Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tranh chấp lao động tập thể về lợi ích và tình huống liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.18 KB, 18 trang )

Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

BÀI TẬP SỐ 15
1. Phân tích và bình luận cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.
2. Công ty X đong trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là công ty lien doanh
100% vốn đầu tư nước ngoài.Ngày 02/03/1998, công ty ký hợp đồng cung ứng lao
động với công ty vệ sỹ H thuê 5 nhân viên bảo vệ, mức lương 2 triệu/người/tháng.
Tiền này sẽ được chuyểng cho công ty H để công ty H tự thanh toán với nhân viên và
đóng góp bảo hiểm xã hội cho họ. Sauk hi hết hợp đồng cung ứng lao động với công
ty H (ngày 02/01/2001), Công ty X đề nghị ký hợp đồng lao động trực tiếp với 5 nhân
viên bảo vệ và họ đã đồng ý.
Ngày 02/01/2001, Công ty X ký hợp đồng lao đông với 5 nhân viên bảo vệ. Các
điều khoản trong hợp đồng về quyền và nghĩa vụ của nhân viên bảo vệ được giữ
nguyên (bao gồm tiền lương 2 triệu/tháng và việc đóng BHXH do người lao động tự
lo). Về thời hạn của hợp đồng lao động, 2 bên thỏa thuận sẽ theo yêu cầu thực tế của
công ty X.
Ngày 03/04/2009, 5 nhân viên bảo vệ nói trên đồng loạt có đơn yêu cầu công ty
nâng lương cho họ lên 3 triệu/tháng và thanh toán cho họ tiền bảo hiểm xã hội từ
ngày họ vào làm việc cho công ty X (ngày 02/3/2001) đến ngày làm đơn (03/4/2009)
với mức tiền bảo hiểm xã hội là 17% tiền lương hàng tháng.

Hỏi:
a/ Việc công ty ký HĐLĐ với 5 nhân viên bảo vệ với nội như trên là đúng hay
sai? Tại sao? (1,5 điểm)
b/ Những yêu cầu của 5 nhân viên bảo vệ là đúng hay sai? Công ty phải giải
quyết những yêu cầu đó như thế nào theo quy định của pháp luật? (2 điểm)
c/ Nếu công ty muốn chấm dứt HĐLĐ với 5 nhân viên bảo vệ vào ngày
01/5/2009 thì có được không? Tại sao? (1,5 điểm)
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240




Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

d/ Giả định công ty ban hành quyết định chấm dứt HĐLĐ với 5 lao đông
trên vào ngày 01/5/2009 thì những người lao động có thể gửi đơn yêu cầu đến những
cơ quan nào để bảo vệ quyền và lợi ích của họ? (2 điểm)

MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về nền kinh tế với
tốc độ tăng trưởng hàng đầu Châu Á. Sự thành công đó bắt nguồn từ quyết tâm phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để đưa đất nước tiến tới công
nghiệp hóa – hiện đại hóa. Sự quyết tâm này được Việt Nam thể hiện qua các cơ chế,
chính sách thông thoáng như Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật doanh
nghiệp, Luật ưu đãi đầu tư. Môi trường đầu tư thuận lợi, sự phát triển nhanh chóng
của nhiều thành phần kinh tế, nhất là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, lực lượng lao động ngày càng đông, rất đa
dạng và số lượng các doanh nghiệp cũng tăng với số lượng lớn. Mặc dù pháp luật lao
động hướng dẫn khuyến khích các bên trong quan hệ lao động xây dựng quan hệ lao
động hài hòa ổn định nhưng thực tế trong những năm qua, do nhiều lí do khác nhau
từ cả hai phía: Người lao động và người sử dụng lao động ngày càng nảy sinh nhiều
những bất đồng về lợi ích của các bên dẫn đến tranh chấp lao động. Tranh chấp lao
động đã và đang dần trở thành một vấn đề nhạy cảm. Nhất là tranh chấp lao động về
tập thể, nó có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ổn định không chỉ của doanh nghiệp,
của một số khu vực kinh tế, một vùng miền mà còn ảnh hưởng tới nền kinh tế của đất
nước.
Khi xảy ra tranh chấp lao động tập thể sẽ gây bất lợi cho người sử dụng lao
động, người lao động, và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh

Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

đó, tranh chấp lao động còn gây tác động xấu tới dư luận xã hội, ảnh huwongrlowns
tới sự phát triển kinh tế và môi trường đầu tư ở Việt Nam. Những năm qua tranh chấp
lao động ngày càng gia tăng về số lượng người tham gia và số lượng tranh chấp. Đặc
biệt là xảy ra tại các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, doanh nghiệp
có vốn nước ngoài gây chú ý lớn với dư luận xã hội, tạo ra bức xúc lớn với nền kinh
tế. Vấn đề này đang là sựu quan tâm của Chính phủ Việt Nam, các nhà làm luật Việt
Nam, người sử dụng lao động, người lao động và của cả nền kinh tế Việt Nam.
Do vây, trong phạm vi bài tập lớn của mình, em xin chọn đề tài “tranh chấp lao
động tập thể về lợi ích và tình huống liên quan”. Trong phạm vi kiến thức của bản
thân, bài tập của em se không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót mong nhận được
sự góp ý của thầy cô để bài viết của en được hoàn thiện hơn.

NỘI DUNG
I. Phân tích cơ chế tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc tranh chấp lao động về lợi ích diễn
ra ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Đó đã không phải là vấn đề hi hữu trong quá trình
lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động. Nếu tranh chấp lao động cá
nhân là tranh chấp về quyền thì tranh chấp lao động tập thể là tranh chấp về quyền và
lợi ích. Vì vậy, tranh chấp lao động tập thể có những đặc điểm để phân biệt với các
loại tranh chấp khác.
Theo khoản 3 Điều 157: “ Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là tranh chấp
về việc tập thể lao động yêu cầu xác lập các điêù kiện lao động mới so với quy định
của pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký

với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thỏa thuận hợp pháp khác ở
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

doanh nghiệp trong quá trình thương lượng giữa tập thể lao động với người sử dụng
lao động”.
1. Đặc điểm tranh chấp lao động tập thể.
Tranh chấp lao động luôn phát sinh với quan hệ lao động, là tranh chấp đòi hỏi
về quyền lợi và lợi ích của tập thể người lao động với người sử dụng lao động.
Tranh chấp lao động là loại tranh chấp có quy mô và mức độ tham gia chủ thể
lớn: Tranh chấp xảy ra giữa người lao động và người sử dụng lao động xảy ra toàn
doanh nghiệp thì tranh chấp lao động sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các quan hệ lao động
khác.
Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích giữa các bên chủ thể. Tranh chấp lao
động xảy ra khi mà quyền lợi của người la động không được đảm bảo, nhưng cũng có
những trường hợp xảy ra tranh chấp lao động không phải do vi phạm pháp luật lao
động và có trường hợp có vi phạm pháp luật lao động nhưng lại không xảy ra tranh
chấp lao động.
Tranh chấp lao động nói chung và tranh chấp lao động tập thể nói riêng một mặt
luôn ảnh hưởng tiêu cực đến người lao động và những người than của họ.
2. Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.
2.1. Khái niệm.
Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động là việc các tổ chức cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành những thủ tục theo luật định nhằm giải quyết tranh chấp lao
động phát sinh giữa cá nhân, tập thể người lao động với người sử dụng lao động về
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ, lợi ích của hai bên trong quan hệ lao động, khôi phục

các quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại; xóa bỏ tình trạng bất bình mâu thuẫn, giữa
người lao động và người sử dụng lao động, duy trì và củng cố quan hệ lao động, đảm
bảo sự ổn định trong sản xuất.
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động được tiến hành các thủ tục, trình tự;
2.2. Hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.
Theo Điều 169 BLLĐ thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
lao động tập thể về lợi ích bao gồm:
1. Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động;
2. Hội đồng trọng tài lao động.
Cụ thể như sau:
Hội đồng hòa giải lao động cơ sở: là cơ quan được thành lập với chức năng duy nhất
là hòa giải tranh chấp lao động ở cơ sở sử dụng lao động. Hội đồng lao động cơ sở
thành lập ở các dươn vị có tổ chức công đoàn cơ sở hoặc ban chấp hành công đoàn
lâm thời.Thành phần của hội đồng hòa giải gồm đại diện ngang nhau của người lao
động và người sử dung lao đông, số lượng thành viên của hội đồng hòa giải là số
chẵn chứ không phải số lẻ như hội đồng trọng tài lao động. Nhiệm kỳ của hội đồng
trọng tài là hai năm, hai bên luân phiên nhau làm thư ký và chủ tịch, và hoạt động
theo nguyên tắc thỏa thuận, nhất trí.
Hội đồng hòa giải cơ sở có trách nhiệm giải quyết tranh chấp lao động:
+ Một là: tiếp nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao đông;
+ Hai la: tìm hiểu vụ việc, gặp gỡ hai bên tranh chấp, những người có lien
quan, thu thập, tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc hòa giải;
+ Ba là: đưa ra phương án hòa giải để hai bên cùng xem xét, thương lượng;

