Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.51 KB, 22 trang )

Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

BLDS:
KDBH:
HĐBH:
DNBH:

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật dân sự
Kinh doanh bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm
MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
B. NỘI DUNG:
1. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con
người.
1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người.
1.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người.
1.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người.
1.4. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm con người.
1.5. Các yếu tố của hợp đồng bảo hiểm con người.
1.6. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm con
người.
2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp
đồng bảo hiểm con người.
2.1. Vài nét đánh giá chung về thị trường bảo hiểm con
người ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp
đồng bảo hiểm con người.


3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người.
3.1. Những bất cập trong luật kinh doanh bảo hiểm về hợp
đồng bảo hiểm con người.
3.2. Kiến nghị và giải pháp.
C. KẾT LUẬN:
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

1

Trang
2
2
2
2
3
5
6
7
9
10
10
11
12
12
18
20



Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Nguồn gốc phát sinh của hoạt động bảo hiểm chính là sự tồn tại của các rủi
ro trong cuộc sống. Thực tế cuộc sống của con người luôn tồn tại rủi ro như
một tất yếu khách quan như thiên tai, dịch bệnh, tại nạn… Mặc dù ngày nay,
khi mà khoa học kỹ thuật đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng để chế ngự
thiên nhiên và hạn chế rủi ro, song con người đã gây ra những rủi ro mới với
tính chất và mức độ rủi ro trầm trọng hơn. Nói một cách khác, rủi ro làm một
người bạn đồng hành đáng lo ngại trong cuộc sống mà dù muốn hay không
con người cũng phải chấp nhận nó.
Đời sống con người ngày càng tăng lên, do đó họ không chỉ muốn đảm
bảo rủi ro cho công việc kinh doanh mà còn muốn đảm bảo cho bản thân, cho
gia đình họ, từ đó bảo hiểm con người ra đời. Bảo hiểm con người giúp mỗi
người khi tham gia ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, tạo ra chỗ dựa
tinh thần để họ an tâm học tập, lao động sản xuất. Trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 2000 – 2010, Đảng và nhà nước ta đã xác định “tổ chức và vận
hành an toàn, hiệu quả thị trường bảo hiểm trong nước, mở rộng quy mô và
phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài”. Bảo hiểm nói
chung, bảo hiểm con người nói riêng đang được sự quan tâm của Đảng, nhà
nước và của toàn xã hội.
Đối với nước ta hiện nay là một nước đang phát triển, vừa là thành viên
của tổ chức Thương mại thể giới (WTO), cùng với việc các nước tăng cường
hợp tác thì việc phát triển kinh tế xã hội là tất yếu và vì vậy, vấn đề bảo hiểm
con người càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
Chính vì những nguyên nhân trên, em quyết định chọn đề tài: “Hợp đồng
bảo hiểm con người theo quy định của pháp luật hiện hành - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”.

B. NỘI DUNG:
1. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người.
1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người.
Trước khi tìm hiểu về HĐBH con người ta phải tìm hiểu thế nào là
HĐBH. Theo Điều 567 BLDS 2005: “HĐBH là sự thỏa thuận giữa các bên
theo đó bên mua bả hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bán bảo hiểm phải
trả một khoản tiền cho bên bảo hiểm khi sảy ra sự kiện bảo hiểm”. Từ khái
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

2


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

niệm này, HĐBH là sự thỏa thuận giữa hai bên chủ thể đó là bên mua bảo
hiểm (người tham gia bảo hiểm) và bên bảo hiểm (DNBH) với điều kiện là
bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm để khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên
bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm.
Khác với BLDS 2005, Luật KDBH 2000 có mở rộng chủ thể trong HĐBH
con người. Theo Điều 12 Luật KDBH thì “HĐBH là sự thỏa thuận giữa bên
mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm theo đó bên mua bảo hiểm phải
đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả phí bảo hiểm cho người
thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm”. Rõ ràng, Luật KDBH không chỉ quy định chung chung là DNBH phải
trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm như BLDS mà chỉ rõ DNBH phải
trả tiền bảo hiểm cho người hưởng thụ hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
HĐBH con người cũng là HĐBH nhưng đối tượng của nó chỉ liên quan

đến tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe, tai nạn con người. Vì vậy, theo em:
“HĐBH con người là sự thỏa thuận giữa bên mau bảo hiểm và DNBH để bảo
hiểm cho tuổi thọ, tính mạng sức khỏe, tai nạn của người tham gia bảo hiểm
hoặc người được chỉ định trong hợp đồng, theo đó bên mua bảo hiểm phải
đóng phí bảo hiểm và DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
1.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người.
1.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh toán có định mức:
Đối tượng của bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe, tai nạn
con người. Đó là những thứ vô giá không thể tính toán được, không thể xác
định được chính xác và trên thực tế không bù đắp nổi. Vì thế, trong HĐBH
con người không tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Nghĩa vụ của DNBH ở
đây là trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng và không phải là trách
nhiệm bồi thường tổn thất mà là giúp đỡ về mặt vật chất cho người được bảo
hiểm. Và cũng chính từ đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được
thành tiền nên số tiền DNBH trả cho khách hàng chỉ có thể là một số tiền
được ấn định sẵn ngay từ khi ký kết hợp đồng. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
bên bảo hiểm sẽ thanh toán cho bên tham gia bảo hiểm và thường không bị
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

3


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

giới hạn bởi nguyên tắc giá trị thiệt hại giống như HĐBH tài sản và HĐBH
trách nhiệm dân sự.
1.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con người không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm

trùng và nguyên tắc thế quyền:
Điều 44 Luật KDBH có nêu “bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo
hiểm giao kết HĐBH với hai DNBH trở lên để bảo hiểm cho một đối tượng
với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm”.
Khoản 2 Điều 44 có quy đinh: tổng số tiền bảo hiểm của các DNBH không
vượt qua giá trị thực tế của tài sản vì thế mà HDBH con người không áp dụng
nguyên tắc này. Và một thực tế là đối tượng HĐBH con người không thể tính
toán được thành tiền nên nếu một người tham gia đồng thời nhiều HĐBH với
nhiều DNBH khác nhau thì họ có quyền nhận đầy đủ các khoản tiền từ các
DNBH đó theo thỏa thuận trong hợp đồng, chứ không bị giới hạn về giá trị
thiệt hại giống như bảo hiểm tài sản.
Trong HĐBH con người cũng không áp dụng nguyên tắc thế quyền. Điều
đó có nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả số tiền bảo hiểm,
không được phép thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bảo hiểm tương
ứng.
1.2.3. Hợp đồng bảo hiểm con người đáp ứng rất nhiều mục đích khác
nhau của người tham gia bảo hiểm:
Trước hết đặc điểm này thể hiện ngay trong các HĐBH, bỏi mỗi đối tượng
của bảo hiểm con người: tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe, tai nạn đều có thể làm
nên một hợp đồng riêng và trong mỗi loại hợp đồng có nhiều sản phẩm khác
nhau ví dụ trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì có bảo hiểm sinh kỳ, tử kỳ,

