Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Một sô biện pháp cơ bản để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.37 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CTCP
CTCK
CTTNHH
KDCK
LCK
NĐT
NHTM
TTCK
TTGDCK
UBCKNN

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

2

Công ty cổ phần


Công ty chứng khoán
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Kinh doanh chứng khoán
Luật chứng khoán
Nhà đầu tư
Ngân hàng thương mại
Thị trường chứng khoán
Trung tâm giao dịch chứng khoán
Uỷ ban chứng khoán nhà nước


LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của TTCK là đặc trưng và thước đo sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, đồng thời cũng là công cụ đắc lực để huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội của một nước, một khu vực, thậm chí toàn cầu. TTCK Việt
Nam chính thức đi vào hoạt động cách đây gần 12 năm, đã đánh dấu một bước phát
triển mới có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống thị trường tài
chính, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế đang không ngừng chuyển đổi
vận hành theo cơ chế thị trường. Như tất cả các hoạt động kinh doanh khác, KDCK
cũng nhằm mục đích cuối cùng và cao nhất là đem lại lợi nhuận hoặc nhằm thỏa
mãn những lợi ích riêng nào đó của các nhà đầu tư. Nhưng có thể nói KDCK là một
ngành kinh doanh có lợi nhuận lớn và độ rủi ro cao. Bởi vậy, việc nghiên cứu những
biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro trong hoạt động KDCK là việc vô cùng cần thiết
và quan trọng góp phần lành mạnh hóa thị trường và đưa nền kinh tế đất nước đi lên.
NỘI DUNG
I.
Hoạt động KDCK và rủi ro trong hoạt động KDCK
1. Hoạt động KDCK
Theo quy định tại khoản 19 Điều 6 LCK năm 2006 thì “KDCK là việc thực hiện
nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng

khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”.
Với định nghĩa này, khái niệm KDCK ở Việt Nam được hiểu theo nghĩa khá
rộng và cơ bản tương đồng với khái niệm KDCK trong pháp luật các nước trên thế
giới, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á và Châu Á như Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản... Nói một cách khái quát, KDCK là loại hình hoạt động
thương mại đặc biệt mà ở đó các CTCK, công ty quản lý quỹ và các chủ thể được
phép KDCK tiến hành các nghiệp vụ về chứng khoán cho chính mình hoặc cho
khách hàng vì mục tiêu thu lợi nhuận tối đa.
2. Rủi ro trong hoạt động KDCK
2.1. Khái niệm
Rủi ro là một tình huống khó tránh trong hoạt động kinh doanh. Rủi ro nói chung
là “khả năng xảy ra sự cố bất lợi cho chủ thể, hay có thể hiểu đó là những nguy cơ
một hành động, một sự việc sẽ ảnh hưởng bất lợi đến việc đạt được các mục tiêu
cũng như việc thực hiện thành công những chiến lược kinh doanh của một tổ chức”.
Có thể hiểu rủi ro trong KDCK là khả năng xảy ra những việc bất lợi cho các chủ
thể KDCK khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh như môi giới, bảo lãnh phát
hành, tự doanh, tư vấn đầu tư, quản lý chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán.
2.2. Phân loại
Từ cách hiểu thế nào là rủi ro trong KDCK ở trên, có thể phân loại được các rủi
ro thường gặp trong hoạt động KDCK như sau:
Rủi ro thị trường: Giá cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một khoảng thời
gian ngắn mặc dù thu nhập của công ty vẫn không thay đổi. Nguyên nhân của nó có
3


thế rất khác nhau nhưng phụ thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các NĐT về các
loại cổ phiếu nói chung hay về một nhóm các cổ phiếu nói riêng. Những thay đổi
trong mức sinh lời đối với phần lớn các loại cổ phiếu thường chủ yếu là do sự hy

vọng của các NĐT vào nó thay đổi và gọi là rủi ro thị trường.
Rủi ro lãi suất: Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro hệ thống, hay còn gọi là
rủi ro không phân tán được khi đầu tư vào TTCK. Rủi ro lãi suất nói đến sự không
ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là
dao động trong mức lãi suất chung.
Rủi ro sức mua: Rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất có thể được định nghĩa là
những biến cố về số tiền thu được hiện nay của NĐT. Rủi ro sức mua là biến cố của
sức mua của đồng tiền thu được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với
khoản đầu tư.
Rủi ro kinh doanh: Rủi ro kinh doanh là do tình trạng hoạt động của công ty, khi
có những thay đổi trong tình trạng này công ty có thể sẽ bị sút giảm lợi nhuận và cổ
tức. Nói cách khác, nếu lợi nhuận dự kiến tăng 10% hàng năm trong những năm tiếp
theo, rủi ro kinh doanh sẽ cao hơn nếu như lợi nhuận tăng tới 14% hay giảm xuống
6% so với lợi nhuận nằm trong khoảng 11 - 9%. Mức độ thay đổi so với xu hướng
dự kiến được coi là rủi ro kinh doanh.
Rủi ro tài chính: Rủi ro tài chính liên quan đến việc công ty tài trợ cho hoạt
động của mình. Người ta thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu
trúc vốn của một công ty. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra
cho công ty những nghĩa vụ trả lãi. Và vì những nghĩa vụ trả lãi này phải được thanh
toán cho công ty trước khi kinh doanh cổ tức cho cổ phiếu thường nên nó có tác
động lớn đến cổ tức. Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà
các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một công ty không
vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính.
Rủi ro thanh khoản: Là rủi ro khi ngân hàng phải bán lỗ tài sản để đáp ứng nhu
cầu tiền mặt tức thời. Thí dụ, người gửi tiền yêu cầu có tiền mặt ngay.
Rủi ro hối đoái: Rủi ro thị trường hối đoái là khi người nợ nước ngoài không thể
chi trả bằng loại tiền tệ (ngoại tệ) theo yêu cầu của chủ nợ.
Như vậy, có thể thấy đặc trưng của rủi ro trong KDCK đó là:
Thứ nhất, rủi ro trong KDCK luôn luôn gắn liền với đối tượng đặc biệt, đó là
chứng khoán.

