Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Xác định quyền và nghĩa vụ về tài sản đối với trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc sống chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.27 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU

Hơn nhân là cơ sở để hình thành gia đình – tế bào của xã hội. Pháp luật và nhà
nước ta đã có quy định về hơn nhân và gia đình trong đó đã ghi nhận hai bên nam
nữ là vợ chồng khi họ đã đăng kí kết hơn theo quy định. Tuy nhiên trong thực tế
hiện nay, tình trạng “các bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà khơng đăng kí
kết hơn” diễn ra khá phổ biến. Theo quy định của pháp luật, nam nữ không chung
sống như vợ chồng mà khơng đăng kí kết hơn thì không được công nhân là vợ
chồng. Tuy nhiên, việc chung sống này, trong thực tế đã phát sinh nhiều vấn đề
phức tạp về quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản khi họ mong muốn chấm dứt
việc sống chung. Vì vậy, để làm rõ thêm vấn đề này, em xin được trình bày trong
bài tập lớn học kỳ mơn Luật hơn nhân và gia đình vấn đề: Xác định quyền và
nghĩa vụ về tài sản đối với trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc sống chung.

1


I. Cơ sở lí luận về nam nữ chung sống như vợ chồng
1. Khái niệm
Hiện nay tình trạng “nam nữ chung sống như vợ chồng” đang diễn ở nước ta ngày
càng phổ biến và có xu hướng phức tạp cả về số lượng cũng như về tính chất của
quan hệ.
Trong xã hội hiện nay, tồn tại nhiều cách hiểu về “nam nữ chung sống như vợ
chồng”. Theo quy định tại Điểm d mục 2 Thơng tư liên tịch của Tịa án TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 03 tháng 01 năm 2001 thì được coi là “nam nữ chung sống
như vợ chồng” khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau được gia đình (1 trong 2 bên)
chấp nhận.
- Việc nam nữ về chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây
dựng gia đình.
Do đó, dưới góc độ pháp lý thì:


“Nam nữ chung sống như vợ chồng” là trường hợp nam nữ có đủ điều kiện kết hơn
theo quy định của pháp luật nhưng không đăng ký kết hôn. Về nguyên tắc, pháp
luật không công nhận trường hợp này là vợ chồng. Tuy nhiên trên thực tế, các bên
nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng vẫn thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng với nhau, với gia đình và với xã hội.
2. Quy định của pháp luật hiện hành về việc sống chung như vợ chồng:
Theo điều 11 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“Việc kết hơn phải được đăng kí và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này:
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định của điều 14 luật này đều khơng có giá
trị pháp lý.
2


Nam nữ khơng đăng kí kết hơn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì khơng
được cơng nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn”.
Tuy nhiên cũng phải nhận thấy rằng có những trường hợp quan hệ hôn nhân được
xác lập từ ngày trước ngày luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực pháp
luật bởi vậy những vấn đề trong việc “chung sống như vợ chồng” phát sinh là một
việc đáng chú ý, bao gồm các trường hợp sau:
- Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 vi phạm thủ
tục đăng ký kết hôn sẽ không bị “buộc” phải đăng ký kết hơn thì được khuyến
khích kết hơn. Và theo Điều 1, Điều 2 Nghị định số 77/CP trường hợp này được
nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho kết hôn (việc đăng ký kết hôn của họ
không bị hạn chế về mặt thời gian, họ được miễn phí lệ phí đăng ký kết hơn).
Trường hợp có u cầu li hơn thì tịa án thụ lí việc li hơn. Điều đó cũng có thể
được hiểu là chúng ta chấp nhận “quan hệ hôn nhân thực tế” đối với những trường
hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987.
- Một trường hợp khác đó là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày

3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hơn theo luật hơn nhân và gia
đình 2000 thì có nghĩa vụ đi đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật
hơn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2003. Kể từ ngày
1/1/2003 mà họ mới đăng ký kết hôn quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ
ngày đăng kí kết hôn.
- Trường hợp nam và nữ chung sống như vợ chồng kể từ ngày 1/1/2001 trở đi (trừ
hai trường hợp trên).
II. Quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản của các bên nam nữ chung sống
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc
sống chung.
3