Không giống như bảo hiểm tài sản chỉ góp phần khắc phục hậu quả khi
đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố, bảo hiểm con người đáp ứng được rất
nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm như HĐBH hưu trí sẽ
đáp ứng yêu cầu tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng. Còn bảo
hiểm tử kỳ sẽ giúp người tham gia bảo hiểm để lại cho gia đình một số
tieenfkhi họ bị tử vong. HĐBH tai nạn con người giúp người tham gia khắc
phục khó khăn khi gặp tai nạn. Chính vì đặc điểm này của HĐBH con người

Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

4


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

làm cho hợp đồng này chiếm khối lượng lớn trên thị trường bảo hiểm, thu hút
nhiều người tham gia.
1.2.4. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm con người rất đa dạng, phức tạp:
Trong HĐBH con người có các sản phẩm bảo hiểm khác nhau rồi mỗi một
hợp đồng có sự khác nhau ở thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm rồi độ tuổi
của người tham gia. Chủ thể trong HĐBH con người có thể có bốn bên tham
gia: Người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người
thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đặc điểm này chỉ có duy nhất trong HĐBH
con người và vì thế làm cho hợp đồng này phức tạp hơn.
1.2.5. Hợp đồng bảo hiểm con người chịu ảnh hưởng của những điều kiện
kinh tế xã hội nhất định:
Khi điều kiện kinh tế xã hội phát triển, áp lực cuộc sống giảm đi, con
người không phải lo cho cuộc sống hàng ngày thì lúc đó họ mới có thể nghĩ
đến bảo hiểm. Ở các nước kinh tế phát triển bảo hiểm nhân thọ là loại hình
chủ yếu của bảo hiểm con người đã ra đời và phát triển rất lâu còn những
nước kém phát triển hoặc đang phát triển thì những hình thức bảo hiểm này
hoặc là chưa có hoặc là mới bắt đầu triển khai. Ngoài ra, bảo hiểm con người
còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác như đường lối chính sách, trình
độ học vấn của người dân…
1.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người:
Theo thời hạn bảo hiểm:

Hợp đồng bảo hiểm con người thường chia làm hai loại:
Hợp đồng bảo hiểm con người ngắn hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó
người tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn ngắn
thường là một năm trở xuống. Người bảo hiểm cam kết thanh toán trợ cấp khi
có các rủi ro bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm.
HĐBH con người dài hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham gia
bảo hiểm cam kết trả phí bảo trong một thời hạn dài thường là trên một năm
cho đến hết đời.
Theo hình thức bảo hiểm:
HĐBH con người được chia ra làm hai loại:
HĐBH con người bắt buộc: Là hợp đồng mà theo pháp luật bắt buộc các
đối tượng phải tham gia ví dụ như bảo hiểm tai nạn hành khách.
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

5


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

HĐBH con người tự nguyện: Là hợp đồng mà theo đó người được bảo
hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm có thể đưa ra rất nhiều nhu cầu bảo hiểm,
còn người bảo hiểm có thể chấp nhận hay không chấp nhận là tuy theo sự
thỏa thuận và cam kết. Tính tự nguyện khiến người bảo hiểm phải phục vụ tốt
hơn, cung cấp các dịch vụ tốt hơn đến khách hàng.
Theo rủi ro bảo hiểm:
HĐBH con người có các loại sau:
HĐBH nhân thọ: Là hợp đồng bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro liên quan
đến tuổi thọ của con người và được chia ra làm các loại sau:

HĐBH tử kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm chết
trong thời hạn thoả thuận thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo
hiểm cho người thụ hưởng.
HĐBH sinh kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm
sống đến hết thời hạn thoả thuận, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng.
HĐBH hỗn hợp: Là loại HĐBH kết hợp cả hai loại nghiệp vụ bảo hiểm đó
là: bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ.
HĐBH phi nhân thọ: Là loại hợp đồng chỉ liên quan đến các rủi ro như
bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động và cả tử vong. Đặc điểm này không
liên quan đến tuổi thọ con người.
1.4. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm con người.
1.4.1. Đối với người tham gia bảo hiểm:
HĐBH con người góp phần ổn định đời sống, là chỗ dựa tinh thần cho
người tham gia cũng như người được hưởng bảo hiểm. Trên bảo Tiền phong
với nhan đề “Bảo hiểm nhân thọ, sự an tâm vô giá” khách hàng cho biết
“nếu có điều kiện chúng ta nên tham gia bảo hiểm nhân thọ bởi lẽ nhu cầu
bảo vệ tài chính cho gia đình là rất cần thiết. Tất nhiên chẳng ai mong đợi
những điều không may xảy ra, nhưng bảo hiểm sẽ mang đến sự an tâm cho
gia đình trước những bất chắc và giảm gánh lo về tài chính những lúc ngặt
nghèo. Đối với tôi sự an tâm là vô giá”. Sự an tâm giúp con người vượt qua
khó khăn, tiếp tục cuộc sống đảm bảo cho tương lai sau này.
1.4.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm:
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