Thứ hai, những rủi ro trong KDCK nếu không được giải quyết hợp lý và kịp thời
thường dẫn đến hậu quả lớn gây thiệt hại về tài chính và tác động đến nhiều đối
tượng tham gia vào TTCK.
2.3 Tác động của rủi ro trong hoạt động KDCK
Rủi ro trong hoạt động KDCK không chỉ có tác động đến các NĐT, các chủ thể
KDCK mà còn có tác động đến TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung:
- Đối với các chủ thể KDCK: những rủi ro trong KDCK tác động trực tiếp
đến các chủ thể KDCK, do họ là những chủ thể thực hiện tất cả các nghiệp
vụ kinh doanh và tham gia vào hầu hết các giai đoạn của hoạt động kinh
doanh. Họ chính là những đối tượng chịu thiệt hại lớn nhất khi xảy ra
4


những rủi ro. Bên cạnh những thiệt hại về vật chất mà rủi ro KDCK đem
đến, các chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh này còn gánh chịu những
rủi ro về mặt uy tín của doanh nghiệp.
- Đối với các NĐT: NĐT khi tham gia vào TTCK nói chung và các giao dịch
liên quan đến các nghiệp vụ KDCK nói riêng luôn có mục tiêu hướng tới
lợi nhuận. Nhưng khác với các CTCK, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán, công ty đầu tư chứng khoán – là các chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt
động KDCK – các NĐT ít có kinh nghiệm dự đoán thị trường, khả năng
phân tích và dự đoán rủi ro rất thấp; chính vì vậy, họ là đối tượng thường
xuyên gặp phải những rủi ro khi tham gia vào các giao dịch chứng khoán.
Điều này tác động rất lớn đến họ, đặc biết đối với các NĐT nhỏ, lẻ. Chính
các rủi ro này làm cho các NĐT chịu những thiệt hại đáng kể về tài sản, dẫn
đến niềm tin cũng như tâm lý của họ vào thị trường không vững chắc.
- Đối với TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung: có thể khẳng định, rủi ro
trong KDCK tác động tiêu cực đến sự phát triển của thị trường. Nó làm cho
hoạt động kinh tế diễn ra chậm chạp hơn, khả năng huy động vốn qua kênh
chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu ... thấp hơn. Ở mức độ cao hơn, rủi ro

trong KDCK nếu không được kiểm soát và giải quyết kịp thời sẽ dẫn đến
nguy cơ “sụp đổ” của TTCK và dẫn tới những hệ lụy không thể lường trước
được đối với toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội của quốc gia.
Như vậy, những tác động của rủi ro trong KDCK là rất lớn, nó mang thiệt hại
đến với không chỉ chủ thể thực hiện các hoạt động kinh doanh mà còn tác động
không tốt đến toàn bộ TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đứng trước những
hậu quả đó, yêu cầu đặt ra là cần phải có những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế
những rủi ro đó.
II.
Một sô biện pháp cơ bản để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
KDCK
1. Pháp luật phòng ngừa rủi ro trong KDCK
Pháp luật điều chỉnh hoạt động KDCK là tổng hợp những nguyên tắc, những quy
phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh
những quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động KDCK. Trong đó,
pháp luật có những quy định nhằm phòng ngừa rủi ro đối với các hoạt động KDCK
như các quy định về chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm KDCK, quy định về
nghĩa vụ phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro của chủ thể KDCK, quy
định về sự quản lý Nhà nước đối với hoạt động KDCK...
Cùng với sự phát triển của hoạt động KDCK, hiện nay Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản pháp lý để điều chỉnh lĩnh vực này nhằm phòng ngừa rủi ro ở mức tối
thiểu. Pháp luật đối với việc phòng ngừa rủi ro trong KDCK chính là tổng hợp các
quy phạm nằm trong LCK 2006; các văn bản khác như: Nghị định số 11/2007/NĐCP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của LCK; các quyết định
của Bộ tài chính về quy chế và hoạt động của CTCK (quyết định 27/2007/QĐBTC), công ty quản lý quỹ (quyết định 36/2007/QĐ-BTC)...
1.1. Pháp luật về quản lý Nhà nước nhằm phòng ngừa rủi ro trong KDCK
5


Để phòng ngừa rủi ro trong KDCK, cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán
đóng vai trò rất quan trọng. Nhận thấy được điều này, pháp luật phòng ngừa rủi ro

trong KDCK nước ta đã có những quy định rất cụ thể về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và trong từng
nghiệp vụ KDCK.
Ngay từ những điều luật đầu tiên của LCK 2006, Nhà nước đã thể hiện sự quan
tâm cũng như sự giám sát của mình đối với sự phát triển của TTCK nói chung và
hoạt động KDCK nói riêng. Theo đó, “Nhà nước có chính sách quản lý, giám sát
bảo đảm TTCK hoạt động công bằng, công khai, minh bạch, an toàn và hiệu quả”
(khoản 2 Điều 5 LCK).
Tại Điều 7 LCK đã chỉ ra: Chính phủ thống nhất quản lý về chứng khoán và
TTCK. Đặc biệt, để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước đối với hoạt động
KDCK, UBCKNN là cơ quan trực tiếp quản lý hoạt động KDCK nói riêng và
TTCK nói chung.
Quy định này đã thể hiện được tính thống nhất trong quản lý hoạt động KDCK
nước ta. Với việc phân cấp rõ ràng giữa các cơ quan chức năng, pháp luật phòng
ngừa rủi ro trong KDCK đã tránh được hiện tượng chồng chéo về chức năng cũng
như quyền hạn của các cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề xảy ra trong hoạt
động KDCK, điều này giúp cho việc quản lý hoạt động KDCK diễn ra dễ dàng và
gọn nhẹ hơn. Tuy nhiên, việc quản lý này cũng bộc lộ nhiều hạn chế:
Thứ nhất, UBCKNN là cơ quan trực tiếp quản lý thị trường cũng như hoạt động
KDCK. Như vậy, phạm vi quản lý và khối lượng công việc của cơ quan này rất lớn,
điều này dẫn đến việc quá tải trong công tác quản lý của UBCKNN. Ngoài ra,
UBCKNN là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, nên với địa vị pháp lý này,
UBCKNN không tránh khỏi bị hạn chế về thẩm quyền, không thể xử lý nhanh nhạy
những tình huống phát sinh trên TTCK – là một thị trường có tính phức tạp và luôn
có những diễn biến thay đổi rất nhanh và chịu tác động của nhiều yếu tố trong và
ngoài nước. Do đó mà làm cho các rủi ro trong hoạt động này không được kiềm chế
kịp thời, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Thứ hai, việc quản lý nhiều tầng lớp của Nhà nước đối với TTCK và hoạt động
KDCK làm cho những quyết định quan trọng của các cơ quan nhà nước bị hạn chế.
Đặc biệt, đối với thị trường diễn biến nhanh và phức tạp như nước ta, sự quản lý nhà

nước không được kịp thời. Điều này dẫn đến những hành vi “lách luật”, vi phạm
quy định của pháp luật của các chủ thể KDCK; dẫn đến những hệ lụy, rủi ro khó
lường.
Theo Điều 8 LCK thì UBCKNN có chức năng giám sát chung các hoạt động
KDCK. Không chỉ vậy, có thể thấy UBCKNN giữ vai trò quản lý xuyên suốt tất cả
mọi lĩnh vực của TTCK, điều này được thể hiện qua các điều luật quy định về chức
năng, quyền hạn của UBCKNN, cũng như trong các quy định về nghĩa vụ bão cáo
của các chủ thể kinh doanh đối với UBCKNN.
Trước đây, tại Nghị định số 144/2003/NĐ-CP và những văn bản có liên quan,
hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát được quy định rất chung chung và sơ sài.
Tuy nhiên, LCK 2006 ra đời cùng với những văn bản hướng dẫn thi hành đã khắc
6


