Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Pháp luật vềchào bán chứng khoán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực trạng và các đề xuất pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.33 KB, 14 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đối với nền kinh tế hiện nay, chào bán chứng khoán là một hoạt động
cần thiết nhằm huy động nguồn vốn để thúc đẩy các hoạt động kinh doanh.
Do đó, với tính chất đặc thù của chứng khoán và của thị trường giao dịch
loại hàng hóa này, pháp luật Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đều
ban hành những quy định pháp luật nhằm điều chỉnh toàn bộ quá trình vận
động của chứng khoán, từ khi một loại chứng khoán nào đó ra đời cho đến
khi nó chấm dứt lưu hành trên thị trường, trong đó có hoạt động chào bán
chứng khoán của các chủ thể có quyền phát hành chứng khoán.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta sẽ đề cập đến hoạt động chào
bán chứng khoán của một chủ thể đặc biệt, đó là các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc tìm hiểu hệ thống pháp luật điều chỉnh
và thực trạng hoạt động chào bán chứng khoán của doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài ở nước ta có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận lẫn thực tiễn.
Với lí do đó, trong bài viết này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu “Pháp luật về
chào bán chứng khoán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực
trạng và các đề xuất pháp lý”.
Tuy nhiên, vì lí do khách quan và chủ quan, bài viết của em vẫn còn
có nhiều thiếu sót, mong các thầy cô giáo bộ môn bổ sung thêm để bài viết
của em được hoàn thiện, đầy đủ hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN


1. Chứng khoán
Theo quy định tại Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì chứng
khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể
hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm
các loại sau đây: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần,
chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm
chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
2. Chào bán chứng khoán
a) Khái niệm, đặc điểm
Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút
vốn đầu tư nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán.
Chứng khoán thường được chào bán theo hai phương thức: chào bán
riêng lẻ và chào bán ra công chúng.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc tổ chức chào bán chứng khoán
cho dưới 100 nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và không sử dụng
phương tiện thông tin đại chúng hoặc internet (Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật chứng khoán).
Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán
theo một trong các phương thức sau đây: (1) Thông qua phương tiện thông
tin đại chúng, kể cả internet; (2) Chào bán chứng khoán cho từ 100 nhà đầu
tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; (3) Chào bán
cho một số lượng nhà đầu tư không xác định (Khoản 12 Điều 6 Luật Chứng
khoán 2006).
Đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán:
- Chủ thể chào bán chứng khoán rất đa dạng, có thể là Chính phủ,
chính quyền địa phương và các doanh nghiệp (công ty cổ phần và công ty
TNHH).
2



- Đối tượng của chào bán chứng khoán là chứng khoán. Chứng khoán
là hàng hóa không thể thiếu của thị trường chứng khoán. Vì vậy, muốn thị
trường chứng khoán đi vào hoạt động thì phải đưa hàng hóa là chứng khoán
vào lưu thông ở thị trường này.
- Chào bán chứng khoán chỉ được thực hiện trên thị trường sơ cấp.
Thị trường này là nơi diễn ra giao dịch trực tiếp giữa tổ chức chào bán và
nhà đầu tư. Theo đó, chứng khoán được bán được bán lần đầu cho nhà đầu
tư. Điều đó có nghĩa là thông qua thị trường sơ cấp, những nguồn đầu tư mới
thực sự chuyển cho tổ chức chào bán.
b) Vai trò
Chào bán chứng khoán có vai trò quan trọng không chỉ với chủ thể
chào bán mà còn đối với cả nền kinh tế nói chung.
Đối với các doanh nghiệp, chào bán chứng khoán là kênh huy động
vốn rất quan trọng, giúp các doanh nghiệp giải quyết được những khó khăn
về vốn mà không bị phụ thuộc quá nhiều vào vốn tín dụng ngân hàng, tiết
kiệm được chi phí. Hơn nữa, chào bán chứng khoán có khả năng đem lại cho
doanh nghiệp các nguồn vốn dài hạn và ổn định hơn so với nguồn vốn vay
từ ngân hàng.
Đối với nền kinh tế, chào bán chứng khoán sẽ đem lại nguồn vốn cần
thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Khoản 6 Điều 3 Luật Đầu tư định nghĩa doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện
hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc là doanh nghiệp Việt Nam do nhà nước
ngoài mua cổ phần, sát nhập, mua lại.
Pháp luật hiện hành quy định tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu
tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài theo các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần , công