6



Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

Tham gia HĐBH con người góp phần ổn định tài chính và sản xuất cho
doanh nghiệp. Các chủ sử dụng lao động thường mua bảo hiểm sinh mạng
cho người làm công, việc này không những đảm bảo cuộc sống ổn định cho
người lao động mà còn tạo nên sự gắn bó giữa chủ sử dụng và người làm
công ăn lương (đây là điều kiện thúc đẩy sản xuất).
Đối với DNBH, việc tham gia HĐBH con người của khách hàng sẽ góp
phần tăng doanh thu, mở rộng quy mô hoạt động để cung cấp thêm nhiều sản
phẩm cho con người. Đây là yếu tố quyết định sự tồn tại của một doanh
nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh như ngày nay.
1.4.3. Đối với sự phát triển kinh tế:
Thông qua HĐBH con người (có đối tượng tham gia đông đảo) các nhà
bảo hiểm thu phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm. Quỹ này chủ yếu
được sử dụng vào mục đích bồi thường, khi nhàn rỗi nó sẽ là nguồn vốn đầu
tư hữu ích góp phần phát triển kinh tế.
Một đặc điểm nữa của hợp đồng bảo hiểm con người thường là hợp đồng
dài hạn nên số vốn của các công ty bảo hiểm thường rât lớn. Theo một số liệu
điều tra, tính đến năm 2002 toàn nghành bảo hiểm Việt Nam đã đầu tư 8000
tỷ đồng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó nếu chúng ta
nhìn nhận từ khía cạnh con người thì chúng ta không thể phủ nhận rằng con
người là nhân tố phát triển kinh tế. Việc tham gia hợp đồng bảo hiểm con
người giúp cho mỗi người an tâm sản xuất phục vụ cho sự phát triển kinh tế.
Cuối cùng, HĐBH con người là công cụ hữu hiệu để huy động những
nguồn tiền mặt nhàn ở các tầng lớp nhân dân để thực hiện tiết kiệm góp phần
chống lạm phát.
Hợp đồng bảo hiểm con người tạo cơ hội việc làm cho người lao động:
Các DNBH ra đời cung cấp các sản phẩm đến người dân đồng thời tuyển
dụng người lao động vào làm việc. Thực tế hiện nay các DNBH trong nền
kinh tế thị trường đang sử dụng số lượng lớn các đại lý tiếp thị bản sản phẩm.

Theo số liệu thống kê thì ở Mỹ có gần 2 triệu người lao động làm việc trong
nghành bảo hiểm còn ở Việt Nam năm 2002 bảo hiểm thu hút 90.000 lao
động làm việc trong đó bảo hiểm nhân thọ là 74.494 người.
1.5. Các yếu tố của hợp đồng bảo hiểm con người.
1.5.1. Chủ thể.
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

7


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

HDBH con người bao gồm các chủ thể:
Doanhh nghiệp bảo hiểm: Khoản 5 Điều 3 Luật KDBH có khái niệm:
“DNBH là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định
của luật này và các quy định của pháp luật có liên quan để KDBH và tái bảo
hiểm”. Còn theo Đào tạo đại lý bảo hiểm phi nhân thọ của Hiệp hội bảo hiểm
Việt Nam có định nghĩa: “Người bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo hiểm
nhận bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và có trách nhiệm thực hiện đúng các cam
kết, lời hứa với người tham gia bảo hiểm”. Cả hai khái niệm trên đều nhấn
mạnh đến khía cạnh thành lập và hoạt động của DNBH.
Bên mua bảo hiểm: Theo khoản 6 Điều 3 Luật KDBH thì “bên mua bảo
hiểm là các tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp
và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người bảo hiểm
hoặc người hưởng thụ”. Theo Giáo trình đào tạo đại lý bảo hiểm phi nhân thọ
của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam có định nghĩa: “doanh nghiệp người tham
gia bảo hiểm là các tổ chức cá nhân chuyển giao rủi ro cho các doanh nghiệp
bảo hiểm, đóng phí bảo hiểm”. Vì vậy, bên mua bảo hiểm có thể là tổ chức,

cá nhân yêu cầu bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm để đảm bảo cuộc sống hiện
tại cũng như tương lai sau này.
Người được bảo hiểm: Theo khoản 7 Điều 3 Luật KDBH “người được
bảo hiểm là các tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng
được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng
thời là người hưởng thụ”. Với khái niệm trên thì người được bảo hiểm trong
HĐBH con người là chủ thể có tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng.
Người được bảo hiểm có thể là người đã trưởng thành có đủ năng lực chủ thể
để tự ký hợp đồng cho mình và cũng có thể là những người chưa đủ tuổi
thành niên phải do người khác (có thể là cha mẹ hoặc người giám hộ) đứng ra
ký HĐBH.
Người hưởng thụ: Theo khoản 8 Điều 3 Luật KDBH: “Người thụ hưởng
là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm
theo hợp đồng bảo hiểm con người”. Khái niệm này đã khẳng định rõ chủ thể
là người hưởng thụ chỉ có trong HĐBH con người còn HĐBH tài sản hay
HĐBH trách nhiệm dân sự không có chủ thể này. Đê có thể là người hưởng
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

8


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

thị thì điều kiện bắt buộc là phải được bên mua bảo hiểm chỉ định (thể hiện ý
chí chủ quan của bên mua bảo hiểm).
1.5.2. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người.
Theo khoản 1 Điều 31 Luật KDBH có nêu “đối tượng của HĐBH con
người là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe, tai nạn con người”.

Tuổi thọ: người bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm (hoặc người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện bảo
hiểm sảy ra (nếu người được bảo hiểm sống hoặc chết tại một thời điểm nhất
định) và nó liên quan đến tuổi thọ của con người.
Tai nạn: bảo hiểm cho các trường hợp tai nạn xảy ra gây thiệt hại cho con
người, những thiệt hại đó bắt nguồn duy nhất và trực tiếp từ một tai nạn do
vật thể hữu hình tác động từ bên ngoài gây ra và là nguyên nhâ trực tiếp, độc
lập với các nguyên nhân khác dẫn đến tử vong hoặc thương tật. Với đối tượng
này có các loại hình HĐBH con người phổ biến như là bảo hiểm tai nạn con
người 24/24h và bảo hiểm tai nạn hành khách.
Sức khỏe: bảo hiểm khi người tham gia (hay người được bảo hiểm) phải
nghỉ việc do ốm đau, tai nạn mất khả năng lao động (vì lý do ốm đau hoặc tai
nạn hoàn toàn không thể theo đuổi nghề nghiệp ghi trong đơn bảo hiểm và
không thể theo đuổi bất một nghề nào khác).
Tính mạng: Việc bảo hiểm liên quan đến sự sống của con người. Nêu
không thuộc các trường hợp quy định theo khoản 1 Điều 39 Luật KDBH thì
mọi trường hợp khi tử vong đều được nhận tiền bảo hiểm.
Trong các hợp đồng có đối tượng là tuổi thọ, sức khỏe… con người đều đề
cập đến trường hợp nếu xảy ra trường hợp tử vong thì giải quyết qyền lợi như
thế nào. Có quy định như vậy là do tính mạng con người là vô giá không gì có
thể bù đắp thay thế được.
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm con người:
Bảo gồm các điều khoản mà thông qua đó các bên chủ thể thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình. Do HĐBh con người cũng là HĐBH nên theo Điều 13
Luật KDBh nội dung của nó bao gồm các điều khoản chủ yếu: Tên, địa chỉ
của DNBH, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng; Đối tượng của hợp
đồng bảo hiểm con người; Số tiền bảo hiểm; Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo
hiểm, điều khoản bảo hiểm.
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2