phục được các hạn chế, thiếu sót trên. Các quy định về động thanh tra, kiểm tra,
giám sát được quy định rất chi tiết về đối tượng, phạm vi thanh tra, giám sát; hình
thức; thời hạn thanh tra; quyền hạn và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra; nhiệm vụ
quyền hạn của người ra quyết định thanh tra và kết luận thanh tra. Theo quy định tại
Điều 110 LCK thì “thanh tra theo chương trình, kế hoạch đã được Chủ tịch Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước phê duyệt ; Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát
hiện tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư và hoạt động trên thị trường chứng khoán có
dấu hiệu vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán; theo yêu
cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước giao”. Các chủ thể KDCK là CTCK, công ty đầu tư chứng khoán và
công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán đều là đối tượng của thanh tra.
Như vậy có thể thấy, UBCKNN thông qua thẩm quyền thanh tra của mình có thể
thực hiện các biện pháp để phòng ngừa rủi ro trong KDCK. Bởi thông qua các đợt
thanh tra định kỳ hoặc thanh tra đột xuất, UBCKNN có thể phát hiện ra những nguy
cơ tiềm ẩn cũng như các thiếu sót hay sai phạm của chủ thể KDCK, từ đó đưa ra
những quyết định buộc các chủ thể này phải có những biện pháp khắc phục những

hạn chế đó, góp phần giảm thiểu nguy cơ rủi ro xảy đến. Cùng với quyền hạn được
“thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến hoạt động chứng khoán và
TTCK”, UBCKNN có thể lấy đây là công cụ để “răn đe” các công ty tham gia
KDCK thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ để hạn chế rủi ro và thực hiện các nghiệp vụ
của mình đúng pháp luật.
Bên cạnh những quy định khá chi tiết về quản lý Nhà nước trong KDCK, có thể
thấy pháp luật hạn chế rủi ro trong KDCK còn bộc lộ một số hạn chế trong các quy
định về quản lý nhà nước ở lĩnh vực này:
Thứ nhất, đó là các quy định về các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của
các cơ quan quản lý Nhà nước trong KDCK còn chưa đầy đủ. Đối với hoạt động
thanh tra đột xuất, nhà làm luật quy định chỉ được tiến hành khi “có dấu hiệu vi
phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK”; tuy nhiên, luật lại không quy định rõ thế
nào được coi là có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Ngoài ra quy định về thanh tra theo
chương trình, kế hoạch đã được chủ tịch UBCK phê duyệt khi được thực hiện trên
thực tế sẽ mất đi tính bất ngờ, khi đó, các chủ thể KDCK có thể chuẩn bị trước cho
đợt thanh tra nên hiệu quả thanh tra không được đúng với mục đích ban đầu.
Thứ hai, pháp luật chưa quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát có được tiến hành hoạt động điều tra hay không.
Vấn đề cũng là một bất cập, bởi lẽ KDCK là một lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro và
nhạy cảm, các nghiệp vụ của nó đòi hỏi trình độ chuyên môn cao nên hoạt động điều
tra cần được giao cho cơ quan có thẩm quyền am hiểu về hoạt động này tiến hành.
Có như vậy, hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát mới được nâng cao và góp
phần hạn chế các rủi ro trong KDCK.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy quy định cho phép UBCKNN thực hiện
hoạt động điều tra nên được bổ sung vào các quy định của pháp luật để nó trở thành
cơ sở pháp lý cho hoạt động này của UBCKNN. Bởi lẽ, thông qua quá trình điều tra,
7


tổ thanh tra mới xác định được đúng sự thật, từ đó mới có thể hạn chế được các rủi

ro trong quá trình kinh doanh của các công ty KDCK.
Thêm vào đó, các quy định về thanh tra, giám sát cần phải được bổ sung cụ thể
hơn, theo đó pháp luật phòng ngừa rủi ro trong KDCK cần quy định để các chủ thể
có thể hiểu thế nào là “có dấu hiệu vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK”.
Ngoài ra nên thành lập một cơ quan mới hoặc giao trách nhiệm cho chủ thể khác
hỗ trợ UBCKNN trong việc thực hiện hoạt động thanh tra bởi hiện nay thanh tra
hoạt động KDCK do UBCKNN đảm nhiệm đang trở nên quá tải.
Nhưng trước mắt, để thực hiện tốt chức năng thanh tra, giám sát của mình,
UBCKNN cần phải:
- Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan chức năng khác
chỉ đạo tăng cường giám sát hoạt động của thị trường, phát triển thị trường
các giao dịch chính thức, tăng cường quản lý các công ty đại chúng theo
quy dịnh của LCK nhằm kiểm soát thị trường phi tập trung (OTC).
- Xây dựng chương trình và tổ chức kiểm tra định kỳ hoạt động của các tổ
chức tham gia thị trường, tập trung vào việc đánh giá các công ty niêm yết,
CTCK, công ty quản lý quỹ.
- Tăng cường công tác giám sát các hoạt động của các quỹ đầu tư chứng
khoán, đặc biệt đối với các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài.
- UBCKNN phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc
thông tin tuyên truyền với nội dung và phương thức đa dạng để công chúng
có sự hiểu biết hơn về những lợi ích cũng như những rủi ro khi tham gia thị
trường.
1.2. Các quy phạm quy định về điều kiện trở thành chủ thể kinh doanh
chứng khoán và các nghiệp vụ được phép thực hiện
Để tránh những rủi ro do sự không phân định rõ ràng chức năng và nghiệp vụ
được thực hiện của các chủ thể tiến hành hoạt động KDCK, và đảm bảo về khả năng
giải quyết các tình huống khi rủi ro xảy đến trong hoạt động KDCK, pháp luật đã có
quy định khá tách bạch đối với các nghiệp vụ mà công ty khi đáp ứng được các điều
kiện trở thành chủ thể kinh doanh được thực hiện.
Về các nghiệp vụ KDCK và các chủ thể được phép tiến hành:

Theo quy định của pháp luật hiện hành các chủ thể kinh doanh chứng khoán bao
gồm CTCK, công ty quản lý quỹ và công ty đầu tư chứng khoán.
Các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán bao gồm: nghiệp vụ môi giới chứng
khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng
khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu
tư chứng khoán (Khoản 19 Điều 6 LCK).
CTCK được phép thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh
phát hành, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán và các nghiệp vụ tài chính khác
(khoản 3 Điều 60 LCK). Công ty quản lý quỹ được phép tiến hành quản lý quỹ và
8


