhận thì thẩm phán
phải thông báo bằng văn bản và
nêu rõ lí do cho người yêu cầu
biết. Trường hợp Hội đồng xét
xử nhận đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT tại phiên tòa thì Hội
đồng xét xử xem xét ra quyết
định áp dụng BPKCTT ngay
hoặc sau khi người yêu cầu đã
thực hiện xong biện pháp bảo
đảm quy định tại Điều 120
BLTTDS, 2004.
Đối với trường hợp yêu cầu (2)
thì sau khi nhận đơn yêu cầu
cùng đơn khởi kiện và chứng
cứ kèm theo, Chánh án Tòa án
chỉ định ngay một thẩm phán
thụ lí giải quyết đơn yêu cầu.
Trong thời hạn 48 ngày kể từ
thời điểm nhận được đơn yêu
cầu, Thẩm phán phải xem xét
và ra quyết định áp dụng
BPKCTT nếu không chấp nhận
thì thẩm phán phải thông báo
bằng văn bản và nêu rõ lí do

cho người yêu cầu biết.
- Thủ tục thay đổi, bổ sung
BPKCTT giống như trên.
- Thủ tục hủy bỏ BPKCTT.
+ Điều kiện để được hủy bỏ
BPKCTT thì giống như trong
tố tụng thương mại.


đồng trọng tài.

+ Tòa án phải xem xét, quyết
định để người yêu cầu áp dụng
BPKCTT nhận lại khoản tiền,
kim khí quý, đá quý hoặc giấy
tờ có giá bảo đảm quy định tại
Điều 120 của BLTTDS năm
2004, trừ trường quy định tại
khoản 1, điều 101 của
BLTTDS năm 2004

4.Trách nhiệm do Bên yêu cầu áp dụng
áp dụng BPKCTT BPKCTT phải chịu trách
không đúng.
nhiệm về yêu cầu của mình.
Trong trường hợp bên yêu cầu
áp dụng BPKCTT không đúng
và gây thiệt hại cho bên kia
hoặc cho người thứ ba thì phải
bồi thường.


Người yêu cầu phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về yêu
cầu của mình. Trong trường
hợp yêu cầu không đúng mà
gây thiệt hại cho bên bị áp
dụng hoặc người thứ 3 thì phải
bồi thường.
Tòa án áp dụng BPKCTT
không đúng mà gây thiệt hại
cho người bị áp dụng hoặc
người thứ 3 thì Tòa án phải bồi
thường (khoản 2, Điều 101
BLTTDS năm 2004).

5. So sánh với pháp luật nước ngoài.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã được các nước phát triển từ lâu, đặc biệt là
những nước phát triển. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng
tài cũng rất linh hoạt. Về thẩm quyền ban hành các lệnh tạm thời trong tố tụng trọng
tài các nước có quy định như sau: Người Đức đã bổ sung Điều 1041 vào BLTTDS,
Điều 1041 cho phép HĐTT (tức là Schiedgericht) có quyền ban hành các biện pháp
khẩn cấp tạm thời. Các nước khác có quy định dè dặt hơn, ví dụ Luật Tố tụng dân sự
2001 của Tây Ban Nha, Điều 722, quy định rằng về nguyên tắc tòa thường tụng có
thẩm quyền chung về biện pháp KCTT, trừ phi các bên có thỏa thuận khác trong hợp
đồng liên quan đến điều khoản trọng tài. Ở Trung Hoa, Điều 28 LTT 1994 quy định
16


khá dè dặt đại thể rằng nếu một bên muốn bảo quản tài sản trong vụ tranh tụng trọng
tài, thì có quyền yêu cầu ủy ban trọng tài, ủy ban sẽ ra quyết định yêu cầu tòa án nhân