Nhóm 1

9


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

Điều 17 và Điều 18 Luật KDBH quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của
DNBH, bên mua bảo hiểm.
1.6. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm con người.
1.6.1. Do HDBH con người cũng là hợp đồng dân sự nên nó phải thỏa mãn
các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự:
Điều kiện về hành vi của chủ thể tham gia: Chủ thể tham gia HĐBH con
người phải có năng lực hành vi dân sự. Đối với bên nhần bảo hiểm phải là tổ
chức có tư cách pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật để
KDBH. Bên tham gia bảo hiểm có thể là cá nhân (điều kiện lớn hơn hoặc
bằng 18 tuổi), hoặc có thể là tổ chức. Nếu cá nhân nhỏ hơn 18 tuổi và không
có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi thì hợp đồng bảo hiểm không có
hiệu lực tại thời điểm giao kết.
Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng: Không vi phạm điều
câm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Và mục đích của các bên thể
hiện trong các điều khoản của hợp đồng vì mục đích nào thì phải có nội dung
phù hợp.
Điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể tham gia bảo hiểm: tự nguyện là
sự thống nhất ý chí bên trong của một chủ thể với hình thức biểu hiện ra bên
ngoài.
Điều kiện về hình thức: Điều 14 Luật KDBH quy định: HĐBH con người
phải được lập thành văn bản.
1.6.2. Ngoài ra để hợp đồng bảo hiểm con người có hiệu lực thì cần phải
thỏa mãn những điều kiện sau:

Theo Điều 22 Luật KDBH quy định 4 trường hơp HDBH vô hiệu. Vậy, để
có hiệu lực thì HDDBH con người có điều kiện là: Bên mua bảo hiểm có
quyền lợi có thể được bảo hiểm; Đối tượng được bảo hiểm phải tồn tại vào
thời điểm giao kết hợp đồng; Tại thời điểm giao kết HĐBH con người, chưa
có sự kiện bảo hiểm xảy ra; Bên mua bảo hiểm hoặc DNBH không được có
hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng.
HĐBH con người vô hiệu khi vi phạm 1 trong 4 điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng nói chung hoặc vi phạm các điều kiện có tính đặc thù của HDDBH
con người nói riêng.
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

10


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm
con người.
2.1. Vài nét đánh giá chung về thị trường bảo hiểm con người ở Việt
Nam hiện nay.
Thị trường bảo hiểm con người vẫn là mới mẻ đối với người dân Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau để tạo nên sự mới mẻ của lĩnh vực bảo hiểm
con người đối với người dân Việt Nam nhưng có một số nguyên nhân chủ yếu
sau đây: Bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ (lĩnh vực chính của bảo
hiểm con người) đã ra đời và tồn tại trong một thời gia dài còn ở Việt Nam
mới được coi trọng và phát triển trên khoảng 10 năm gần đây (từ năm 1993
khi Nghị định 100CP của Chính phủ ra đời). Vì vậy, bảo hiểm con người còn
mới mẻ ở Việt Nam là điều dễ hiểu; Đời sống khó khắn, thu nhập bình quân

trên đầu người thấp khiến con người phải lo cho cuộc sống nhiều hơn; phong
tục tập quán và tâm lý của người dân Việt Nam; hệ thống pháp luật của Việt
Nam về hợp đồng bảo hiểm con người còn chưa đầy đủ.
Thực trạng thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam:
Nghành bảo hiểm nói chung phát triển trong những năm gần đây và doanh
thu của nó đóng góp và GDP tăng dần lên. Năm 1993, doanh thu từ lĩnh vực
bảo hiểm chiếm 0,4% GDP của Việt Nam và vào năm 2005 con số này tăng
lên 1%. Đó là sự phát triển đối với bảo hiểm nói chung, còn riêng đối với lĩnh
vực bảo hiểm con người theo số liệu thống kê thì Việt Nam có trên 6,5 triệu
người mua bảo hiểm nhân thọ; 1,5 triệu người tham gia bảo hiểm học sinh; 5
triệu người mua bảo hiểm con người; có 8 công ty bảo hiểm nhân thọ và các
công ty này cung cấp 100 sản phẩm.
Nhìn vào số liệu trên so sánh với dân số Việt Nam và tốc độ tăng trưởng
kinh tế thì số lượng người tham gia bảo hiểm con người là quá nhỏ. Nhưng
đây là hiện tại, còn tương lai nghành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con
người nói riêng sẽ được cải thiện với số lượng HĐBH con người tăng lên vì
hiểu biết của người dân đã cải thiện. Để có thể đạt được điều này cần có sự cố
gắng của rất nhiều bên và đặc biệt là cần có một hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh, chi tiết.
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo
hiểm con người.
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