+ Bốn là: bàn giao và giao toàn bộ hồ sơ đối với những vụ việc tranh chấp hòa
giải không thành cho hội đồng trọng tài lao động để kịp thời giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Hòa giải viên lao động sẽ do cơ quan lao động cấp huyện cử ra để thực hiện
nhiệm vụ hòa giải tranh chấp lao động ở những nơi chưa có hội đồng hòa giải giải
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

quyết các tranh chấp lao động việc thực hiện hợp đồng học nghề và chi phí dạy nghề.
Theo luật trước đây, thì hòa giải viên lao động đương nhiên là cán bộ lao động cấp
huyện, còn hiện nay theo quy định của luật hòa giải viên bao gồm liên đoàn lao động
các quận, huyện và tương đương, đó là cơ quan công đoàn khu công nghiệp, khu chế
xuất, công đoàn ngành nghề địa phương.
Hòa giải viên có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động ở những nơi chưa có
hội đồng hòa giải lao động cơ sở và những nơi trong phạm vi địa bàn do ủy ban nhân
huyện quản lý.
Thời hạn tiến hành hòa giải là 3 ngày trong thời hạn nhận được đơn yêu cầu hòa giải,
biên bản hòa giải phải có chữ ký của hai bên trong thời hạn một ngày kể từ ngày lập
biên bản.
Hội đồng trọng tài lao động: do UBND cấp tỉnh ra quyết định thành lập. Thành
phần gồm đại diện của các bên: đại diện phía nhà nước là sở lao động thương binh xã
hội gồm giám đốc sở là chủ tịch hội đồng trọng tài kiêm nhiệm, thư ký hội đồng do
công chức cơ quan lao động phụ trách và thành viên chuyên trách. Đại diện cho phía
người sử dụng lao động và đại diện cho người lao động, ngoài ra còn có thể thỏa
thuận mời them các thành vien khác như đại diện của hội luật gia, những người hoạt
động xã hội có uy tín. Thành phần của hội đồng trọng tài lao động phải là số lẻ từ 5

đến 7 người, để đảm bảo nguyên tắc biểu quyết theo đa số và hội đồng trọng tài có
nhiệm kỳ 3 năm.
Hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp lao động có nhiệm vụ:
+ Một là: tìm hiểu vụ việc và gặp gỡ các bên có liên quan đến tranh chấp lao
động.
+ Hai là: yêu cầu các bên tranh chấp đến hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp do
hội đồng trọng tài triệu tập.
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

+ Ba là: đưa ra phương án hòa giải, thương lượng để hai bên tranh chấp
thương lượng.
+ Bốn là: lập biên bản hòa giải thành hoặc khong thành, trong biên bản có chữ
ký của hai bên. Hội đồng trọng tài có nhiệm vụ hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ
cho hội đồng hòa giải cơ sở và hòa giải viên lao động tại địa phương.
2.3. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.
Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích được giải quyết
như sau:
+ Một là: nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.
Mỗi bên hoặc cả hai bên khi có yêu cầu giải quyết tranh chấp phải có đơn theo mẫu
số 6 ban hành kèm theo thong tư 22/2007/TT – BLĐTBXH gửi hội đồng hòa giải đối
với nơi có hội đồng hòa giải, gửi cơ quan lao động cấp huyện trong trường hợp tranh
chấp xảy ra ở nơi chưa có hội đồng hòa giải hoặc ban chấp hành công đoàn cơ sở,
hoặc đại diện tập thể lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động quyết định lựa
chọn hòa giải viên lao động giải quyết, thư ký hội đồng hòa giải hoặc cán bộ lao động
cơ quan cấp huyện được phân công khi nhận đơn phải ghi vào sổ theo dõi, trong đó