Từ những phân tích ở trên có thể thấy, có rất nhiều vần đề đối với trường hợp nam
nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn muốn chấm dứt việc sống
chung. Khi xử lí các tranh chấp tòa án cần phân biệt các trường hợp nam nữ chung
sống trước và sau ngày luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực để có quyết
định đúng đắn. Với tinh thần này, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của
Quốc hội về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP
ngày 22/10/2001 của chính phủ quy định chi tiết về việc đăng ký kết hôn theo Nghị
quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật hơn nhân và gia đình
và Thơng tư liên tịch của Tòa án nhân nhân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ tư pháp số 01/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 3/1/2001
đã có những hướng dẫn củ thể về việc giải quyết mặt pháp luật đối với những
trường hợp vi phạm đăng ký kết hôn từ trước ngày 01/01/2001 như sau:
- Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm
1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng kí kết
hơn thì được khuyến khích đăng kí kết hơn; trong trường hợp có u cầu li hơn thì
được Tịa án thụ lý giải quyết theo quy định về li hôn của Luật hơn nhân và gia
đình năm 2000;

- Nam và nữ sống chung với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987
đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của
Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật
này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ
không đăng ký kết hơn, nhưng có u cầu ly hơn thì tịa án áp dụng các quy định
về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hơn thì pháp luật
khơng cơng nhận họ là vợ chồng;
- Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và
điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu
4


có u cầu về con và tài sản thì Tịa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của
Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Do đó, ta có thể xác định quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của nam nữ
chung sống như vợ chồng mà khơng đăng kí kết hơn mà muốn chấm dứt việc sống
chung theo ba khoảng thời gian như sau:
1. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987,
ngày mà luật hôn nhân và gia đình năm 1987 có hiệu lực.
Với trường hợp này, pháp luật vẫn công nhận họ là vợ chồng hợp pháp, dó đó khi
họ muốn chấm dứt việc sống chung, về quan hệ nhân thân, Tòa án sẽ tuyên bố
chấm dứt quan hệ vợ chống, hai bên chấm dứt việc sống chung. Về quan hệ tài
sản, Tòa án sẽ giải quyết như trường hợp li hôn thông thường. Nguyên tắc chia tài
sản khi ly hôn được áp dụng theo Điều 95 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000:
“1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu khơng thỏa thuận được
thì u cầu Tịa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của
bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo nguyên tắc sau đây:

a. Tài sản chung của vợ chồng vể nguyên tắc được chia đơi, nhưng có xem xét
hồn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, cơng sức đóng góp của mỗi bên vào việc
tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lào động của vợ, chồng trong gia đình được
coi như lao động có thu nhập.
b. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên
bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng lao động và khơng có
tài sản để tự ni mình.
c. Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh và nghề nghiệp
để các bên có điều kiện để tiếp tục lao động tạo thu nhập.
5


d. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào
phần tài sản bằng hiện vật lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho
bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa
thuận; nếu không thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải quyết.
Bên cạnh đó, trong trường hợp này khi nam nữ muốn chấm dứt việc sống chung
vẫn được tòa án giải quyết như trường hợp li hôn thông thường nên vấn đề về
quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được đặt ra. Điều 60 Luật hơn nhân và gia đình
năm 2000 quy định: “Khi li hơn, nếu một bên khó khăn túng thiếu có u cầu cấp
dưỡng mà có lí do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của
mình”.
- Về quan hệ nhân thân: Tịa án tun bố hai bên chấm dứt quan hệ vợ chồng và
chấm dứt việc sống chung. Nếu có con chung Tịa án căn cứ vào điều 92 Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết:
“1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trơng nom. Chăm sóc giáo dục, nuôi
dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật hoặc mất năng lực hành vi
dân sự, không có khả năng lao động và khơng có tài sản đê tự ni mình.
Người khơng trực tiếp ni con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

2. Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên sau khi li hôn đối với con; nếu khơng thỏa thuận được thì Tịa án quyết định
giao con cho 1 bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu
con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuối, nếu các bên
khơng có thỏa thuận khác”.
6


2. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến
ngày 01/01/2001 khơng đăng kí kết hơn mà muốn chấm dứt việc sống chung
thì giải quyết như sau:
Nếu có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình năm
2000 trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có
hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003 (được gia hạn thêm đến tháng 01/08/2003) mà
không đăng ký kết hơn nhưng có u cầu li hơn thì tịa án áp dụng các quy định về
ly hôn để giải quyết. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hơn thì
pháp luật khơng cơng nhận họ là vợ chồng, khi có yêu cầu tranh chấp về tài sản thì
khơng được giải quyết như trường hợp li hơn.
-Về quan hệ tài sản
Nếu các bên yêu cầu giải quyết về vấn đề tài sản, Tòa án áp dụng khoản 3 điều 17
Luật Hơn nhân gia đình năm 2000 để giải quyết như sau: “Tài sản được giải quyết
theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc sở hữu của người đó; tài sản
chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu khơng thỏa thuận được thì u
cầu tịa án giải quyết, có tính đến cơng sức của các bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi
chính đáng của phụ nữ và con”.
- Về quan hệ nhân thân
Tòa án sẽ tuyên bố hai bên không phải là vợ chồng, kể từ đó hai bên phải chấm dứt
việc sống chung.
Đối với con chung, tòa án áp dụng khoản 2 Điều 17 Luật hơn nhân và gia đình năm