quản lý danh mục đầu tư chứng khoán (khoản 1 Điều 61 LCK). Công ty đầu tư
chứng khoán được tiến hành tự doanh chứng khoán (Khoản 1 Điều 96 LCK). Như
vậy việc phân định các nghiệp vụ cụ thể đối với từng chủ thể kinh doanh giúp đảm
bảo được hiệu quả của hoạt động KDCK, đảm bảo sự phát triển của thị trường.
Tuy nhiên, cần bổ sung quy định về hoạt động môi giới chứng khoán. Theo quy
định của pháp luật hiện hành, CTCK có nghĩa vụ cung cấp trung thực các thông tin
cho khách hàng khi họ có yêu cầu nhưng pháp luật lại không quy định rõ CTCK
phải có nghĩa vụ thông tin cho khách hàng về giao dịch đã thực hiện và kết quả của
giao dịch. Điều này tác động đến quyền lợi của NĐT, chính vì vậy cần thiết phải bổ
sung thêm quy định này để NĐT có thể giám sát được các giao dịch và hạn chế
được các rủi ro có thể xảy ra đến với mình.
Bên cạnh đó cũng cần bổ sung các quy định về hoạt động tự doanh chứng khoán:
LCK nước ta hiện nay đã cho phép CTCK có hoạt động tự doanh được thực hiện
nghiệp vụ bán khống (khoản 9 Điều 71 LCK). Đây được xem là một nghiệp vụ có
tính hai mặt: vừa hỗ trợ kinh doanh, vừa mang tính rủi ro. Vì vậy, nếu không được
áp dụng đúng quy định sẽ dễ gây ra những hậu quả xấu đối với KDCK và đối với
TTCK. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn nghiệp vụ
này do đó pháp luật phòng ngừa rủi ro trong KDCK cần sớm bổ sung thêm quy định

Về điều kiện trở thành chủ thể KDCK:
Thứ nhất, về hình thức pháp lý
Theo Luật doanh nghiệp hiện hành, hiện nay có các loại hình tổ chức doanh
nghiệp là CTTNHH, CTCP, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Mỗi loại
hình tổ chức trên lại có những đặc điểm riêng biệt và phù hợp với từng hoạt động
kinh doanh khác nhau. KDCK là một hoạt động đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao, có nguồn tài chính lớn và đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải ứng
phó kịp thời với các rủi ro xảy đến trong trong kinh doanh nên yêu cầu về hình thức
tổ chức doanh nghiệp đối với các chủ thể kinh doanh rất khắt khe.
Đối với công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, LCK quy định chúng phải được
“tổ chức dưới hình thức CTTNHH hoặc CTCP theo quy định của LDN” (khoản 1
Điều 59 LCK). Có thể thấy việc chọn hai hình thức tổ chức doanh nghiệp trên dựa
vào đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp này như: chúng là các công ty đối vốn,
có tư cách pháp nhân, có chế độ trách nhiệm hữu hạn, cơ chế huy động vốn hiệu quả
và mô hình quản trị doanh nghiệp chặt chẽ. Các đặc điểm này hoàn toàn phù hợp với
hoạt động KDCK – nơi có những diễn biến bất thường và tiềm ẩn nhiều rủi ro mà
đòi hỏi các chủ thể phải có khả năng ứng phó với những rủi ro ấy một cách nhanh
nhất và có hiệu quả, tránh ảnh hưởng đến toàn bộ TTCK.
Đối với công ty đầu tư chứng khoán, pháp luật quy định công ty phải được tổ
chức dưới dạng CTCP (Điều 96 LCK). Với một thị trường mới được hình thành và
đang trong quá trình phát triển đầy biến động, việc quy định hình thức tổ chức của
công ty đầu tư chứng khoán tại Việt Nam như vậy là rất phù hợp với thực tế khách
quan, nó giúp cho chủ thể này có khả năng đối phó và xử lý kịp thời các rủi ro xảy
ra trong quá trình thực hiện nghiệp vụ kinh doanh.
9


Như vậy, pháp luật chứng khoán hiện nay chỉ có các quy định điều chỉnh hoạt
động của ba chủ thể được phép thực hiện các nghiệp vụ trong KDCK là CTCK,
công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên,

trên thực tế có rất nhiều chủ thể là tổ chức, cá nhân đang tham gia các hoạt động
KDCK, đặc biệt là ở nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán. Điều này đòi
hỏi cần hoàn thiện và có thêm các quy định để điều chỉnh hoạt động của các cá
nhân, tổ chức này nhằm tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động
KDCK và hạn chế những rủi do các hoạt động của các chủ thể này mang lại.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng nên cho phép NHTM được trực tiếp KDCK và thừa
nhận là chủ thể được phép KDCK ở nước ta. Bởi, NHTM nếu xét về điều kiện thành
lập và hoạt động đều thỏa mãn được các yêu cầu về chủ thể KDCK. Thêm vào đó,
hiện nay NHTM tham gia vào TTCK nói chung và KDCK nói riêng với tư cách là
một chủ thể giám sát và thực hiện hoạt động lưu giữ tài sản của các nhà đầu tư và
CTCK. Vì vậy, với kỹ năng và chuyên môn cao về việc quản lý tiền và tư vấn đầu tư
cho khách hàng, NHTM nên được pháp luật cho phép thực hiện các nghiệp vụ
KDCK.
Thứ hai, về điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật
Điều kiện về cơ sở kĩ thuật, trang thiết bị hạ tầng là điều kiện đầu tiên, được đặt
lên đầu tiên đối với việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động của CTCK và công ty
quản lý quỹ. Theo đó, doanh nghiệp phải có: “Có trụ sở, có trang bị, thiết bị phục
vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán, đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán thì không phải đáp ứng điều kiện về trang bị,
kĩ thuật” (Điểm a Khoản 1 Điều 62 LCK).
Thứ ba, điều kiện vốn pháp định
Hoạt động KDCK đòi hỏi phải có số vốn lớn nhằm kịp thời giải quyết những rủi
ro có thể xảy ra trong quá trình diễn ra hoạt động. Do đó pháp luật có những quy
định cụ thể về số vốn pháp định mà các chủ thể phải đáp ứng khi đăng kí thực hiện
một trong các nghiệp vụ KDCK, đó là:
Đối với CTCK, CTCK có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh CTCK nước ngoài
tại Việt Nam thì yêu cầu về vốn pháp định cho nghiệp vụ “môi giới chứng khoán là
25 tỷ đồng Việt Nam, tự doanh chứng khoán là 100 tỷ đồng, bảo lãnh phát hành
chứng khoán là 165 tỷ đồng, tư vấn đầu tư chứng khoán là 10 tỷ đồng, trong trường
hợp tổ chức đề nghị được cấp giấy phép để được hoạt động nhiều nghiệp vụ kinh

doanh thì vốn pháp định sẽ là tổng số vốn pháp định tương ứng với mỗi nghiệp vụ
xin cấp phéP” (khoản 1, khoản 2 Điều 18 Nghị định 14/2007/NĐ-CP). Việc quy
định số vốn pháp định như trên đối với từng loại hình kinh doanh đã được nâng lên
cao hơn khá nhiều so với quy định trước kia. “Đối với công ty quản lý quỹ, công ty
quản lý quỹ có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty quản lý quỹ nước ngoài tại
Việt Nam thì số vốn pháp định phải đạt 25 tỷ đồng” (khoản 3 Điều 18 Nghị định
10