11


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2


Sự khó hiểu trong các điều khoản của HĐBH bởi lẽ các DNBH khi soạn
thảo các nội dung của hợp đồng đưa ra rất nhiều các giả định “Nếu… thì…”
vì thực chất là bảo hiểm cho sự kiện xảy ra trong tương lai (nếu có). Không ai
có thể biết trước được sự kiện đó xảy ra hay không. Và nếu trước khi ký kết
hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã biết về sự kiện đó thì HĐBH sẽ bị vô hiệu
do bị lừa dối.
Thực tế có rất nhiều trường hợp khách hàng khi ký kết hợp đồng chưa hiểu
hoặc hiểu chưa hết được các quyền vả nghĩa vụ của mình trong khi các đại lý
với các tư vấn viên muốn ký kết được nhiều hợp đồng với khách hàng thường
nêu lên các quyền với các ưu đãi do ký kết hợp đòng mang lại mà quên di
việc giải thích cho khách hàng các điều khoản có thể ảnh hưởng đến chính
quyền lợi của họ như: điều khoản miễn trách nhiệm, điều khoản giá trị hoàn
lại khi hợp đồng đã có hiệu lực trên 2 năm… Các quy định của pháp luật là
diều kiện để HĐBH con người được thực hiện, tránh tranh chấp xảy ra, tạo
nên một môi trương pháp lý lành mạnh. Nhưng thực trạng áp dụng các quy
định của pháp luật về bảo hiểm con người ở Việt Nam vẫn tạo ra nhiều tranh
chấp. Có rất nhiều các nguyên nhân khác nhau và các nguyên nhân phổ biển
là do DNBH từ chối trả tiền bảo hiểm thiếu căn cứ pháp luật, do bên mua bảo
hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng cố ý gây ra sự kiện bảo
hiểm để nhận tiền bảo hiểm, do sự thiếu hoàn chỉnh trong quy định của pháp
luật. Theo từ điển thuật ngữ luật học: “Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là
tranh chấp giữa các bên trong việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng”.
Vì thế, tranh chấp HĐBH con người là sự xung đột bất đồng ý kiến giữa
DNBH và bên tham gia bảo hiểm trong việc thực hiện các điều khoản của
HĐBH con người.
Những tranh chấp tiêu biểu thường xảy ra xung quanh HĐBH con người:
Tranh chấp phát sinh từ nghĩa vụ cung cấp thông tin của khách hàng; tranh
chấp do việc xác định sự kiện bảo hiểm; tranh chấp do nội dung của hợp đồng
không rõ ràng.
3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp

luật về hợp đồng bảo hiểm con người.
3.1. Những bất cập trong luật kinh doanh bảo hiểm về HĐBH con người.
3.1.1. Về quyền lợi có thể được bảo hiểm:
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

12


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

Theo khoản 9 Điều 3 Luật KDBH: “quyền lợi có thể được bảo hiểm đó là
quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm”.
Thực tế bất cứ người nào cũng có quyền lợi để có thể được bảo hiểm đối với
chính bản thân mình. Những các hợp đồng bảo hiểm không phải lúc nào
người tham gia bảo hiển cũng đồng thời là người được bảo hiểm hặc người
hưởng thụ quyền lợi bảo hiểm, bởi lẽ người tham gia bảo hiểm có thể mua
bảo hiểm cho đối tượng khác. Và vì vậy, nếu chỉ giới hạn quyền lợi có thể bảo
hiểm trong HĐBH con người là quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối
với đối tượng được bảo hiểm theo HĐBH con người mà trên thực tế lại diễn
ra theo một hướng khác. Hiện nay quyền lợi có thể được bảo hiểm khoog chỉ
xác định dựa trên quan hệ hôn nhân, huyêt thống mà nó còn dựa trên các mối
quan hệ khác nữa mà chúng ta sẽ xem xét sau đây.
Theo khoản 2 Điều 31 Luật KDBH đã liệt kê các đối tượng mà bên mua
bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho các đối tượng đó:
“a) Bản thân bên mua bảo hiểm;
b) vợ, chồng, con, cha, mẹ của bê mua bảo hiểm;
c) Anh, chị, em ruột, người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng;
d) Người khác nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi được bảo hiểm”.

Những đối tượng và có quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống với nhau. Luật đã
giới hạn bằng từ “chỉ” có nghĩa là ngoài những đối tượng này ra bên mua bảo
hiểm không thể mua bảo hiểm cho ai khác. Nhưng khi chúng ta tìm hiểu khái
niêm “nuôi dưỡng” và “cấp dưỡng” theo Luật hôn nhân và gia đình thì hai
khái niệm này được quy định ở những trường hợp trái ngược nhau thậm chí
sự tồn tại của khái niệm này sẽ loại trừ khái niệm kia.
Theo khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình thì “cấp dưỡng là việc
một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành
niên, là người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình, là người khó khăn túng thiếu theo quy định của Luật
này”. Còn nuôi dưỡng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình sẽ được
hiểu là giữa những người sống chung với nhau. Luật này đã liệt kê quan hệ
nuôi dưỡng giữa những người trong gia đình với nhau, đó là: quan hệ nuôi
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

13


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

dưỡng giữa cha mẹ và con (Điều 34 và Điều 35); quan hệ nuôi dưỡng giữa
ông bà nội, ông bà ngoại và cháu (Điều 47); quan hệ nuôi dưỡng giữa anh chị
em trong gia đình (Điều 48). Hơn nữa, khoản 2 Điều 50 quy định: “trong
trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc
phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại luật này”.
Từ những khái niệm trên thì hoàn cảnh phát sinh quan hệ nuôi dưỡng và

cấp dưỡng trái ngược nhau. Vậy Luật KDBH quy định mua bảo hiểm cho đối
tượng là người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng như vậy là không hợp lý.
Không chỉ vậy, Luật KDBH quy định quyền lợi có thể được bảo hiểm dựa
trên quan hệ hôn nhân và huyết thống mà khi xem xét việc cấp dưỡng giữa vợ
và chồng theo Luật hôn nhân và gia đình lại được thực hiện khi họ không còn
quan hệ hôn nhân. Khi phát sinh quan hệ cấp dưỡng cũng đòng nghĩa với việc
quan hệ hôn nhân đã chấm dứt và vì thế quyền lợi được bảo hiểm không còn
nêu trong quy định của Luật KDBH trong trường hợp này cũng không hợp lý.
Quy định này chỉ đúng khi đó là mối quan hệ cấp dưỡng giữa ông bà và cháu
hoặc anh, chị, em trong gia đình.
3.1.2. Về hành vi thông báo sai tuổi của bên mua bảo hiểm đối với người
được bảo hiểm:
Theo khoản 2 Điều 34 Luật KDBH: “trong trường hợp bên mua bảo hiểm
thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm nhưng tuổi đúng của người được
bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo
hiểm có thể huy bỏ hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số tiền bảo hiểm đã đóng
cho bên mua bảo hiểm sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý liên quan. Trong
trường hợp HĐBH có hiệu lực từ hai năm trở lên thì doanh nghiệp bảo hiểm
phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm”.
Các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm là các điều khoản mẫu nên các
điều khoản này do một bên đưa ra (DNBH) theo đó bên mua bảo hiểm xem
xét quyết định có tham gia hay không. Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi của hai
bên điểm b khoản 2 Điều 18 Luật KDBH quy định “bên mua bảo hiểm có
nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng
bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”. Hơn thế nữa một nguyên
tắc khi giao kết hợp đồng là “trung thực tuyệt đối” nên đòi hỏi thông tin từ
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1