2000 để giải quyết. Củ thể, quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha
mẹ li hơn. Theo đó nếu xác lập quan hệ vợ chồng mà không đăng ký kết hơn thì
quyền lợi của các con cũng được Pháp luật bảo vệ như trường hợp cha mẹ li hôn.
7


3. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng kể từ ngày 01/01/2001 trở đi
(trừ hai trường hợp trên).
Trong trường hợp này khi muốn chấm dứt việc sống chung, pháp luật sẽ không giải
quyết như trường hợp vợ chồng muốn li hơn vì trường hợp này hai bên nam nữ
không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
- Quan hệ tài sản:
Khi muốn chấm dứt việc sống chung, có tranh chấp về tài sản tòa án sẽ giải quyết
theo khoản 3 điều 17. Giữa họ không phát sinh quan hệ vợ chồng vì vậy tài sản mà
họ tạo ra trong thời gian chung sống không phải là tài sản thuộc sở hữu chung hợp
nhất của vợ chồng. Tài sản chung (nếu có) được chia theo thỏa thuận của các bên,
nếu khơng thỏa thuận được thì tịa án quyết định chia trên cơ sở cơng sức đóng góp
của mỗi bên trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, tài sản riêng của ai
thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó. Tuy nhiên người có tài sản riêng phải có
nghĩa vụ chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mình. Nếu họ khơng chứng
minh được thì tài sản đó được xác định là tài sản chung.
Khi chia tài sản chung cần ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
- Quan hệ nhân thân: Về nguyên tắc hai người sống chung như vợ chồng trong
trường hợp này không được pháp luật cơng nhận là vợ chồng. Do đó, giữa họ chưa
từng phát sinh quan hệ vợ chồng. Do đó khi hai bên đã muốn chấm dứt sống chung
thì tịa án tun bố hai bên không phải là vợ chồng và phải chấm dứt việc sống
chung.
Nếu có con chung thì Tịa án giải quyết theo điều 17 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000.


8


Như vậy, việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ phát
sinh nhiều vấn đề khi hai bên muốn chấm dứt việc sống chung. Khi giải quyết các
tranh chấp tòa án cần phân biệt và xác định các trường hợp với các khoảng thời
gian tương ứng để giải quyết một cách chính xác và hợp lí nhất.
III. Thực trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
ở Việt Nam hiện nay.
1. Thực trạng nam nữ sống chung như vợ chồng trước khi luật hơn nhân và
gia đình năm 2000 có hiệu lực
Theo kết quả điều tra 8 năm thực hiện Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 do Bộ
tư pháp tiến hành và số liệu điều tra của các cơ quan chức năng có liên quan cho
thấy thực trạng chung sống như vợ chồng khơng có đăng kư kết hôn ở nước ta đã
trở thành một hiện tượng xă hội khá phổ biến và hiện ngày càng có xu hướng phát
triển phức tạp cả về số lượng và tính chất quan hệ. Theo Báo cáo tổng kết 8 năm
thi hành Luật HN&GĐ năm 1986, số liệu đă thống kê được như sau:
- Số lượng cặp vợ chồng chung sống không đăng kư kết hôn nhiều nhất ở hai dân
tộc H’mơng và Dao tại Lào Cai, có tới 90% trên tổng số cặp vợ chồng khơng đăng
kí.
- Tại An Giang, Hà Tây, một số xă vùng sâu của tỉnh Tiền Giang có tỉ lệ nam nữ
chung sống khá cao, chiếm khoảng 50% trên tổng số các cặp vợ chồng.
- Tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1986 đến tháng 06/1995 ước tính có khoảng
12.712 đơi vợ chồng chung sống với nhau sau đó mới đi đăng kư kết hơn. Có
khoảng 10.418 trường hợp chung sống như vợ chồng mà không đăng kư kết hôn.
- Tại tỉnh Kiên Giang có khoảng 12.285 trường hợp chung sống như vợ chồng.