ty hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

3


4. Chào bán chứng khoán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển sang hoạt động
theo hình thức công ty cổ phần cũng là lực lượng quan trọng trong việc cung
cấp hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài ở Viêt Nam nhằm thực hiện một số mục tiêu sau:
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp có vốn đâu tư nước ngoài. Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức đầu tư.
Thứ ba, tăng tính thanh khoản đối với khoản vốn đầu tư nước ngoài, việc
hình thành công ty cổ phần cho phép các nhà đầu tư có thể nhanh chóng và
thuận tiện trong việc chuyển nhượng cổ phần. Thứ tư, cổ phần hóa sẽ huy
động được vốn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đối với các công ty
cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài với thuận lợi về khả năng quản lí, kinh
nghiệm, kĩ thuật, công nghệ chắc chắn sẽ thu hút được các nhà đầu tư. Sự ra
đời của các công ty cổ phần này sẽ cung ứng nhiều hàng hóa có chất lượng
cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam đã
có những quy định khá cụ thể để tạo ra sự bình đẳng tương đối cho các
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham
gia chào bán chứng khoán. Tùy theo nhu cầu của doanh nghiệp cũng như để
phù hợp với quy định của pháp luật mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài sẽ chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần có thể thông qua
phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng hay chào bán chứng
khoán riêng lẻ.
II.


PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN CỦA
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT
NAM

Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 38/2003/NĐ-CP về việc chuyển
đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình
thức công ty cổ phần, doanh nghiệp được chuyển đổi theo các hình thức sau:
- Giữ nguyên giá trị doanh nghiệp và chủ đầu tư
- Chuyển nhượng một phần giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông
mới.

4


- Giữ nguyên giá trị doanh nghiệp hoặc chuyển nhượng một phần
vốn và phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn đầu tư.
Có thể thấy, chủ thể chào bán chứng khoán ở đây là doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, tức là doanh nghiệp
liên doanh hoặc doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài, được thành
lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được chào bán cổ phần đến
các đối tượng gồm: tổ chức, cá nhân Việt Nam; doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định
cư ở nước ngoài (đối tượng này có quyền tự quyết định là cổ đông nước
ngoài hay cổ đông Việt Nam song phải đăng kí khi mua cổ phần và được
hưởng các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ tương ứng).
Loại hình doanh nghiệp này có thể chào bán chứng khoán ra công
chúng hoặc chào bán chứng khoán riêng lẻ để chuyển đổi thành công ty cổ
phần. Tuy nhiên, đầu tiên các doanh nghiệp này phải đáp ứng điều kiện cần
thiết để được chuyển đổi thành công ty cổ phần. Đó là chủ doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài phải là cổ đông sáng lập. Trường hợp có nhiều chủ
doanh nghiệp thì ít nhất phải có một chủ doanh nghiệp là cổ đông sáng lập.
Phương án chuyển đổi của doanh nghiệp phải được Bộ kế hoạch và Đầu tư
chủ trì lấy ý kiến các bộ, ngành liên quan và trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét và phê duyệt.
1. Chào bán chứng khoán ra công chúng
Theo quy định tại Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 về
hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán 2006, điều
kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài chia làm hai trường hợp.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành
công ty cổ phần kết hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng, pháp luật quy
định những điều kiện sau đây. Thứ nhất, doanh nghiệp có mức vốn điều lệ
đã góp tại thời điểm đăng kí chào bán từ 10 tỉ đồng Việt Nam trở lên tính
theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền
trước năm đăng kí phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm
đăng kí chào bán. Thứ ba, có phương án phát hành và phương án sử dụng
vốn thu được từ đợt chào bán được chính doanh nghiệp 100% vốn nước
5


ngoài hoặc Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh thông qua. Thứ tư, có
công ty chứng khoán tư vấn trong việc lập hồ sơ chào bán cổ phiếu.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển đổi thành
công ty cổ phần khi chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng sẽ đáp ứng các
điều kiện giống như điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng của
công ty cổ phần và thêm điều kiện có công ty chứng khoán tư vấn trong việc
lập hồ sơ chào bán cổ phiếu.
Ngay sau khi Nghị định 14/2007/NĐ-CP được ban hành thì ngày
29/1/2007, Công ty Cổ phần Quốc tế Hoàng Gia chính thức được UBCKNN