14


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

bên mua bảo hiểm phải chính xác và bên bảo hiểm hoàn toàn tin tưởng vào
thông tin đó.
Theo khoản 2 Điều 34 Luật KDBH nếu bên mua bảo hiểm thông báo sai
tuổi của người được bảo hiểm mà tuổi đúng của người được bảo hiểm không
thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền
huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số phí sau khi trừ các chi phí liên quan
nếu hợp đồng có hiệu lực dưới hai năm. Nếu hợp đồng có hiệu lực trên hai
năm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại
của hợp đồng.
Xem xét hành vi huỷ bỏ hợp đồng theo Điều 425 Bộ luật dân sự 2005 thì
hậu quả là:
1. Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại
khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận
hoặc pháp luật có quy định.
2. Bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ
bỏ hợp đồng, nếu không thông báo ngay mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
3. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực tại thời điểm
giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn
trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền.
4. Bên có lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Bộ luật dân sự là luật gốc nên các quy định của luật chuyên ngành phải
phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật này. Nếu quy định của luật chuyên
ngành và bộ luật dân sự cùng điều chỉnh một vấn đề thì ưu tiên áp dụng luật
chuyên ngành. Khoản 1 Điều 2 Luật KDBH quy định: “tổ chức và hoạt động
kinh doanh bảo hiểm trên lãnh thổ cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải

tuân thủ quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan”. Vậy trong trường hợp huỷ bỏ hợp đồng này sẽ áp dụng quy định của
Luật KDBH. Trở lại với quy định của khoản 2 Điều 34 Luật KDBH với mục
đích quy định là đảm bảo quyền lợi cho khách hàng (khi được nhận giá trị
hoàn lại) nhưng thực tế quy định như vậy tạo điều kiện cho khách hàng thực
hiện hành vi thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm để giao kết hợp
đồng vì hậu quả pháp lý của hành vi này là khách hàng vẫn được nhận một số
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

15


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

tiền sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan hoặc nhận giá trị hoàn lại của hợp
đồng.
3.1.3. Về hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp
đồng của bên mua bảo hiểm
Theo điểm a khoản 2 Điều 19 Luật KDBH “doanh nghiệp bảo hiểm có
quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm
đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có
hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm
để được trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường”.
Hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật là hành vi của một bên nhằm
làm cho người nghe tin vào thông tin đó và thực chất đó là hành vi lừa dối của
một bên. Điều 132 Bộ luật dân sự 2005: “lừa dối trong giao dịch dân sự là
hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai
lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự

nên đã xác lập nên giao dịch đó”. Cũng theo quy định của bộ luật dân sự thì
hành vi lừa dối sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu nhưng luật kinh doanh bảo hiểm
quy định hai hậu quả pháp lý khác nhau đó là doanh nghiệp bảo hiểm có
quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm (điểm a khoản 2
Điều 19) và hợp đồng bảo hiểm vô hiệu (điểm d khoản 1 Điều 22).
3.1.4. Về điều khoản hợp đồng bảo hiểm con người
Do tập điều khoản HĐBH con người có nhiều điểm tối nghĩa khiến cho
khách hàng có thể hiểu sai: Trước hết đó là điều khoản buộc người mua bảo
hiểm phải tự suy luận ra hai điều:
Thứ nhất, nếu bên mua bảo hiểm không tiếp tục đóng phí bảo hiểm thì
công ty bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và bên
mua bảo hiểm không có quyền đòi lại khoản phí bảo hiểm nếu thời gian đã
đóng phí bảo hiểm dưới hai năm.
Thứ hai, nếu thời gian đóng phí bảo hiểm trên hai năm thì bên mua bảo
hiểm có quyền đòi giá trị hoàn lại ( giá trị giải ước) của hợp đồng bảo hiểm.
Việc quy định như vậy khiến người mua rất dễ hiểu rằng mọi trường hợp
nếu không tiếp tục đóng phí bảo hiểm thì đều được nhận giá trị hoàn lại.
Không chỉ những thế Luật KDBH và các văn bản hướng dẫn thi hành đều
không đưa ra khái niệm thế nào là “giá trị hoàn lại” nên dẫn đến nhiều cách
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

16


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

hiểu khác nhau. Việc hiểu như thế nào là giá trị hoàn lại dựa trên các khái
niệm mà các doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra “giá trị hoàn lại là số tiền bên