14/2007/NĐ-CP). “Đối với công ty đầu tư chứng khoán, số vốn mà pháp luật quy
định là 50 tỷ đồng” (Điểm a khoản 1 Điều 97 LCK).
Thứ tư, điều kiện về đội ngũ nhân viên
Đối với cá nhân khi thực hiện hoạt động KDCK, trước hết họ phải đáp ứng được
yêu cầu có đủ năng lực hành vi dân sự, đồng thời để được cấp chứng chỉ hành nghề
chứng khoán, các cá nhân này phải đáp ứng được các quy định tại Điều 170 LCK.
Đối với CTCK và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, pháp luật quy định giám
đốc hoặc tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ KDCK phải có
“chứng chỉ hành nghề chứng khoán” (Điểm c Khoản 1 Điều 62 LCK).
Như vậy đội ngũ nhân viên là yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của
doanh nghiệp. TTCK là thị trường tiềm ẩn nhiều rủi ro vì vậy mà yêu cầu đối với
đội ngũ nhân viên cũng được đặt ra nghiêm ngặt.
1.3. Nghĩa vụ thực hiện biện pháp phòng ngừa rủi ro của chủ thể KDCK
Phòng ngừa rủi ro trong KDCK không chỉ là nhiệm vụ của riêng cơ quan quản lý
Nhà nước, mà chính các chủ thể trực tiếp tham gia hoạt đọng KDCK phải là người
đầu tiên tự có các cơ chế bảo vệ mình trước các rủi ro có thể xảy đến. Trong pháp
luật phòng ngừa rủi ro trong KDCK, điều này được xem là nghĩa vụ của chủ thể
kinh doanh. Pháp luật đã có những quy định khung thống nhất cho tất cả các chủ
thể, tạo cơ sở nền tảng để họ thực hiện.
Thứ nhất, quy định về cơ chế quản lý vốn.
Trong quá trình KDCK, vốn khả dụng cũng là một tiêu chí định ức an toàn, nếu

vốn khả dụng giảm xuống dưới 120% mức quy định, chủ thể KDCK sẽ bị cảnh cáo
và yêu cầu khắc phục (Điều 74 LCK). Quy định này nhằm đảm bảo các chủ thể có
nguồn tài chính dự phòng, tránh tình trạng mất khả năng thanh toán nhất thời. Ngoài
ra, trong thời kỳ hoạt động, mọi giao dịch làm thay đổi quyền sở hữu cổ phần hay
phần vốn góp chiếm từ 10% vốn điều lệ CTCK, công ty quản lý quỹ đều phải được
UBCKNN chấp thuận, trừ trường hợp cổ phiếu của các công ty đó đã được niêm
yết. Thêm vào đó, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập không được chuyển
nhượng cổ phần hoặc phần vốn góp của mình trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày được
cấp giấy phép thành lập và hoạt động, trừ trường hợp chuyển nhượng cho cổ đông
sáng lập,thành viên sáng lập khác trong công ty. Họ phải cùng nhau nắm giữ ít nhất
20% vốn điều lệ của CTCK trong vòng 3 năm kể từ khi được cấp giấy phép thành
lập và hoạt động.
Như vậy, có thể thấy các nhà làm luật nước ta đã quy định rất chi tiết về mức
vốn, nguốn vốn góp của chủ thể KDCK. Điều này là rất cần thiết để giảm thiểu tối
đa những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động KDCK của họ.Tuy nhiên,
pháp luật phòng ngừa rủi ro trong KDCK nên điều chỉnh mức vốn pháp định đối với
các chủ thể KDCK. Thực tế cho thấy, với quy định mức vốn tối thiểu cho từng
nghiệp vụ KDCK như nước ta hiện nay là cao so với nhiều nước trên thế giới, và
11


cao hơn so với so với quy định về mức vốn pháp định đối với hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm ở nước ta. Việc điều chỉnh mức vốn pháp định
đối với các chủ thể KDCK theo hướng giảm thấp hơn hiện nay sẽ tạo ra sự bình
đẳng giữa các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh ở các lĩnh vực
khác nhau. Ngoài ra, nó đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều công ty KDCK được thành
lập và hoạt động, làm gia tăng tính cạnh tranh của các công ty này trên thị trường,
dẫn đến chất lượng dịch vụ sẽ tăng cao, chi phí giao dịch sẽ được giảm để thu hút
NĐT..., nó mang lợi không chỉ cho NĐT mà còn cho cả TTCK.
Thứ hai, quy định về hạn chế đầu tư

Hạn chế đầu tư là một yếu tố lớn trong quản lý vốn của chủ thể KDCK. Hạn chế
đầu tư giúp chủ thể phân tán rủi ro trong kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động
KDCK. Đối với CTCK, pháp luật quy định không được đầu tư vào cổ phiếu của
công ty là cổ đông lớn, chiếm tỷ lệ lớn vốn điều lệ của công ty, đầu tư từ 20% trở
lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không niêm yết và đầu tư hoặc
góp vốn từ 15% trở lên tổng số vốn góp của một CTTNHH.
Đối với công ty quản lý quỹ, không được đầu tư vào quỹ do mình quản lý, không
đầu tư vào công ty quản lý khác hoặc CTCK khác. Ngoài ra, hạn chế đầu tư với tài
sản của chính mình khi quản lý quỹ đại chúng, công ty quản lý quỹ (và công ty đầu
tư chứng khoán tự quản lý vốn) còn phải tuân thủ hạn chế đầu tư đối với quỹ do
mình quản lý...
Những hạn chế trên không chỉ phân tán rủi ro trong quá trình đầu tư, chúng còn
hạn chế CTCK, công ty quản lý quỹ đầu tư và công ty đầu tư chứng khoán đầu tư
vào các tổ chức tài chính liên quan, nhằm tránh sự đổ vỡ toàn hệ thống, ảnh hưởng
đến nền tài chính quốc gia.
Nhưng cũng cần điều chỉnh quy định về hạn chế đầu tư. Bởi nếu áp dụng các quy
định về hạn chế đầu tư như pháp luật hiện hành thì đối với những chủ thể KDCK có
khả năng tài chính rất lớn, giá trị của 15 % tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành
của một tổ chức phát hành, 15 % tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức
không niêm yết, 15% tổng số vốn góp của CTTNHH không chiếm tỉ lệ đáng kể của
công ty hay tài sản quỹ thì những giới hạn mà pháp luật đã quy định vô hình chung
đã đã hạn chế khả năng đầu tư của các chủ thể KDCK.
Thứ ba, quy định về chế độ báo cáo và công bố thông tin
Chế độ báo cáo giúp cơ quan quản lý chứng khoán kiểm soát tình hình hoạt động
của các chủ thể kinh doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhằm tránh
những rủi ro có thể xảy ra đến, các chủ thể KDCK phải thực hiện hai chế độ báo
cáo: báo cáo định kỳ và báo cáo bất thường. Báo cáo định kỳ bao gồm báo cáo tài
chính, báo cáo tình hình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có
báo cáo bất thường phản ánh những sự kiện đột xuất, bất thường diễn ra đối với các
chủ thể KDCK. Việc quy định về chế độ báo cáo giúp cho các chủ thể hạn chế được

rủi ro bởi trong trường hợp họ không tự giải quyết được các vấn đề phát sinh thì
UBCKNN sẽ có biện pháp xử lý kịp thời, phù hợp với tình hình chung của TTCK.
Thứ tư, quy định về cơ chế kiểm soát nội bộ.
12