9



- Tại tỉnh Long An có khoảng 9.514 cặp vợ chồng khơng đăng kí kết hơn mà sống
chung như vợ chồng.
Trên đây là một vài con số minh họa cho tình trạng nam, nữ chung sống như vợ
chồng mà khơng đăng kí kết hơn trong giai đoạn trước năm 2000, khi Luật Hơn
nhân và gia đình có hiệu lực. Chắc rằng, trong thực tế cịn có rất nhiều những
trường hợp khác chưa được rà sốt tới. Điều đó cho thấy tình trạng chung sống như
vợ chồng mà khơng đăng kí kết hơn có xu hướng tăng nhanh về số lượng, phức tạp
về hình thức biểu hiện của mối quan hệ. Đồng thời, khơng phân biệt về vị trí địa lí
và không gian lănh thổ, số lượng tăng mạnh mẽ diễn ra ở hầu khắp các địa phương,
tỉnh thành.
2. Thực trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn giai

đoạn từ năm 2000 đến nay.
Theo một vài số liệu thống kê: ở Lào Cai có tới 90% các cặp vợ chồng chung sống
với nhau mà không đăng kí kết hơn; ở Điện Biên, con số của Sở Tư pháp Điện
Biên đưa ra là 35.022 cặp hôn nhân thực tế, 8000 cặp khơng đăng kí hoặc khơng
đủ điều kiện đăng kí kết hơn, tỉ lệ khơng đăng kí kết hơn tính trung bình là 19% ; ở
Hải Phịng tính đến năm 2003 thì tỉ lệ này là 3,7% …
Việc điều tra tình trạng chung sống như vợ chồng ở mỗi tỉnh để tìm ra được một
con số chính xác tỉ lệ các trường hợp chưa tiến hành thủ tục đăng kí kết hơn có thể
được coi là bất khả thi, bởi chỉ tới khi các bên có mâu thuẫn và u cầu Tịa án giải
quyết thì lúc đó quan hệ chung sống như vợ chồng của họ mới thực sự được làm
rõ. Thiết nghĩ, vấn đề về thủ tục, trình tự, thẩm quyền và cách thức tiến hành đăng
kí kết hơn ở các địa phương cần được đơn giản hóa để những cặp nam nữ sống
chung có thể đi đăng kí kết hơn một cách thuận tiện nhất. Đồng thời công tác phổ
biến, tuyên truyền về pháp luật cũng cần được đẩy mạnh để mọi người hiểu rõ về
10


những hậu quả pháp lí bất lợi khi chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết

hôn. Như vậy, chắc hẳn tỉ lệ nam nữ chung sống như vợ chồng mà khơng đăng kí
kết hơn sẽ được giảm xuống.
Đặc biệt trong khoảng mười năm trở lại đây việc nam nữ sống chung như vợ chồng
đang diễn ra ngày càng phổ biến đặc biệt là trong giới trẻ hay còn gọi là tình trạng
“sống thử”. Sống thử là việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn theo quy định của pháp luật. Nguyên nhân của tình trạng này thường là do
sống xa nhà, thiếu thốn tình cảm hoặc cũng có thể là do đua địi theo bạn bè…
Việc “sống thử” như thế cũng có thể đem lại nhưng mặt tích cực cho hai bên nam
nữ tuy nhiên những hậu quả, mặt tiêu cực và hệ lụy của nó cũng k nhỏ chút nào.
Khi sống chung như vợ chồng như vậy mà khơng đăng kí kết hôn, hai bên nam nữ
sẽ không được pháp luật công nhận là vợ chồng và do đó cũng khơng được pháp
luật bảo vệ trong trường hợp nảy sinh mâu thuẫn và có tranh chấp hay liên quan
đến vấn đề tình cảm, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Qua đó, có thể thấy tình trạng sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
đang là một hiện tượng phổ biến hiện nay ở nước ta, pháp luật không cấm việc
nam nữ sống chung như vậy nhưng cũng không cũng thể bảo vệ quyền lợi của họ
trong trường hợp có tranh chấp, mâu thuẫn. Tuy nhiên đó là quyết định của mỗi
người nhưng cũng cần cân nhắc và suy nghĩ thật kĩ về những cái “được” và “mất”
khi tiến tới việc sống chung. Đồng thời khi giải quyết các tranh chấp trong trường
hợp nam nữ muốn chấm dứt việc sống chung tòa án cần xem xét thật kĩ các trường
hợp để bảo vệ được tối đa quyền lợi của các bên liên quan.

MỤC LỤC
11


A. Mở đầu
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận về nam nữ chung sống như vợ chồng……………………………1
II. Quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản của các bên nam nữ chung sống như vợ

chồng mà khơng đăng kí kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc sống
chung……………………………………………………………………………3
1. Trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng từ trước ngày
03/01/1987………………………………………………………………….5
2. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày
01/01/2001 khơng đăng kí kết hơn mà muốn chấm dứt việc sống
chung…………………………………………………………………...…..7
3. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi (trừ ba
trường hợp trên)……………………………………………..…………...…8
III. Thực trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà khơng đăng kí kết hơn ở Việt
Nam hiện nay…………………………………………………………….……9

C. Kết luận

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình luật hơn nhân và gia đình. Đại học luật Hà Nội. NXB Công An nhân
dân, Hà Nội 2011
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. NXB Lao động. Hà Nội 2011
3. Luận văn tốt nghiệp

13



×