mua bảo hiểm được nhận lại khi bên mua bảo hiểm yêu cầu huỷ hợp đồng
hoặc khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo điều khoản và điều kiện hợp
đồng”. Khái niệm này còn quá chung chung vì chỉ dừng lại ở việc quy định
bên mua bảo hiểm được nhận lại một số tiền khi yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc
khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo điều khoản và điều kiện hợp đồng mà
không hề quy định giá trị số tiền hoàn lại là bao nhiêu hoặc ngoài diều kiện
trên thì có cần điều kiện nào khác không hay mọi trường hợp yêu cầu huỷ hợp
đồng và hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo điều khoản và điều kiện của hợp
đồng? Theo sự giải thích mà Prudential đưa ra: “trong những năm đầu do các
chi phí liên quan đến việc phát hành và phục vụ hợp đồng như chi phí thẩm
định, chi phí xét nghiệm y khoa… lớn hơn nhiều so với chi phí duy trì hợp
đồng về sau. Trong khi đó, phí bảo hiểm mà khách hàng đóng vào hàng năm
là không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng. Có nghĩa là chi phí thực tế
trong những năm đầu của HĐBH thường cao hơn nhiều so với chi phí thu
được từ hợp đồng đó. Vì thế trong hai năm đầu các HĐBH chưa có giá trị
hoàn lại và trong những năm tiếp theo giá trị hoàn lại thường nhỏ hơn so với
số phí đóng vào”. Vậy trong hai năm đầu nếu bên mua bảo hiểm vì lý do nào
đó không thể tiếp tục đóng phí bảo hiểm thì quyền lợi của họ sẽ không được
bảo vệ vì họ có thể không nhận được giá trị hoàn lại hoặc nếu có nhận được
thì đó là số tiền ít hơn. Đó là điểm bất lợi đối với khách hàng mà khi tham gia
ký kết hợp đồng khách hàng phải biết được để bảo vệ quyền lợi cho mình.
3.1.5. Về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
Theo khoản 1 Điều 16 Luật KDBH quy định: “ điều khoản loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi
thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Tiếp
đó khoản 3 Điều 16 luật này quy định: “không áp dụng điều loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm trong trường hợp:
Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do cố ý;
Bên mua bảo hiểm có lí do chính đáng trong việc chậm thông báo cho
doanh nghiệp về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Điều khoản này nhằm mục

đích cho phép doanh nghiệp từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường trong
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

17


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

trường hợp bên mua bảo hiểm có hành vi trục lợi. Hay nói cách khác DNBH
không phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm khi chứng minh được khách hàng đã
lừa dối mình để thu lợi bất chính từ việc mua bảo hiểm. Điều khoản này chỉ
đúng với bảo hiểm tài sản hay bảo hiểm trách nhiệm dân sự, đối với hợp đồng
bảo hiểm con người chỉ đúng khi bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm,
người thụ hưởng trùng là một. Nhưng nếu bên mua bảo hiểm không đồng thời
là người được bảo hiểm hay người thụ hưởng thì quy định trên về điều khoản
loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là chưa đầy đủ. Bởi lẽ không chỉ do bên mua
bảo hiểm vi phạm pháp luật do cố ý để tạo ra sự kiện bảo hiểm mà còn có thể
do bên được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
3.2. Kiến nghị và giải pháp
Những kiến nghị, giải pháp tác giả đưa ra nhằm mục đích đảm bảo quyền
lợi của hai bên, để giữ vững niềm tin của người dân vào pháp luật, đặc biệt là
đảm bảo vận hành có hiệu quả hệ thống pháp luật của nhà nước vì vậy:
3.2.1. Cần sửa đổi những điểm bất hợp lý của luật kinh doanh bảo hiểm
cho phù hợp với nhu cầu thực tế.
Thứ nhất: bổ sung vào khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm trong
hợp đồng bảo hiểm con người để mở rộng hơn nữa phạm vi đối tượng tham
gia trong thực tế. Quyền lợi này không chỉ dừng lại ở quyền, nghĩa vụ nuôi
dưỡng, cấp dưỡng trong quan hệ hôn nhân huyết thống mà còn bao gồm cả

quan hệ lao động. Theo đó nên bổ sung thêm vào khoản 2 Điều 31 Luật
KDBH đối tượng được bảo hiểm nữa đó là người lao động trong quan hệ
trách nhiệm dân sự của người sử dụng lao động đối với người lao động.
Thứ hai: Đối với trường hợp thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm
nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể
được bảo hiểm thì nên quy định hậu quả pháp lý cho phù hợp với bản chất
huỷ bỏ hợp đồng và có thể hạn chế tối đa hành vi trục lợi của khách hàng.
Thứ ba: Đối với hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết
hợp đồng thì chỉ cần xác định rõ là hành vi lừa dối để quy định hậu quả pháp
lý cho hành vi này là HĐBH vô hiệu theo điểm d khoản 1 Điều 22. Có như
vậy mới thống nhất được trong việc áp dụng luật.
Thứ tư: Nên sử dụng các ngôn từ trong điều khoản hợp đồng bảo hiểm
cho phù hợp để đảm bảo dễ hiểu mà người dân có thể dễ dàng tiếp cận hơn.
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

18


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

Thứ năm: Trong việc quy định điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
nên bổ sung thêm trường hợp người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng vi
phạm pháp luật do cố ý. Theo đó nên bổ sung vào khoản 3 Điều 16 Luật
KDBH là: không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong
trường hợp:
a) Bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng vi
phạm pháp luật do lỗi cố ý;
b) Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho

doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.
3.2.2. Cần có những biện pháp cụ thể từ doanh nghiệp bảo hiểm, người
tham gia bảo hiểm và đặc biệt là chính sách của nhà nước.
Để hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm con người nói
riêng được thực hiện một cách thuận lợi và rộng rãi trên thực tế đòi hỏi phải
có sự cố gắng thực hiện của cả hai bên ký kêt và đặc biệt hơn nữa là của nhà
nước và toàn xã hội. Bởi ngành bảo hiểm chịu tác động của tổng hợp nhiều
yếu tố, tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đối với người mua bảo hiểm: Phải chủ động tiếp cận và nâng cao trình
độ hiểu hiểu biết của mình về pháp luật nói chung và pháp luật bảo hiểm nói
riêng. Xuất phát từ tính khó hiểu của các điều khoản của HĐBH con người
nên khi ký kết người tham gia bảo hiểm phải thực sự hiểu rõ các điều khoản
về quyền và nghĩa vụ của mình để tránh tranh chấp sau này xảy ra. Người
mua bảo hiểm có thể yêu cầu DNBH giải thích rõ các điều khoản hợp đồng,
đòi hỏi các đại lý bảo hiểm tư vấn cho mình hoặc sử dụng các dịch vụ tư vấn
của các tổ chức tư vấn.
Và một điểm nữa đó là theo quy định của pháp luật nếu như có sự không
rõ ràng trong các điều khoản của HĐBH thì giải thích theo hướng có lợi cho
người mua bảo hiểm (theo Điều 21 Luật KDBH) vì nội dung HĐBH con
người theo điều khoản mẫu do DNBH đưa ra, về nguyên tắc bên mua bảo
hiểm không sửa đổi hay bổ sung điều khoản đó. Người mua bảo hiểm phải
tìm hiểu kỹ các quy định để bảo vệ quyền lợi của mình.
Ngoài ra người mua bảo hiểm cần lựa chọn các đối tượng của hợp đồng
bảo hiểm con người (tuổi thọ, tính mạng sức khoẻ, tai nạn con người) phù hợp
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