Pháp luật phòng ngừa rủi ro trong KDCK đã có những quy định buộc chủ thể
KDCK phải thực hiện cơ chế kiểm soát nội bộ dựa trên nguyên tắc quy định tại Điều
28 LCK. Điều này được cụ thể hóa trong các điều luật khác của LCK như Điều 71,
72... bao gồm: kiểm soát việc tuân thủ quy trình nghiệp vụ của các bộ phận kinh
doanh và của người hành nghề chứng khoán, kiểm toán báo cáo tài chính, giám sát
tỷ lệ vốn khả dụng và các tỷ lệ an toàn tài chính, “thiết lập hệ thống kiểm soạt nội
bộ, quản trị rủi ro và giám sát, ngăn ngừa những xung đột lợi ích trong nội bộ công
ty và trong giao dịch với người có liên quan”... Việc quy định như vậy là nhằm bảo
đảm tính khách quan, chính xác của hoạt động kiểm soát của doanh nghiệp cũng
như của cơ quan quản lý Nhà nước về KDCK. Nó cũng góp phần giảm thiểu được
những rủi ro xảy ra đối với doanh nghiệp khi KDCK.
1.4. Xử lý vi phạm trong hoạt động KDCK
Việc quy định các chế tài xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm trong hoạt
động KDCK là một biện pháp cần thiết để hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Điều này
không chỉ đạt ra đối với các chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động KDCK mà còn
được đặt ra với chính các NĐT tham gia vào bất cứ giao dịch nào trên thị trường.
Bởi việc tuân theo pháp luật là cơ sở đảm bảo một phần cho những rủi ro được hạn
chế ở mức thấp nhất.
Có thể thấy, vi phạm trong KDCK xảy ra khi các chủ thể thực hiện hoạt động
này thiếu tôn trọng pháp luật (bởi đó là các hành vi bị cấm được quy định tại Điều 9
LCK 2006), việc xử lý vi phạm trở thành một nguyên tắc pháp lý (Điều 118) với
hình thức xử phạt và mức phạt đa dạng. Theo đó có các hình thức: phạt hành chính,
buộc bồi thường thiệt hại, xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự. Tùy vào mức
độ vi phạm mà áp dụng mức phạt khác nhau. LCK phân định việc xử lý đối với

nhóm quy định bị vi phạm khác nhau một cách rõ ràng: xử lý vi phạm quy định về
hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng (Điều 121), về công ty đại chúng
(Điều 122), về niêm yết chứng khoán (Điều 123), về tổ chức thị trường giao dịch
(Điều 124)... Trong đó, Điều 125 về xử lý hành vi vi phạm quy định về hoạt động
KDCK và chứng chỉ hành nghề chứng khoán đã liệt kê tương đối cụ thể những hành
vi vi phạm, trong đó có những vi phạm pháp luật của các chủ thể KDCK.
Hiện nay, các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật KDCK còn chưa mang
lại hiệu quả như mong muốn, trên thực tế, các hành vi vi phạm này vẫn diễn ra.
Nguyên nhân chủ yếu là do mức phạt các hành vi vi phạm này vẫn còn rất thấp. Do
đó, cần phải hoàn thiện pháp luật phòng ngừa rủi ro trong KDCK theo hướng tăng
mức xử phạt lên cao hơn để các quy định này thực sự mang tính chất răn đe đối với
các chủ thể KDCK; từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật.
Đòng thời với việc nâng mức phạt đối với hành vi vi phạm, pháp luật nước ta
cũng nên sửa đổi, bổ sung quy định về chế tài “tịch thu các khoản thu nhập trái
phép” do hành vi vi phạm của chủ thể mang lại. Theo đó, ngoài việc tịch thu toàn bộ
các khoản thu nhập trên, các chủ thể vi phạm này còn phải nộp phạt theo lần thu
nhập có được do hành vi vi phạm mà có.
Ngoài ra, pháp luật phòng ngừa rủi ro trong hoạt động KDCK cần phải hoàn
thiện các quy định xử lý vi phạm phù hợp và thống nhất với hệ thống pháp luật
13


trong nước, đặc biệt là đối với các quy định về xử lý hình sự đối với các hành vi vi
phạm pháp luật chứng khoán của chủ thể kinh doanh.
2. Giải pháp đối với công ty nêm yết
Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và công tác quản trị công ty
Thời gian qua, niềm tin của NĐT ít nhiều bị gia sút khi thị trường có những đợt
điều chỉnh sâu và mạnh. Muốn lấy lại sự quan tâm của NĐT, các công ty niêm yết
phải chính mình nâng cao hiệu quả hoạt động KDCK, phải có một chiến lược kinh
doanh rõ ràng, đầu tư hiện đại hóa công nghệ, mở rộng thị trường, đào tạo nhân lực

có chất lượng cao, lành mạnh và minh bạch trong công tác tài chính – kế toán.
Theo quy định tại Nghị định số 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/1/2007
quy định chi tiết thi hành một số điều của LCK thì: chứng khoán bị hủy bỏ niêm yết
khi tổ chức niêm yết lỗ trong 3 năm liên tục hoặc bị sáp nhập, hợp nhất, giải thể hay
phá sản; Doanh nghiệp ngừng hoạt động kinh doanh chính từ 1 năm trở lên hoặc bị
thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực chuyên ngành cũng phải
rời sàn. Chính những quy định khắt khe này buộc các doanh nghiệp niêm yết phải
không ngừng nỗ lực cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề quản trị công ty
ngày càng trở thành vấn đề thời sự của hầu hết các quốc gia trên thế giới nhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp và nền kinh tế. Do đó, các
doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam cần thiết phải xây dựng cho mình một
thông lệ quản trị công ty. Các doanh nghiệp thực hiện quản trị công ty tốt có xu
hướng kiểm soát rủi ro liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp một
cách tốt hơn.
3. Giải pháp đối với CTCK
Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho NĐT
Một trong những giải pháp chiến lược để nâng cao hoạt động đầu tư, giảm thiểu
rủi ro trong đầu tư chứng khoán, tạo cầu nối cho cung cầu chứng khoán gặp nhau là
phải mở rộng phát triển quy mô và nâng cao chất lượng dịch vụ hoạt động của các tổ
chức tài chính trung gian, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nghiệp vụ và tính
chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ.
Nhu cầu được tư vấn của NĐT cá nhân rất cao, nhất là thời điểm hiện nay, khi thị
trường không còn cảnh mua đâu thắng đó nên NĐT rất cần có nhiều thông tin, có
người trao đổi trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Để nâng cao chất lượng dịch
vụ, thu hút nhiều hơn các NĐT tham gia và nhằm hạn chế rủi ro cho các NĐT, các
CTCK cần phát triển các hình thức tư vấn đầu tư và nâng cao năng lực hiệu quả hoạt
động tư vấn cho hách hàng.
Để giúp cho các NĐT có thể tiếp cận một cách nhanh chóng và thuận tiện với
TTCK mọi lúc, mọi nơi thì các CTCK cần hiện đại hóa hệ thống giao dịch, mở rộng