cấp giấy chứng nhận cho công ty được phép chào bán cổ phiếu ra công
chúng. Trước đó, vào năm 2005, khi chủ trương của Chính phủ cho phép
công ty có vốn đầu tư nước ngoài được chuyển sang hình thức cổ phần,
Hoàng Gia (lúc đó là Công ty Liên doanh Quốc tế Hoàng Gia) là doanh
nghiệp thứ 2 trong 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Thủ
tướng Chính phủ cho phép thí điểm chuyển sang hình thức doanh nghiệp cổ
phần. Việc cổ phần hóa hoàn tất, thủ tục xin phép phát hành cổ phiếu ra
công chúng cũng được hoàn tất. Cùng với đó, công ty đã tiến hành các phiên
hội nghị giớ thiệu triển vọng đầu tư vào công ty và nhận được sự quan tâm
tích cực của giới đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.
Như vậy, những quy định trên đây của pháp luật là phù hợp với tình
hình thực tế hiện nay. Tuy nhiên, cần có những quy định cụ thể, chi tiết hơn
nữa để khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cổ phần
hóa (Ví dụ như quy định đối với việc công ty có vốn đầu tư nước ngoài kết
hợp giữa bán bớt phần vốn hiện có của chủ sở hữu kết hợp với chào bán cổ
phiếu lần đầu ra công chúng).
2. Chào bán chứng khoán riêng lẻ
Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình chào bán chứng khoán trong một phạm
vi, giới hạn nhất định của tổ chức phát hành là doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam.

6


a) Chào bán cổ phiều riêng lẻ
* Chủ thể thực hiện hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty
cổ phần.

Việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công
ty cổ phần đã được Nghị định số 38/2003/NĐ-CP và Thông tư liên tịch
08/2003/TTLT-BKH-BTC quy định rất chi tiết.
* Điều kiện, thủ tục chào bán cổ phiếu riêng lẻ
Thứ nhất, phải là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi
thành công ty cổ phần
Thứ hai, doanh nghiệp phải hoạt động ổn định và có tình hình tài
chính lành mạnh. Pháp luật Việt Nam hiện hành không quy định về mức vốn
điều lệ của doanh nghiệp được chào bán cổ phiếu riêng lẻ mà chỉ quy định
đối với doanh nghiệp chào bán chứng khoán ra công chúng.
Thứ ba, có phương án sử dụng vốn hiệu quả được cơ quan có thẩm
quyền thông qua, cam kết sử dụng đúng mục đích số vốn huy động được.
Thứ tư, phạm vi chào bán chỉ hướng tới số lượng nhà đầu tư nhất
định, không chào bán rộng rãi ra công chúng. Số lượng nhà đầu tư theo quy
định của Nghị định 01/2010/NĐ-CP là dưới 100 nhà đầu tư.
Ngoài ra, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn phải đáp ứng
các điều kiện theo quy định của Nghị định 01/2010/NĐ-CP về chào bán cổ
phần riêng lẻ đó là: Có quyết định thông qua phương án chào bán cổ phần
riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bản của chủ
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên
doanh (đối với doanh nghiệp có vốn nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ
phần); Có hồ sơ đăng kí chào bán cổ phần riêng lẻ đầy đủ và hợp lệ; Đảm
bảo tuân thủ các quy định về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư.
* Phương thức chào bán cổ phiếu riêng lẻ
Các cổ phiếu được chào bán riêng lẻ có thể được chào bán thông qua
nhiều phương thức khác nhau: bán trực tiếp, thông qua các đại lý phát hành,
bảo lãnh phát hành hoặc chào bán thông qua đấu giá, đấu thầu…

7



b) Chào bán trái phiếu riêng lẻ
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định 52/2006/NĐ-CP về chào bán trái
phiếu riêng lẻ thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có quyền
chào bán trái phiếu riêng lẻ.
* Điều kiện, thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ
Theo quy định tại Điều 17 Nghị định 52/2006/NĐ-CP, điều kiện để
cách doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phát hành trái phiếu là:
Có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ ngày doanh nghiệp chính
thức đi vào hoạt động; Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm chào
bán được kiểm toán; Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề
năm chào bán phải có lãi; Có phương án phát hành trái phiếu được tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền thông qua.
Thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ đơn giản hơn so với chào bán trái
phiếu ra công chúng. Các doanh nghiệp không phải đăng kí với UBCKNN.
* Phương thức chào bán trái phiếu riêng lẻ
Trái phiếu được chào bán riêng lẻ có thể thực hiện theo các phương
thức: bán trực tiếp, bảo lãnh phát hành, đại lí phát hành, đấu thầu trực tiếp…
III.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN
CHỨNG KHOÁN CỦA DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI CÓ
VỐN ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM

Thực trạng pháp luật Việt Nam về hoạt động chào bán chứng khoán
của doanh nghiện có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay khá phức
tạp. Có nhiều văn bản pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh hoạt động này
nhưng hiệu lực pháp lý không cao, phần lớn là văn bản dưới luật. Nhiều cơ
quan có thẩm quyền quản lí nhưng chưa có cơ quan quản lí chung ảnh
hưởng đến hiệu quả quản lí nhà nước đối với hoạt động này.