19



Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

với điều kiện và khả năng của mình để có thể duy trì hợp đồng trong một thời
gian dài.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm: DNBH phải phát triển hệ thống đại lý
bảo hiểm với đội ngũ nhân viên có trình độ, đạo đức nghề nghiệp, tận tâm với
khách hàng. Thực tế để theo đuổi số lượng hợp đồng được ký kết các nhân
viên đại lý nhiều lúc “vô tình” đã bỏ qua quyền lợi của khách hàng. Ngày nay
khi hội nhập kinh tế quốc tế với sự cạnh tranh gay gắt nếu không giữ vững
được đạo đức nghề nghiệp thì đại lý bảo hiểm sẽ dễ bị cuốn theo vòng xoáy
của sự phát triển mà quên đi cái gì là thực sự cần thiết để đảm bảo môi trường
pháp luật lành mạnh. Vì thế doanh nghiệp bảo hiểm cần đào tạo những người
có trình độ và đạo đức nghề nghiệp. Hơn thế nữa DNBH cần thiết lập nhiều
kênh thông tin đối với khách hàng, việc đó sẽ vừa cung cấp thông tin cho
khách, vừa thu hút được họ đến với doanh nghiệp mình. Để đạt được điều đó
doanh nghiệp bảo hiểm phải nâng cao chất lượng dịch vụ, phục vụ khách
hàng tốt nhất để phát triển và đặc biệt là kịp thời giải quyết quyền lợi cho
khách hàng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Làm như thế vừa đảm bảo được mục
đích của bảo hiểm, vừa tạo niềm tin cho khách hàng.
Đối với nhà nước: Nhà nước sớm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật
về hợp đồng nói chung HĐBH con người nói riêng để đáp ứng nhu cầu tham
gia ngày càng đông của người dân
Từ năm 1993 đến nay sự phát triển của bảo hiểm là một điều đáng ghi
nhận nhưng pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này không nhiều. Luật kinh
doanh bảo hiểm 2000 và quy định xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm được quy định tại nghị định 118/2003/NĐCP ngày
12/10/2003 còn có những điểm bất cập. Vì thế cần thiết phải ban hành văn
bản sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp với thực tế và phù hợp với quy
định của Bộ luật dân sự 2005. Ngoài ra phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền

giáo dục pháp luật về bảo hiểm con người để người dân hiểu rõ quyền, nghĩa
vụ của mình. Khi hệ thống pháp luật đã hoàn chỉnh mà người dân không tiếp
cận, không hiểu được thì tác dụng của pháp luật đối với người dân sẽ không
được thể hiện. Biện pháp để tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo hiểm con
người đó là trên các phương tiện thông tin đại chúng để đại đa số người dân
nắm được.
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

20


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

Hơn thế nữa phải tăng cường chất lượng giải quyết tranh chấp về HĐBH.
Tranh chấp trong lĩnh vực này có thể do DNBH không thực hiện đúng nội
dung của hợp đồng cũng có thể do bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng nhằm
trục lợi bảo hiểm và có thể do sự thiếu hoàn chỉnh của pháp luật. Không chỉ
riêng lĩnh vực bảo hiểm mà tranh chấp trong lĩnh vực nào đều gây ảnh hưởng
đến giá trị của pháp luật. Thực tế có nhiều vụ tranh chấp toà án xử vẫn còn
không đúng với bản chất của vụ việc. Vì lẽ đó để đảm bảo giải quyết tranh
chấp hợp lý công bằng thì phải nâng cao trình độ, bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm
phán trong lĩnh vực này.
Cuối cùng nhà nước phải có đường lối chính sách cụ thể để phát triển thị
trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng lúc đó mới có thể
khuyến khích mọi người dân tham gia để bảo vệ mình và cũng là đảm bảo sự
tồn tại của xã hội.
C. KẾT LUẬN:
Từ vấn đề lý luận của bài viết chúng ta thấy được bảo hiểm con người

luôn gắn liền với xã hội loài người vì bảo hiểm sẽ giúp người tham gia có một
chỗ dựa tinh thần, sự đảm bảo về vật chất để duy trì cuộc sống, phát triển xã
hội. Đối với Việt Nam hiện nay khi bảo hiểm con người còn “mới mẻ” đối
với người dân thì càng phải tạo điều kiện hơn nữa để lĩnh vực này đi vào cuộc
sống, phát huy tác dụng đối với cuộc sống con người. Một xã hội phát triển
thì cần có những con người tạo lập và duy trì sự phát triển. Đó như là một quy
luật tất yếu của tự nhiên.
Từ thực tiễn nghiên cứu người viết đã chỉ ra những tranh chấp phát sinh từ
HĐBH con người trên thực tế. Những tranh chấp này do rất nhiều nguyên
nhân khác nhau, nhưng dù là bất kỳ nguyên nhân nào đi nữa thì những tranh
chấp xảy ra đều ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của xã hội và là nguyên nhân
kìm hãm sự phát triển.
Vậy để có một thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói
riêng phát triển thì cần có sự đóng góp của từng người dân, của nhà nước và
của toàn xã hội. Bên cạnh đó cần có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cùng các
quy định cụ thể, chi tiết để mỗi người tham gia ký kết, mỗi doanh nghiệp thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Có như vậy thì tương lai của ngành
Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

21


Bài tập lớn môn Luật Dân sự Modul 2

này mới đảm bảo được ý nghĩa đích thực của nó đối với con người và xã hội
loài người.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự 2005.

2. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
4. Lê Đình Nghị (chủ biển), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2,
NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2009.
5. ThS. Trần Vũ Hải, Bảo hiểm nhân thọ những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, 2005.
6. PGS, TS. Nguyễn Văn Định, Giáo trình Bảo hiểm, Nxb. Đại học Kinh
tế quốc dân, Hà Nội, 2008.
7. TS. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và pháp luật kinh doanh bảo hiểm ở
Việt Nam, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2007.
8. http://www. avi.org.vn.
9.
10.

Nguyễn Thùy Dung – 340327
Lớp N08 – TL2
Nhóm 1

22



×