giao dịch qua mạng Internet, tin nhắn, điện thoại, fax... Bên cạnh đó, các CTCK
cũng cần phải mở rộng phạm vi hoạt động, các chi nhánh, phòng giao dịch và các
địa lý nhận lệnh để tạo điều kiện cho tất cả các NĐT ở các tỉnh, thành phố không có
sàn giao dịch được tiếp cận với TTCK. Hệ thống công nghệ thông tin của một số
CTCK còn rất yếu kém, đặc biệt à khả năng bảo mật hệ thống. Vì vậy, đầu tư công
14


nghệ là một yêu cầu cấp bách hiện nay của các CTCK. Có như vậy, TTCK mới trở
nên công bằng hơn và quyền lợi NĐT mới ít bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, để tạo môi trường cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách
hàng về nên khuyến khích các định chế tài chính trung gian nước ngoài tham gia
vào việc cung cấp các dịch vụ cho NĐT. Sự ra đời của các thành viên mới sẽ tạo
thêm cơ hội lựa chọn cho NĐT, tạo áp lực cạnh tranh để các thành viên không
ngừng phát triển hơn, tiến sâu hơn theo định hướng mở rộng hoạt động và chuyên
sâu trong nghiệp vụ, thậm chí nếu có đào thải, đó cũng là quy luật chung của thị
trường. Với chất lượng dịch vụ ngày càng nâng cao thì các NĐT phần nào hạn chế
được những rủi ro không đáng có của mình.
4. Giải pháp đối với các NĐT
4.1. Đa dạng hóa danh mục đầu tư
Đầu tư chứng khoán là chuyển hóa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thành vốn
đầu tư dài hạn có lợi cho việc huy động tập trung vốn. Thông qua TTCK, hoạt động
này phân bổ một cách hữu hiệu các nguồn lực, thực hiện phân phối hợp lý và sử
dụng vốn nhưng những ai tham gia vào sân chơi này cũng phải nếm trải những rủi
ro mà thị trường gây ra. Tuy nhiên, có những nguyên tắc cơ bản của đầu tư chứng
khoán để một NĐT có thể tối thiểu hóa được rủi ro và tối đa hóa được lợi ích, một
trong những nguyên tắc đó là phân tán đầu tư.
Đa dạng hóa danh mục đầu tư chính là phân tán rủi ro, việc bỏ vốn vào đầu tư
vào các trái phiếu, cổ phiếu có độ rủi ro khác nhau dựa trên những tỉ lệ đầu tư không
giống nhau trên thị trường để xây dựng nên một cơ cấu tài sản hợp lý nhằm hạn chế

tối đa rủi ro đầu tư. Hơn thế nữa, việc đa dạng hóa danh mục đầu tư còn giúp NĐT
gắn liền lợi ích cá nhân vào nhiều ngành như: công nghệ thông tin, ngân hàng, bất
động sảm... Phân tán hóa đầu tư chứng khoán tuy không hoàn toàn có thể xóa bỏ
được hết các rủi ro nhưng nó có thể làm giảm thiểu tối đa mức rủi ro đó. “Không
nên để tất cả trứng vào cùng một rổ” là câu nói minh chứng cho trường hợp này.
4.2. Quản lý và kiểm soát rủi ro
Song song với việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, để đạt được tỷ lệ lợi nhuận cao
đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong đầu tư chứng khoán, vấn đề đặt ra
đối với các NĐT là phải quản lý được mức rủi ro này. Vấn đề quan trọng nhất trong
quản trị rủi ro là phải xây dựng được quy trình quản lý rủi ro. Thông thường quản lý
rủi ro được chia thành 5 bước:
Bước 1: Nhận dạng rủi ro.
Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro.
Bước 3: Đánh giá tác động của rủi ro.
Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm rủi ro.
Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp.
Bên cạnh đó, để quá trình đầu tư được thành công đòi hỏi NĐT thực hiện tốt quá
trình kiểm soát rủi ro các khoản đầu tư. Vẫn còn rất nhiều rủi ro tiềm ẩn trên thị
trường sẵn sàng “ập tới” NĐT nếu họ lơ là mà bỏ qua giai đoạn này. Mỗi người có
những cách khác nhau để chăm sóc và kiểm soát rủi ro các khoản đầu tư của mình.
4.3. Kết hợp phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản
15


Trước khi quyết định đầu tư, mua hoặc bán một loại cổ phiếu nào đó, một điều
không thể thiếu đối với các NĐT chuyên nghiệp là thông qua việc phân tích cơ bản
và phân tích kỹ thuật để tìm ra giá trị nội tại của cổ phiếu và dự báo sự thay đổi giá
của cổ phiếu đó trong tương lai.
Cả hai phương án phân tích này đều đóng vai trò thiết yếu trong đầu tư chứng
khoán bởi vì NĐT có thể xác định được các loại chứng khoán đang giao dịch không

đúng với giá trị thực thông qua phân tích cơ bản, đồng thời NĐT cũng có thể xác
định được thời điểm thích hợp để mua hoặc bán chứng khoán thông qua phân tích
kỹ thuật. Điều này có nghĩa là NĐT đã có trong tay một công cụ phân tích kết hợp
rất hiệu quả.
5. Một số biện pháp khác
5.1. Nâng cao chất lượng hoạt động công bố và minh bạch hóa thông tin
của các chủ thể tham gia trên thị trường.
Công khai hóa và minh bạch hóa thông tin là yếu tố bắt buộc đối với mọi chủ thể
phát hành chứng khoán. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết cho một
TTCK minh bạch, NĐT chỉ thực sự yên tâm khi thông tin trên thị trường có tính
hoàn hảo cao. Điều 9 LCK 2006 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm: “Trực tiếp
hoặc gián tiếp thực hiện hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật
hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu lầm, gây hậu quả nghiêm trọng...”. Song
song với điều đó là các biện pháp chế tài đảm bảo việc thực thi nghiêm chỉnh các
quy định trên.
Cơ quan chức năng cần có cơ chế để ràng buộc các công ty niêm yết tuân thủ
nguyên tắc công bố thông tin ra thị trường. Đồng thời đưa ra công cụ quản lý hiệu
quả để tạo tính công khai, minh bạch; sớm triển khai hiệu quả LCK có cơ chế, chính
sách gắn với quyền lợi, trách nhiệm của doanh nghiệp sau cổ phần hóa; ban hành
quy định giám sát chống độc quyền... Bộ Tài chính, UBCKNN cần có quy định về
việc cung cấp thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho NĐT. UBCKNN cần chủ động
xác minh tính chính xác của thông tin để đề phòng trường hợp các thông tin gây
nhiễu thị trường và công bố kết quả trên website của UBCKNN, TTGDCK được
cập nhật liên tục. NĐT có thể dùng bất cứ biện pháp gì nhưu email, điện thoại, fax...
để tìm hiểu thông tin về doanh nghiệp tránh mua bán dựa theo tin đồn. Có như vậy,
NĐT mới dễ dàng tiếp cận thông tin hơn.
Để bình đẳng về quyền giao dịch, UBCKNN, TTGDCK cần tách bạch hoạt động
tự doanh của CTCK ra khỏi hoạt động môi giới, trong đó công khai mã số tự doanh.
Ngoài ra, việc mở tài khoản tự doanh tại một đơn vị khác cũng sẽ hạn chế hiện
tượng sử dụng lợi thế về thông tin để “hớt váng” thị trường như hiện nay.