ghi rõ ngày tháng năm nhận đơn và phải chuyển ngay cho hội đồng hòa giải lao động
hoặc cơ quan lao động cấp huyện để phân công hòa giải viên lao động tìm hiểu và
xwrlys vụ việc.
+ Hai là: chuẩn bị phiên họp hòa giải tranh chấp của hội đồng hòa giải lao
động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động. Thành viên hội đồng hòa giải hoặc hòa giải
viên lao động được phân công giải quyết công việc tranh chấp phải tiến hành tìm hiểu
vụ việc và đưa ra phương án giải quyết. Trường hợp do hội đồng hòa giải giải quyết
thì chủ tịch hội đồng hòa giải phải tổ chức cuộc họp của hội đồng để thảo luận
phương án giải quyết, phương án giải quyết phải được thành viên của hội đồng hòa
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

giải đồng ý. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đơn thì hội đồng hòa giải viên lao
động phải thong báo về việc triệu tập các bên tranh chấp, người liên quan và tổ chức
phiên họp hòa giải.
+ Ba là: tổ chức phiên hòa giải tranh chấp, tại phiên họp hòa giải viên, hoặc thư
ký của hội đồng hòa giải phải kiểm tra sự có mặt của hai bên đại diện tranh chấp,
những người có liên quan. Trường hợp hai bên cử người khác làm đại diện thì phải có
giấy ủy quyền, trong trường hợp một trong hai bên tranh chấp là thành viên của hội
đồng hòa giải thì cử đại diện tham gia theo đúng quy định của pháp luật. Nếu một
trong hai bên vắng mặt hoặc cử đại diện nhưng không có giấy ủy quyền thì hoãn
phiên họp sang ngày làm việc tiếp theo, và hướng dẫn họ làm theo thủ tục đã quy
định.
Khi có đầy đủ hai bên tranh chấp hoặc có đầy đủ bên đại diện thì tiến hành phiên
họp hòa giải:
- Tuyên bố lý do phiên họp hòa giải và giới thiệu những người tham gia phiên

họp;
- Đọc đơn của nguyên đơn;
- Bên bị đơn trình bày;
- Hội đồng hòa giải hoặc hòa giải viên chất vấn các bên, nêu các chứng cứ và
yêu cầu nhân chứng (nếu có);
- Người bàn chữa của một trong hai bên trình bày.
Hội đồng hòa giải hoăc hòa giải viên lao động căn cứ vào pháp luật lao động.
các căn cứ có được, phân tích đánh giá vụ việc, nêu những điều đúng sai để hai bên tự
hòa giải với nhau hoặc đưa ra phương án hòa giải để hai bên xem xét và thương
lượng. Trường hợp bên nguyên đơn chấp nhận rút đơn, hoặc cả hai bên tự thương
lượng được hoặc chấp nhân phương án hòa giải của hội đồng hòa giải hoặc của hòa
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

giải viên lao động lập văn bản hòa giải thành theo mẫu số 7 ban hành kèm theo thong
tư 22/2007/TT – BLĐTBXH, có chữ ký của hai bên tranh chấp, chủ tịch hội đồng hòa
giải, thư ký, hoặc hòa giải viên lao đọng. Hai bên có nghĩa vụ chấp hành biên bản đã
hòa giải thành.
+ Trường hợp hai bên không chấp nhận phương án hòa giải thì hội đồng hòa
giải hoặc hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải không thành, trong đó ghi rõ ý
kiến của hai bên, biên bản có chữ ký hai bên, chữ ký của hội đồng hòa giải, hòa giải
viên lao động.
+ Trường hợp hai bên đã triệu tập đến lần hai mà vẫn vắng mặt không có lý do
chính đáng thì hội đồng hòa giải hoặc hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải
không thành, trong đó cũng phải ghi rõ thành phần tham gia ý kiến của mỗi bên.
+ Trường hợp hòa giải không thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo quy định