Hơn nữa, trong mỗi văn bản điều chỉnh hoạt động chào bán chứng
khoán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tồn tại nhiều bất cập cần
được sửa đổi, bổ sung. Chẳng hạn, có sự mâu thuẫn trong việc quy định điều
kiện cháo bán trái phiều của công ty cổ phần giữa Luật doanh nghiệp 2005
và Nghị định số 52/2006/NĐ-CP, những bất cập về phương thức tổ chức bán
8


cổ phần lần đầu, cơ quan quyết định cổ phần hóa và xác định giá trị doanh
nghiệp, quy định về nhà đầu tư chiến lược…trong Nghị định 187/2004/NĐCP, quy định về đối tượng chưa được xem xét chuyển đổi trong Thông tư
liên tịch số 08/2003/TTLT-BKH-BTC, quy định về phương thức chuyển đổi
đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công
ty cổ phần trong Nghị định 38/2003/NĐ-CP…
Do vậy, phương hướng hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán
của doanh nghiệp đầu có vốn đầu tư nước ngoài phải đảm bảo phù hợp với
thực tế và góp phần giải quyết những mâu thuẫn, bất cập giữa các văn bản
pháp luật.
IV.

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT PHÁP LÝ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN CỦA DOANH NGHIỆP CÓ
VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

-Nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước đối với hoạt đồng chào bán
chứng khoán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Tăng cường hiệu quả quản lí nhà nước đối với hoạt động chào bán
chứng khoán và đưa các giao dịch chứng khoán chưa niêm yết vào khuôn
khổ pháp lý là điều cần thiết.Cần cụ thể hơn nội dung những thông tin phải
công bố công khai, chất lượng thông tin, trách nhiệm của tổ chức phát hành
về tính chính xác, trung thực của thông tin. Bổ sung quy định trách nhiệm

của tổ chức trung gian, tổ chức kinh doanh chứng khoán trong hoạt động
chào bán chứng khoán. Đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ,
thẩm quyền quản lí thuộc về nhiều cơ quan khác nhau. Do vậy, cần quy định
rõ trách nhiệm của mỗi cơ quan, người chịu trách nhiệm chính, phối hợp
quản lí rủi ro trong chào bán chứng khoán riêng lẻ giữa các cơ quan.
Đặc biệt, cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát trong việc xác
định các tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục chào bán, quy định về hồ sơ, công bố
thông tin trước và sau khi chào bán…đảm bảo cho hoạt động này diễn ra
công bằng, đúng pháp luật giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trước hết cần tập trung giám sát việc thực
hiện công bố thông tin, hoạt động của các tổ chức trung gian trên thị trường,
giám sát hoạt động giao dịch của nhà đầu tư đặc biệt nhà đầu tư nước ngoài
đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững và phòng tránh rủi ro trong chào bán
9


chứng khoán. Nếu thực hiện tốt chế độ công bố thông tin nhiều tiêu cực trên
thị trường sẽ được hạn chế. Và chúng ta có thể từng bước áp dụng phương
thức quản lí theo chế độ thông tin đầy đủ như những TTCK phát triển trên
thế giới.
-Hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán của những doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần.
+ Làm rõ nội hàm khái niệm nhà đầu tư chiến lược, xóa bỏ sự phân
biệt giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Bởi theo quy định
hiện nay, nhà đầu tư chiến lược là nhà đầu tư trong nước và được mua cổ
phần với giá thấp hơn 20% so với giá đấu bình quân. Quy định này thể hiện
sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài. Có thể
xác định lại nhà đầu tư chiến lược như sau: nhà đầu tư chiến lược là nhà đầu
tư trong và ngoài nước, nhà sản xuất và thường xuyên cung cấp nguyên liệu
cho doanh nghiệp, người cam kết tiêu thụ sản phẩm lâu dài, gắn bó lợi ích