dân ra các biện pháp cần thiết, nếu không có cơ sở mà vẫn yêu cầu thì phải bồi
thường. Các quy định về biện pháp KCTT cũng có thể tìm thấy ở Điều 258 Luật Tố
tụng dân sự Trung Hoa. Như vậy, nếu thỏa thuận trọng tài, các bên phải chờ HĐTT đã
được lập, sau đó mới có quyền yêu cầu hội đồng này nhờ tòa án can thiệp, trừ trường
hợp tranh chấp về hàng hải, theo Điều 28 Luật Hàng hải Trung Hoa các bên có quyền
yêu cầu áp dụng biện pháp KCTT kể cả khi HĐTT chưa được lập. Trong khi đó, theo
pháp luật Việt Nam thì thẩm quyền ban hành BPKCTT thuộc về một trong hai cơ
quan là: Hội đồng trọng tài hoặc tòa thương vụ.
Điều 26, quy tắc tố tụng Trọng Tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
(VIAC) quy định: Trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp, nếu thấy quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, các bên có quyền
gửi đơn đến Tòa án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo
quy định của pháp luật. Luật mẫu về trọng tài thương mại của ủy ban của liên hợp
quốc về luật thương mại quốc tế chỉ quy định: “Trừ khi các bên có thoả thuận khác,
hội đồng trọng tài có thể theo yêu cầu của một bên buộc bất kỳ bên nào phải tiến hành
biện pháp bảo vệ tạm thời khi hội đồng trọng tài thấy cần thiết đối với nội dung tranh
chấp. Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu bất kỳ phía nào đưa ra sự bảo đảm thích hợp
về biện pháp trên”.(Điều 17). Điều 23, Quy tắc tố tụng trọng tài của Phòng thương
mại quốc tế (ICC) quy định: “ Trừ khi các bên có thoả thuận khác, ngay khi hồ sơ đơn
kiện được gửi đi cho uỷ ban trọng tài, uỷ ban Trọng tài có thể theo yêu cầu của một
bên, ra biện pháp bảo toàn hoặc tạm thời mà thấy là thích hợp. Ủy ban Trọng tài có
thể ra các biện pháp đó với sự bảo đảm thích hợp mà bên yêu cầu đưa ra. Mọi biện
pháp đó sẽ đưa ra dưới hình thức quyết định có nêu lý do hoặc dưới hình thức phán
quyết khi ủy ban trọng tài thấy thích hợp…”.
Như vậy, theo Luật mẫu về trọng tài thương mại của liên hợp quốc về luật thương mại
quốc tế và Quy tắc tố tụng của phòng thương mại quốc tế (ICC) thì trừ các bên có
thỏa thuận khác, thì quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là do Hội
đồng trọng tài hoặc Ủy ban trọng tài xem xét, áp dụng còn theo pháp luật Việt Nam
thì người có quyền yêu cầu là các bên tranh chấp có thể gửi đơn lên Tòa án hoặc Hội
đồng trọng tài (theo VIAC và điều 48, Luật TTTM năm 2011) chứ không có quyền tự

mình áp dụng. Quy định của pháp luật Việt Nam giống với Quy tắc trọng tài của
UNCITRAL: “Theo yêu cầu của một trong các bên, ủy ban trọng tài có thể đưa ra các
biện pháp bảo toàn tạm thời khi cần thiết áp dụng cho đối tượng tranh chấp, bao gồm
các biện pháp bảo giữ hàng hoá là đối tượng tranh chấp, chẳng hạn yêu cầu bên này
ký thác với bên thứ 3 hoặc bán hàng dễ hỏng”(Khoản 1, Điều 26).
17


CHƯƠNG III – BÌNH LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Ở Việt Nam hiện nay, số vụ tranh chấp có liên quan tới thương mại quốc tế được xét
xử bằng trọng tài không nhiều và tập chung chủ yếu tại Trung tâm Trọng tài quốc tế
Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Thực tiễn
xét xử trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam cho thấy
-

Đối với các vấn đề về thoả thuận trọng tàì.

Các trọng tài viên Việt Nam thường chỉ phải giải quyết sự mập mờ, không rõ nghĩa
trong thoả thuận chọn trọng tài giải quyết tranh chấp, mà hiếm khi phải xác định luật
áp dụng cho thoả thuận trọng tài vì vấn đề hiệu lực của nó, đặc biệt là trường hợp các
bên tranh chấp không thoả thuận về luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài. Hiện chưa
có một phương pháp xác định luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài có tính thống nhất
trong xét xử trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam. Có nghĩa là, với mỗi vụ việc,
trọng tài sẽ có cách hành xử khác nhau. Điều này dễ tạo cảm giác tuỳ tiện trong xét
xử, và theo tôi là bất lợi trong việc phát triển thị trường trọng tài Việt Nam trong điều
kiện thị trường này đang hết sức nhỏ bé và chưa nhận được nhiều sự quan tâm của
giới kinh doanh trong và ngoài nước. Về lâu dài, khiếm khuyết này cần được khắc
phục, góp phần phát triển một thị trường trọng tài Việt Nam ngang tầm với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Liên quan tới việc xác định năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài, điểm a khoản