tại khoản 1, Điều 165 BLLĐ mà hội đồng hòa giải cơ sở, hoặc hòa giải viên không
tiến hành hòa giải thì mỗi bên tranh chấp có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài giải
quyết tranh chấp. thủ tục giải quyết của hội đồng trọng tài căn cứ vào Điều 171 của
BLLĐ, nghị định 133/2007/TT- BLĐTBXH ngày 8/8/2007 của Chính phủ, căn cứ
thong tư 23/2007/TT –BLDDTBXH ngày 23/10/2007.
Cuối cùng nếu hội đồng trọng tài cũng không giải quyết được thì người lao động có
thể tiến hành đình công. Nhưng đình công không phải là phương thức hòa giải tranh
chấp mà chỉ là thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra nhanh hơn.
2.4. Bình luận
Thứ nhất: những bất cập về việc thành lập hội đồng hòa giải cơ sở. Hội đồng hòa
giải cơ sở được thành lập tại doanh nghiệp, nhưng chỉ thành lập tại những doanh
nghiệp có tổ chức công đoàn cơ sở, điều đó dẫn đến có những doanh nghiệp không
thể thành lập được hội đồng hòa giải cơ sở vì không có điều kiện, cùng với đó là
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

thành phần của hội đồng hòa giải là những người lao động, các nhân viên dưới quyền
quản lý của người sử dụng lao động lại tham gia với tư cách là người đại diện cùng
với chủ của họ mà những người chủ đã không giải quyết thỏa mãn được quyền lợi
của họ đã dẫn đến xung đột. Mặt khác những người lao động trong hội đồng hòa giải
cũng phải chịu nhiều áp lực lớn và họ không thể hi sinh quyền lợi lâu trước mắt hay
lâu dài của họ để bảo vệ công bằng thực sự cho cả hai bên tranh chấp được. Như vậy,
hội đồng hòa giải sẽ thực hiện được trách nhiệm của mình đến đâu? Đó là điều bất
cập của luật mà chúng ta đáng phải quan tâm.
Thứ hai: là những bất cập về trọng tài lao động trong giải quyết tranh chấp lao
động tập thể về lợi ích. Hội đồng trọng tài theo luật hiện hành đã không còn chức

năng phán quyết, hội đồng trọng tài từ một tổ chức có quyền ra phán quyết, giờ chỉ có
thể hòa giải tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Do đó, có thể thấy trọng tài lao
động và hội đồng hòa giải trở nên gần như tương đồng với nhau. Mà pháp luật quy
định, trọng tài lao động giải quyết sau hội đồng hòa giải, thì trọng tài lao động sẽ phải
hòa giải bước nữa không khác gì nhiều như hội đồng hòa giải. Như vậy, không nên
quy định hòa giải và trọng tài là hai bước kế tiếp nhau trong việc giải quyết tranh
chấp lao động tập thể về lợi ích. Khi sảy ra tranh chấp, các bên vẫn phải tiến hành hòa
giải, nhưng các bên có quyền lựa chọn giải quyết tại hội đồng hòa giải hoặc giải
quyết tại trọng tài lao động, như vậy quyết định của hội đồng trọng tài sẽ là quyết
định cuối cùng buộc các bên phải thực hiện.
Thứ ba: trong thực tế sảy ra tranh chấp, biện pháp hòa giải thương lượng chỉ là
biện pháp tình thế, các bên tranh chấp rất ít khi ngồi lại với nhau cùng hòa giải,
thương lượng. khi sảy ra tranh chấp đại diện của Sở lao động thương binh xã hội sẽ
nghe ý kiến của người lao động, họ chọn ra những ý kiến được coi là chính đáng, để
yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện, còn những yêu cầu mà họ cho là không
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

phù hợp thì không thể yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện được. Biện pháp này
được coi là tình thế và chỉ đạt được kết quả ngắn hạn đó là chấm dứt được vụ tranh
chấp, còn hậu quả về sau thì khó có thể lường trước được.
Ngoài ra, còn một số những vấn đề bất cập trong việc giải quyết tranh chấp lao
động tập thể về lợi ích như: thời hạn hòa giải tranh chấp là 3 ngày kể từ ngày nhận
được đơn yêu cầu hòa giải. Thời hạn 3 ngày để giải quyết tranh chấp là quá ngắn,
trong thời gian đó, hòa giải viên, hội đồng hòa giải phải xác minh vụ việc, thu thập
chứng cứ, tài liệu có liên quan tới vụ tranh chấp, thì thời gian này không đủ để hội