5.2. Nâng cấp và phát triển hệ thống thông tin
Để khắc phục tình trạng quá tải lệnh giao dịch của NĐT, sở giao dịch và
TTGDCK cần phải đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại để cải tiến hệ thống kỹ thuật
giao dịch. Phát triển đồng bộ hệ thống giao dịch kết nối Sở, Trung tâm với các
CTCK, trước hết là giải quyết được tình trạng quá tải tại sản giao dịch, thứ hai là với
hệ thống giao dịch hoàn hảo sẽ tự động sàng lọc những lệnh được chấp nhận để
chuyển thẳng vào Sở và Trung tâm. Bên cạnh đó, cần sớm đầu tư nâng cao năng lực
16


cho TTGDCK để giảm thời gian thanh toán từ T+3 xuống còn T+2 hoặc T+1, tạo
vòng quay tiền – hàng nhanh hơn, góp phần hạn chế phần nào rủi ro cho NĐT.
Lợi ích của việc nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin trên nhằm giảm tải
những thao tác thủ công và giúp việc đặt lệnh vào hệ thống được nhanh chóng hơn,
làm tăng lượng giao dịch thành công cho NĐT.
5.3. Hình thành và phát triển các định chế trung gian.
Hiện nay, số tổ chức phát triển cộng đồng ở nước ta còn quá ít so với nhu cầu thị
trường cũng như so với các nước trên thế giới. Hiện tại, trên TTCK Việt Nam mới
chỉ có Hiệp hội các NĐT tài chính và Hiệp hội KDCK. Vì vậy, nên có chính sách
phát triển các hình thức này để thu hút các NĐT tiềm năng cũng như các NĐT chiến
lược và củng cố thêm lòng tin của các NĐT hiện tại. Nhà nước cần có chính sách
khuyến khích sự ra đời và phát triển các định chế tài chính trung gian như: Hiệp hội
đầu tư chứng khoán, Hiệp hội tư vấn chứng khoán, Hiệp hội bảo vệ các NĐT...
Để TTCK phát triển, việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm là vấn đề hết sức
cần thiết. Trong điều kiện mức độ hiểu biết của công chúng đầu tư còn hạn chế, các
kênh cung cấp thông tin và đánh giá đúng rủi ro còn rất ít hoặc chưa có, sự xuất hiện
của tổ chức định mức tín nhiệm sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin cho cộng đồng
đầu tư, và chính bảng xếp hạng của tổ chức định mức tín nhiệm sẽ làm cho NĐT
yên tâm hơn khi quyết định đầu tư vào một loại chứng khoán nào đó. Việt Nam đã
có TTCK, song hoạt động của các tổ chức định mức tín nhiệm vẫn chưa xuất hiện.

Nhưng vì vai trò của tổ chức này là rất quan trọng, trong khi đó Việt Nam lại đang
trong quá trình hội nhập quốc tế, tự do hóa tài chính và phát triển TTCK, nên việc
thành lập và đưa tổ chức định mức tín nhiệm vào hoạt động tại Việt Nam là hết sức
cần thiết.
5.4. Phổ biến, tuyên truyền kiến thức về chứng khoán và TTCK
Một trong những hạn chế lớn nhất của NĐT trên TTCK Việt Nam là kiến thức
hiểu biết về chứng khoán và TTCK và đây cũng là một trong những nguyên nhân
khiến họ chịu nhiều thua lỗ trong thời gian qua. Điểm yếu nhất trong hơn 10 năm
qua kể từ ngày thành lập UBCKNN và những năm hoạt động của TTCK Việt Nam
là vấn đề phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK. Có thể nói ở lĩnh vực này
chúng ta làm chưa tốt và chưa theo kịp sự phát triển của TTCK. NĐT cá nhân hiện
vẫn đầu tư theo phong trào, thiếu sự phân tích độc lập hay có được sự tư vấn đủ chất
lượng của các tổ chức tài chính, ngân hàng, CTCK. Sự hiểu biết về chứng khoán và
TTCKcó nhiều ý nghĩa to lớn, nó không chỉ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu
tư cho công chúng, góp phần gia tăng lượng vốn đầu tư mà còn giúp bình ổn tâm lý
NĐT trước những “cơn sóng” thị trường. Do đó, để TTCK Việt Nam phát triển bền
vững và giảm thiểu những rủi ro cho NĐT, thu hút họ tham gia nhiều hơn nữa vào
thị trường thì Chính phủ, UBCKNN cần phải có biện pháp sau:
- Mở rộng tuyên truyền, phổ cập kiến thức cho công chúng trên các phương
tiện thông tin đại chúng như: báo chí, đài truyền hình, mạng Internet, các
khóa đào tạo miễn phí, các chuyên mục về CK và TTCK...

17


- Tổ chức các trò chơi tìm hiểu về chứng khoán và TTCK trên các phương
tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí, tổ chức các cuộc thi chứng khoán
ảo... cũng là biện pháp phổ biến kiến thức cho công chúng.
- Các trường Đại học tiếp tục hình thành và phát triển bộ môn chứng khoán,
vừa phục vụ công tác đào tạo tại trường, vừa đáp ứng nhu cầu học hỏi nâng

cao trình độ của những người làm việc trong lĩnh vực này.
KẾT LUẬN
Có thể thấy rủi ro trong KDCK có tác động rất lớn tới không chỉ NĐT, chủ thể
KDCK mà còn tới cả TTCK và nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, các biện pháp
phòng ngừa rủi ro trong KDCK luôn đóng vai trò rất quan trọng để hạn chế được tối
đa những tác động của những rủi ro đó. Nhưng với thực tế hiện nay thì cần thiết
phải tiến hành hoàn thiện PL về CK và TTCK nói chung và pháp luật về phòng
ngừa rủi ro trong hoạt động KDCK nói riêng để TTCK Việt Nam hoạt động hiệu
quả và đúng pháp luật, thực hiện tốt chức năng huy động và luân chuyển vốn phục
vụ công cuộc phát triển kinh tế đất nước.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật chứng khoán, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2008.
2. Luật doanh nghiệp năm 2005.
3. Luật chứng khoán năm 2006.
4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán số 62/2010/QH12.
5. Nghị định số 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và thị trường
chứng khoán
6. Nghị định số 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/1/2007 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật chứng khoán.
7. Nghị định số 84/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 2/8/2010 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 14/2007/NĐ-CP.
8. Vũ Thị Ngọc Ánh, Pháp luật phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh
chứng khoán, khóa luận tố nghiệp. hà nội 2011
9. />option=com_content&view=article&id=166&catid=54:kien-thuc-chungkhoang&Itemid=411
10. />11. />

19



×