1 Điều 370 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 quy định:
“1. Quyết định của trọng tài nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam trong các trường hợp sau đây: a) Các bên ký kết thoả thuận trọng tài không
có năng lực để ký kết thoả thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;…”
Điều khoản trên là không rõ ràng, bởi nó không chỉ ra được “pháp luật được áp dụng
cho mỗi bên” là pháp luật nước nào, và thực tế cũng không có bất cứ nguyên tắc cụ
thể nào giúp cho việc chọn luật điều chỉnh năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài
được đưa ra trong các văn bản pháp luật hướng dẫn Bộ luật Tố tụng dân sự. Sự thiếu
vắng của một quy tắc chọn luật như vậy sẽ dẫn tới câu hỏi, toà án Việt Nam sẽ dựa
vào các quy tắc xung đột của tư pháp quốc tế Việt Nam hay của nước nào đó có liên
quan để xác định tư cách pháp lý của các chủ thể tham gia thoả thuận trọng tài? Câu
hỏi này không thể trả lời dứt khoát với thực trạng pháp luật hiện nay, và rõ ràng,
chúng ta cần phải khắc phục lỗ hổng pháp lý đó càng sớm càng tốt bởi số lượng các
phán quyết trọng tài nước ngoài có yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
ngày càng tăng lên trong những năm gần đây do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng của nước ta. Học tập kinh nghiệm của các nước, liệu chúng ta có
18


thể sử dụng nguyên tắc, áp dụng các quy tắc xung đột của nước có toà án đang có
thẩm quyền giải quyết vụ việc để chọn luật điều chỉnh vấn đề năng lực chủ thể ký kết
thoả thuận trọng tài (conflict of law rules of the forum)?
Tóm lại, một thoả thuận trọng tài, trong bất kỳ bối cảnh nào, cũng sẽ có hiệu lực nếu
phù hợp với các quy định trong luật được các bên thoả thuận. Tuy nhiên, nếu không
có sự thoả thuận của các bên, thì không có bộ quy tắc nào về chọn luật điều chỉnh
thoả thuận trọng tài được sử dụng chung cho các trọng tài viên. Việc xem xét luật điều
chỉnh hiệu lực của thoả thuận trọng tài phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng trọng tài
mà sẽ có những quyết định riêng rẽ, chẳng hạn, luật nơi tiến hành trọng tài, luật nơi
phán quyết được tuyên, luật điều chỉnh nội dung tranh chấp. Vì vậy, để tránh những
rắc rối có thể xảy ra trong quá trình trọng tài, các bên nên dành thời gian để thoả

thuận kỹ lưỡng về điều khoản trọng tài cũng như luật áp dụng đối với nó.
-

Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Khi nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài, thường có hai cơ quan có thể quyết định về các
lệnh tạm thời này, một là hội đồng trọng tài, hai là tòa thường tụng có thẩm quyền,
hoặc cả hai cơ quan này.
Điều cần lưu ý là khái niệm trọng tài ở đây được hiểu là Hội đồng trọng tài (HĐTT),
chứ không phải Trung tâm trọng tài, ví dụ VIAC. Ban thư ký thường có chức năng
thụ lý, cung cấp các dịch vụ tống đạt, yêu cầu các bên chỉ định trọng tài viên và ra
quyết định thành lập HĐTT (đây mới là khái niệm tòa án trọng tài Schiedgericht,
arbitral tribunal). Chỉ có HĐTT này mới có quyền ra các lệnh tạm thời, tương tự như
lệnh tòa.
Xét về mặt thực tiễn, nếu cần tới các lệnh khẩn cấp, nguyên đơn có thể có một vài bất
lợi về thời gian nếu phải chờ bị đơn chỉ định trọng tài viên và ban thư ký hoàn tất thủ
tục thành lập HĐTT. Thời gian để thành lập một HĐTT, nếu bị đơn có chiến lược trì
hoãn, có thể tốn tới 1-2 tháng. Thời gian ấy đủ dài để bị đơn, nếu muốn, có thể tẩu tán
đáng kể các tài sản tranh chấp.
Thêm một lý do nữa, về mặt lý thuyết, người ta cho rằng chỉ có tòa án, một cơ quan
công lực, mới có quyền ra các lệnh tạm thời nhằm can thiệp vào tài sản của đương sự,
đặc biệt là hạn chế các quyền định đoạt của họ. Nếu lệnh đó cần có hiệu lực đối với
một bên thứ ba, ví dụ một công ty kho bãi đang lưu trữ hàng hóa tranh chấp của bên
bán và bên mua, thì người ta càng khẳng định đó phải là một lệnh tòa, chứ không thể
là lệnh từ một cơ quan tài phán tự do hai bên tự thỏa thuận. HĐTT nếu có là tòa án,
thì cũng chỉ là tòa án tư, các lệnh tạm thời có thể có hiệu lực đối với hai bên đương
sự, song khó có lý do để cho các lệnh đó hiệu lực hạn chế quyền của người thứ ba.
19



Ngoài ra, người ta còn băn khoăn rằng lệnh tạm thời còn phải được thi hành. Nếu lệnh
đó do tòa án ban hành, khả năng thực thi sẽ tuân theo các quy định của tố tụng dân sự.
Nếu lệnh đó do HĐTT ban hành, người ta cần sửa các quy định tương ứng về thi hành
án, để đảm bảo lệnh của HĐTT cũng có hiệu lực thi hành tựa như lệnh tòa .