đồng hòa giải tiến hành hang loạt các hoạt động đó.
Từ những bất cập, hạn chế trên pháp luật cần có những sửa đổi, bổ sung sao
cho phù hợp với thực tế, nhất là trong khi tranh chấp lao động tập thể về lợi ích diễn
ra ngày càng gay gắt trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
II. Giải quyết tình huống liên quan.
a/ Việc công ty X ký HĐLĐ với 5 nhân viên bảo vệ với nội dung như trên là
đúng hay sai? Tại sao?
Việc công ty X ký HĐLĐ với 5 nhân viên bảo vệ với nội dung như trên là sai:
Vì căn cứ pháp lý: theo khoản 1 Điều 141 BLLĐ:
1. Loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng đối với doanh nghiệp, cơ
quan, tổ chức có sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ
đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Ở những doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng
BHXH theo quy định tại Điều 149 của bộ luật này và người lao động được hưởng
các chế độ trợ cấp BHXH ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu
trí và tử tuất.

Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

Như vậy, theo khoản 1 Điều 141 thì hợp đồng lao động của công ty X và 5
nhân viên bảo vệ với nội dung “bảo hiểm xã hội người lao động tự lo” là sai mà hợp
đồng của công ty X với 5 nhân viên bảo vệ là hợp đồng không xác định thời hạn, nên
theo quy định tại Điều 141 thì công ty X phải đóng bảo hiểm bắt buộc cho 5 nhân
viên bảo vệ, không thể bỏ mặc cho họ tự lo việc đóng BHXH.
Mà theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 149 “ người sử dụng lao động đóng

bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương”. Theo đó công ty X phải đóng 15% so với tổng
tiền lương của 5 nhân viên đó. Theo mức lương đã thỏa thuận 2 triệu/tháng thì công
ty X phải đóng là 2.000.000 x 15% = 300.000 đồng tiền BHXH.
Cùng với đó theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 18 Luật bảo hiểm xã hội
đã quy định về việc đóng bảo hiểm của người sử dụng lao động như sau: “ người sử
dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 92 và
hàng tháng trích từ tiền lương, tiền công của người lao động theo khoản 1 Điều 91
của Luật bảo hiểm xã hội để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH”.
Như vậy, căn cứ theo Luật lao động và Luật bảo hiểm thì người sử dụng lao
động có nghĩa vụ phải đóng BHXH bắt buộc cho người lao động, vì vậy công ty X để
người lao động tự lo tiền bảo hiểm là hoàn toàn sai.
b/ Những yêu cầu của 5 nhân viên bảo vệ là đúng hay sai? Công ty phải giải
quyết những yêu cầu đó như thế nào theo quy định của pháp luật.
Những yêu cầu của 5 nhân viên về việc yêu cầu công ty nâng lương cho họ lên 3
triệu/tháng và thanh toán tiền BHXH cho họ từ ngày họ vào làm việc cho công ty X
(ngày 02/3/2001) đến ngày làm đơn (03/4/2009) với mức tiền BHXH là 17% tiền
lương hang tháng là sai.

Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

Theo thông tư số 14/2003 của BLĐTBXH theo khoản 4 mục 5 chế độ nâng bậc
lương, theo khoản 2 Điều 6 NĐ 114/2002 NĐ – CP được quy định cụ thể như sau: “
Người lao động có đủ các điều kiện sau đây thì được xét nâng bậc lương hàng năm”.
Có thời gian làm việc tại doanh nghiệp, cơ quan đủ ít nhất là một năm (12
tháng);

Thường xuyên hoàn thành công việc được giao về số lượng, chất lượng đã được
ký kết trong hợp đồng;
Không trong thời giant hi hành kỷ luật theo quy định của BLLĐ và nội quy lao
động của doanh nghiệp, cơ quan.
Kể từ khi 5 nhân viên làm việc tại công ty X từ ngày 02/3/2001 đến ngày làm
đơn là 03/4/2009 có đơn yêu cầu nâng lương thì họ đã làm việc tại công ty X được 8
năm 2 tháng, luôn hoàn thành công việc được giao theo hợp đông đã kí kết, không vi
phạm kỷ luật trong thời gian làm việc tại công ty vì vậy họ yêu cầu công ty nâng
lương là hoàn toàn xác thực. Nhưng tăng lương bao nhiêu thì thông tư không có
hướng dẫn cụ thể. Do đó, việc tăng lương của 5 nhân viên phụ thuộc vào sự thỏa
thuận của người sử dụng lao động và lao động.
Cùng với đó 5 nhân viên đã yêu cầu công ty trả cho họ 17% tiền bảo hiểm xã
hội theo lương hàng tháng kể từ ngày họ vào làm việc tại công ty là hoàn toàn sai. Vì
theo điểm a khoản 1 Điều 149 của BLLĐ thì người sử dụng lao động đóng bằng 15%
tổng quỹ tiền lương. Vì vậy nếu công ty đóng tiền BHXH cho 5 nhân viên cũng chỉ
phải đóng 15% so với mức tiền lương hàng tháng là 2 triệu/tháng. Vì thế, 5 nhân viên
yêu cầu công ty X thanh toán 17% tiền BHXH là không có căn cứ pháp lý.
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp về tiền BHXH thì công ty X có thể giải
quyết theo điểm a khoản 2 Điều 151 “tranh chấp giữa người lao động và người sử
dụng lao động được giải quyết theo quy định tại chương XIV của bộ luật này”.
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