với doanh nghiệp, có tình trạng tài chính lành mạnh, có khả năng quản lý…
Giá bán cổ phần ưu đãi cho các nhà đầu tư hoặc theo giá do nhà đầu tư thỏa
thuận với tổ chức phát hành nhưng không thấp hơn giá đấu thành công bình
quân của cuộc đấu giá. Như vậy, sẽ xóa bỏ được sự phân biệt giữa các nhà
đầu tư, tăng thu cho Ngân sách nhà nước, thành công của đợt chào bán được
đảm bảo.
Hiện nay, Nghị định 38/2003/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số
08/2003/TTLT-BKH-BTC là những văn bản điều chỉnh hoạt động chào bán
cổ phần của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, hai văn bản
này tồn tại một số bất cập, cần được sửa đổi theo hướng sau:
Thứ nhất, về đối tượng được xét chuyển đổi: Những quy định theo
Nghị định 38/2003/NĐ-CP được coi là khá phù hợp nhưng Thông tư hướng
dẫn lại thắt chặt hơn, loại bỏ nhiều doanh nghiệp có nhu cầu chuyển đổi. Vì
vậy, cần bỏ quy định về đối tượng tạm thời chưa được xem xét cho phép
chuyển đổi tại Điều 1 Thông tư 08/2003/TTLT-BKH-BTC tạo thuận lợi hơn
cho các doanh nghiệp nộp hồ sơ chuyển đổi.
Thứ hai, quy định cụ thể hơn về điều kiện chuyển đổi tại Điều 7 Nghị
định 38/2003/NĐ-CP. Việc chỉ quy định doanh nghiệp có thời gian hoạt
động là 3 năm trong đó năm cuối cùng phải có lãi thuận lợi cho doanh
nghiệp thực hiện chuyển đổi. Tuy nhiên, cần bổ sung tỷ suất lợi nhuận là bao
nhiêu hay đưa ra một mức lợi nhuận cụ thể để xác định doanh nghiệp kinh
10


doanh thực sự có lãi. Chúng ta sẽ chọn được những doanh nghiệp kinh
doanh hiệu quả thay vì quy định rất nhiều loại hình và lĩnh vực doanh nghiệp
chưa được xem xét chuyển đổi như hiện nay.
Thứ ba, có thể đưa ra những ưu tiên để xem xét những doanh nghiệp
được chuyển đổi như dự án đầu tư trong những lĩnh vực Việt Nam tạm thời
chưa đáp ứng được, sử dụng nhiều lao động địa phương, đã tham gia TTCK

(quốc tế hoặc trong nước), chuyển đổi để đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh, hoặc các cổ đông nước ngoài cam kết sẽ giữa một tỷ lệ cổ phần nhất
định trong suốt thời gian hoạt động của dự án…Những ưu tiên này sẽ là
động lực thúc đẩy doanh nghiệp lập hồ sơ chuyển đổi.
Thứ tư, bổ sung quy định về xác định giá trị doanh nghiệp. Công việc
này có ý nghĩa quan trọng để xác định giá bán cổ phần nhưng Nghị định
38/2003/NĐ-CP và Thông tư hướng dẫn chưa đề cập rõ ràng về phương
pháp xác định, tài sản phải tính vào giá trị doanh nghiệp…Cần có quy định
cụ thể về vấn đề này để hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp diễn ra
khách quan.
Thứ năm, cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lựa chọn
hình thức chuyển đổi. Doanh nghiệp với đặc điểm và nhu cầu huy động vốn
khác nhau không buộc phải chuyển đổi theo những hình thức tại Điều 2
Thông tư 08/2003/TTLT-BKH-BTC. Do đó, chỉ nên quy định các hình thức
có thể áp dụng để doanh nghiệp lựa chọn tăng tính tự chủ cho các doanh
nghiệp nước ngoài khi chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Thứ sáu, bổ sung quy định về công bố thông tin. Điều 24 Nghị địn
38/2003/NĐ-CP hầu như chưa đề cập nghĩa vụ công bố thông tin của doanh
nghiệp, việc chỉ yêu cầu doanh nghiệp đăng báo khiến tính minh bạch trong
hoạt động này không cao. Vì vậy, cần quy định cụ thể nội dung thông tin
phải công bố, các báo cảo tài chính, lợi nhuận, tổng số cổ phần chào bán,
thời gian, địa điểm, phương thức, giá chào bán cổ phần…
Thứ bảy, thời gian thẩm định hồ sơ cần được rút ngắn. Quy định hiện
nay khá rườm rà, mang nặng tính chất hành chính. Doanh nghiệp phải chờ
Bộ kế hoạch và đầu tư gửi hồ sơ xin chuyển đổi của doanh nghiệp tới Bộ tài
chính, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban chứng khoán nhà nước cho ý kiến. Bộ
kế hoạch và Đầu tư tổng hợp ý kiến, sau đó trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét, quyết định. Quy trình này phải qua nhiều cơ quan và mất nhiều thời
gian. Do vậy, có thể ủy quyền cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, quyết
11