-

Các biện pháp bảo đảm tương đương.

Khoản 1, Điều 120 BLTTDS 2004 và khoản 3, Điều 50 LTT 2010 có hai quy định
tương đối giống nhau, buộc người yêu cầu biện pháp KCTT phải gửi tiền, vàng, đá
quý, giấy tờ có giá hay tài sản khác do HĐTT hoặc tòa án ấn định làm biện pháp bảo
đảm để cơ quan tài phán ra các lệnh tạm thời. Số tiền hay tài sản bảo đảm phải tương
đương nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thi hành lệnh tòa phải thực hiện
hoặc tương ứng giá trị thiệt hại có thể phát sinh do lệnh tạm thời mà HĐTT gây ra khi
được áp dụng.
Sự khó khăn khi thể hiện hai điều luật này cũng xuất hiện trong khoản 1, Điều 1041
BLTTDS Đức khi tòa án trọng tài có quyền yêu cầu mỗi bên nộp một khoản bảo đảm
hợp lý, người ta dùng chữ Angemessene Sicherheit, chứ không dùng chữ tương
đương hay tương ứng như trong luật Việt Nam.
Ví dụ, nếu hai bên tranh chấp về một lô hàng trị giá một tỷ đồng, chắc tòa án sẽ không
giải thích rằng tài sản bảo đảm phải tương ứng với một tỷ đồng, bởi giải thích như vậy
quá bất lợi cho bên yêu cầu biện pháp KCTT, làm chi phí tranh tụng tăng đáng kể, và
trên thực tế sẽ vô hiệu hóa khả năng sử dụng các lệnh tòa tạm thời. Có thể tòa sẽ giải
thích theo hướng nếu các lệnh tòa phong tỏa tài sản bên bị được thực hiện, ví dụ giữ
tàu biển, thì các thiệt hại thực tế có thể ước lượng từ lệnh là căn cứ tính ra khoản bảo
đảm phải nộp tương ứng với các chi phí ấy. Đó có thể là các thiệt hại do tài khoản bị
phong tỏa, các cơ hội bị bỏ lỡ do hàng hóa bị cấm bán, chi phí phát sinh do tài sản
tranh chấp phải bảo tồn, cất trữ. Điều khó khăn khi xác định giá trị bảo đảm này có
thể dự báo trên thực tế sẽ làm các trọng tài viên khá lưỡng lự trước các lệnh tạm thời,

đặc biệt khi lệnh đó liên quan đến những khối tài sản ngày càng lớn.

C. KẾT LUẬN
Trong cơ chế thị trường ngày càng mở, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực thương mại đăc biệt thương mại quôc tế thì làm sao để giải quyết một cách
nhanh chóng, kịp thời, khách quan và ít ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các quốc gia
thì cơ chế trọng tài được coi là hữu hiệu nhất. Ngoài ra, ta cũng không thể phủ nhận
vai trò quan trọng của các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng thương mại, nó
20


giúp cho quá trình giải quyết vụ việc được đảm bảo an toàn khách quan, công minh
tiết kiệm thời gian, chi phí. Cùng với đó, quyền lợi của các bên sẽ tránh được những
hành vi xâm phạm do bên kia hoặc người thứ ba cố tình cản trở quá trình giải quyết
vụ việc. Tóm lại, trọng tài và biện pháp khẩn cấp tạm thời luôn gắn liền và có mối
quan hệ mật thiết với nhau trong tố tụng thương mại nói chung và quốc tế nói riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Bộ luật tố tụng dân sự, số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004.
2. Pháp lệnh Trọng tài thương mại của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 08/2003/PLUBTVQH11 ngày 25 tháng 2 năm 2003 về trọng tài thương mại.
3. Uỷ ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL):
/>4. Luật trọng tài thương mại có hiệu lực ngày 01/01/2011, NXB lao động.
5. Luật mẫu về trọng tài thương mại của liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế
năm 1985.
6. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)
/>7. Th.s Trần Minh Ngọc “Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong trọng tài
thương mại quốc tế”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử ngày 10/3/2009.
8. PGS.TS Phạm Duy Nghĩa “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử - TTPLDS.
21



9.

“Trọng tài thương mại – phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả” ngày
10/2/2009.
10. TS.Nguyễn Bá Diến (chủ biên), Giáo trình Tư pháp quốc tư pháp quốc tế, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001
11. Hà Phương, “Những điểm mới cơ bản của Luật trọng tài thương mại” ngày
9/8/2010.
12. T.S Nguyễn Công Bình (chủ biên), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB
công an nhân dân Hà Nội, 2008.
13. Một vài trang wed trên mạng…

22



×