Như vậy, tranh chấp của 5 nhân viên với công ty đòi thanh toán tiền bảo hiểm
được coi la tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, đối với tranh chấp này, công ty có
thể giải quyết bằng con đường thương lượng, hòa giải. Nếu thương lượng, hòa giải

không được thì có thể đưa ra hội đồng trọng tài theo Điều 169 của BLLĐ. Nhưng
trong trường hợp này, công ty X và 5 nhân viên nên giải quyết bằng con đường
thương lượng hòa giải, cùng nhau tìm ra một giải pháp chung cho cả hai bên, để hai
bên giải quyết những bất đồng mâu thuẫn, trong mọi trường hợp luật luôn khuyến
khích các bên tự hòa giải, thương lượng với nhau, để tránh mất thời gian, ảnh hưởng
tới công việc,và dẫn tới đình công.
c. nếu công ty muốn chấm dứt hợp đông lao động với 5 nhân viên vào ngày
1/5/2009 thì có được không? Tại sao?
Công ty không thể chấm dứt hợp đồng lao động với 5 nhân viên bảo vệ vào ngày
1/5/2009

vì:

Nội dung mà công ty X kí với 5 nhân viên bảo vệ, có quy định về thời hạn hợp
đồng như sau: “ về thời hạn hợp đông hai bên sẽ thỏa thuận theo yêu cầu thực tế của
công ty X”. như vậy, theo nội dung hợp đồng giữa công ty X và 5 nhân viên trở thành
hợp đồng không xác định thời hạn theo điểm a, khoản 1 Điều 27 BLLĐ. Do đó, theo
điểm a khoản 1 Điều 38 thì người sử dụng lao động muốn chấm dứt hợp đồng lao
động không xác định thời hạn với người lao động thì phải báo trước với người lao
động ít nhất 45 ngày. Theo tình huống trong bài thì kể từ ngày 5 nhân viên bảo vệ
làm đơn yêu cầu thanh toán bảo hiểm là ngày 3/4/2009 đến thời điểm mà công ty X
muốn chấm dứt hợp đồng lao động với 5 nhân viên là ngày 1/5/2009, khoảng thời
gian từ ngày 3/4/2009 đến ngày 1/5/2009 chỉ có 28 ngày. Mà theo điểm a khoản 3
Điều 38 BLLĐ thì khoảng thời gian đó chua đủ 45 ngày. Vì vậy, công ty X không thể
chấm dứt hợp đồng lao động với 5 nhân viên được.
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ


Môn: Luật Lao Động

d/ Giả định công ty X ban hành quyết định chấm dứt HĐLĐ với 5 lao đông
trên vào ngày 01/5/2009 thì người lao động có thể gửi đơn yêu cầu những cơ quan
nào để bảo vệ quyền và lợi ích của họ.
Trường hợp người lao động chấm dứt hợp đồng với 5 nhân viên bảo vệ vaò ngày
1/5/2009. đó là trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật
theo điểm a khoản 3 Điều 38 BLLĐ vì đã vi phạm thời gian báo trước, do đó sẽ dẫn
tới tranh chấp lao động cá nhân cụ thể là đòi tăng tiên lương, và tiền BHXH.
Theo Điều 165 cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân bao gồm:
1. Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động;
2. Tòa án nhân dân.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình 5 nhân viên bảo vệ có thể gửi đơn
đến hội đồng hòa giải cơ sở, trong trường hợp công ty không có hội đồng hòa giải cơ
sở thì có thể gửi đơn đến hòa giải viên lao động.
Theo khoản Điều 165a trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
đơn hòa giải phải đưa ra phương án hòa giải.
Theo khoản 2 Điều 165a nếu 5 nhân viên bảo vệ và công ty X cùng chấp nhận
phương án hòa giải thì việc hòa giải thành công và được lập thành văn bản có chữ ký
của hai bên.
Nếu không chấp nhận có thể gửi đơn đến TAND. Hồ sơ gửi tòa án nhân dân
phải kèm theo biên bản hòa giải không thành của Hội đồng hòa giải cơ sở hoặc hòa
giải viên lao động.
Ngoài ra 5 nhân viên này có thể giải quyết theo thủ tục hành chính, 5 nhân viên
có thể gửi đơn khiếu nại lên người sử dụng lao động lao đọng giải quyết đơn khiếu
nại lần đầu. nếu không giải quyết được họ có thể tiếp tục khiếu nại lên các cơ quan
Nguyễn Thị Thu Hà - 350240



Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

sau: Chánh thanh tra sở, Chánh Thanh tra của Bộ lao động thương binh- Xã
hội( quyết định giải quyết cuối cùng) theo Điêu 8 mục 2 nghị định 04/2005/NĐ-CP
ngày 11/1/2005.

KẾT LUẬN
Qua vấn đề lý luận và tình huống thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tập
thể về lợi ích có thế thấy được rằng pháp luật nước ta đã có những biện pháp nhằm
giải quyết các tranh chấp khi sảy ra tại các doanh nghiệp. Nhằm từng bước ổn định
phát triển kinh tế của các doanh nghiệp cũng như đảm bảo cuộc sống của người lao
động. Nhưng cũng phải nhìn nhận một thực trạng về pháp luật nước ta còn quá nhiều
những thủ tục làm cho việc giải quyết tranh chấp gặp nhiều khó khăn, cùng với đó là
cơ chế giải quyết còn phải trải qua nhiều giai đoạn khiến cho các bên đôi khi còn lúng
túng trong việc giải quyết. Vì vậy, pháp luật nước ta cần phải thay đổi phù hợp với
nền kinh tế của đất nước đang trong thời kỳ hội nhập đảm bảo sự bình đẳng quyền lợi
cho người lao động cũng như người sử dụng lao động.

Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động

MỤC LỤC
Tran
g

MỞ ĐẦU………………………………………………………………..
NỘI DUNG………………………………………………………………

I. Phân tích cơ chế tranh chấp lao động tập thể về lợi ích…...
1. Đặc điểm tranh chấp lao động tập thể……………………………….
2. Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích………….
II. Giải quyết tình huống liên quan……………………………………
a/ Việc công ty X ký HĐLĐ với 5 nhân viên bảo vệ với nội dung như
trên là đúng hay sai? Tại sao?..............................................................
b/ Những yêu cầu của 5 nhân viên bảo vệ là đúng hay sai? Công ty
phải giải quyết những yêu cầu đó như thế nào theo quy định của pháp
luật……………………………………………………………………….
c. nếu công ty muốn chấm dứt hợp đông lao động với 5 nhân viên vào
ngày 1/5/2009 thì có được không? Tại sao?.........................................
d/ Giả định công ty X ban hành quyết định chấm dứt HĐLĐ với 5 lao
đông trên vào ngày 01/5/2009 thì người lao động có thể gửi đơn yêu
cầu những cơ quan nào để bảo vệ quyền và lợi ích của họ…………….
KẾT LUẬN……………………………………………………………….
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Giáo trình:

Nguyễn Thị Thu Hà - 350240


Bài tập lớn học kỳ

Môn: Luật Lao Động


1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật lao động, Nxb, CAND, Hà Nội,
2009;
2. Khoa Luật – Viện Đại học Mở Hà Nội, Giáo trình Luật lao động Việt Nam, Nxb,
Giáo Dục Việt Nam, 2009.

B. Tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007.
2. Lưu Bình Dương, về tranh chấp lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động
tập thể”, tạp chí luật học, số 2/2001.

* Website :
1.

http:// www.ilo.org

2.

http:// www.luatvietnam.com.vn

3.

http:// www.vibonline.com.vn

4.

http:// www.westlaw.com

5.


http:// www.chinhphu.vn

http:// www.laodong.com.vn

Nguyễn Thị Thu Hà - 350240



×