định và báo cáo định kỳ lên Thủ tướng Chính phủ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
có thể xin ý kiến của cơ quan liên quan trong trường hợp cần thiết.
Sở dĩ em đưa ra các kiến nghị về sửa đổi các quy định liên quan đến
việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ
phần là vì theo quy định của pháp luật Việt Nam thì các doanh nghiệp nước
ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần có quyền chào bán chứng khoán ra
thị trường chứng khoán Việt Nam. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về
chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng góp phần tạo điều
kiện thuận lợi cho việc chào bán chứng khoán của doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài.
Ngoài ra, chúng ta có thể cho phép thành lập mới công ty cổ phần
100% vốn nước ngoài, như thế trong tương lai sẽ không phải thực hiện
chuyển đổi các doanh nghiệp như hiện nay.

C. KẾT LUẬN
Với xu thế hội nhập hiện nay, việc hoàn thiện các quy định pháp luật
về chào bán chứng khoán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hết
sức cần thiết. Đó là cơ sở để giúp Việt Nam thu hút đầu tư và phát triển thị
trường chứng khoán trong nước. Muốn làm được điều đó, Đảng và Nhà
nước ta cần có những chính sách thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa
cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội tham gia rộng rãi
vào thị trường chứng khoán nước ta hơn nữa.
Pháp luật nước ta hiện nay mặc dù đã tạo được một số điều kiện cho
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc tham gia vào thị
trường chứng khoán trong nước. Tuy nhiên, các mặt hạn chế cũng còn rất
nhiều. Do đó, chúng ta cần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật để có
một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư, nhất là đối với nhà đầu tư nước
ngoài và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.


12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật chứng khoán, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2008.
2. Lục Thị Hồng Nhung, Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ của doanh nghiệ Việt Nam hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007.
3. Nguyễn Thị Thư, Hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán ra
công chúng của công ty cổ phần, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật
Hà Nội, 2008.
4. Vũ Thị Quỳnh Hương, Một số vấn đề pháp luật phát hành chứng
khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, Khóa luận tôt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006.
5. Luật chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)
6. Nghị định của Chính phủ số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán.
7. Nghị định của Chính phủ số 01/2010/NĐ-CP ngày 4/1/2010 quy định
về chào bán cổ phần riêng lẻ.
8. Nghị định của Chính phủ số 38/2003/NĐ-CP ngày 15/4/2003

về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài sang hoạt động theo hình thức Công ty cổ phần.
9. Thông tư liên tịch số 08/2003/TTLT-BKH-BTC ngày
29/12/2003 về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định tại
Nghị định 38/2003/NĐ-CP.
10.Nghị định của Chính phủ số 52/2006/NĐ-CP ngày 15/5/2006 về phát
hành trái phiếu doanh nghiệp.

11. />%E1%BA%BFn-chuy%E1%BB%83n-d%E1%BB%95i-hnh-th
%E1%BB%A9c-php-l-c/

13


MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………….1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……………………………………………………..2
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN………………………………………..2
1. Chứng khoán…………………………………………………………………..2
2. Chào bán chứng khoán……………………………………………………...2
a) Khái niệm, đặc điểm…………………………………………………………..2
b) Vai trò……………………………………………………………………………3
3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài………………………………..3
4. Chào bán chứng khoán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần………………………………...4
II. PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN CỦA DOANH
NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM………….4
1. Chào bán chứng khoán ra công chúng…………………………………..5
2. Chào bán chứng khoán riêng lẻ…………………………………………...6
a) Chào bán cổ phiếu riêng lẻ.............................................................................7
b) Chào bán trái phiếu riêng lẻ………………………………………………...8
III. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN
CHỨNG KHOÁN CỦA DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI CÓ VỐN
ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM……………………………………………………….8
IV.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT PHÁP LÝ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM………………………………………….9

C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………………………12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..13

14



×