Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.67 KB, 79 trang )

MỤC LỤC

Chương 1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề kinh tế học pháp luật
Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
1.5.
1.6.

Những vấn đề được xác lập và tuyên bố trong đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Ý nghĩa của nghiên cứu
Kết cấu báo cáo nghiên cứu

Chương 2: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường
2.1. Khái niệm về thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
2.1.1. Thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
2.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
2.2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường
2.2.1. Có thiệt hại xảy ra
2.2.2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
2.2.3. Gây thiệt hại đối với môi trường



2.2.4. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi vi phạm pháp luật bảo
vệ môi trường
2.3. Căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
2.3.1.Các tiêu chuẩn về môi trường
2.3.2. Các mức độ vi phạm tiêu chuẩn môi trường
2.4. Một số quy định của các nước trên thế giới về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay
3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường
3.1.1 Quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
3.1.1.1. Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
3.1.1.2. Hành vi vi phạm pháp luật môi trường
3.1.1.3. Thiệt hại được bồi thường và xác định thiệt hại
3.1.1.4. Xác định thiệt hại
3.1.1.5. Phương thức bồi thường
3.2. Thực trạng áp dụng pháp luật thông qua những ví dụ thực tiễn
3.3. Những vấn đề tồn tại trong khi áp dụng pháp luật để giải quyết bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường


Chương 4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường
4.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những hạn chế trong pháp luật về bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
4.1.1. Về mặt thể chế
4.1.3. Một số quy định của Luật BVMT còn có những vướng mắc, bất cập
4.1.4 Tăng cường năng lực cán bộ quản lý bảo vệ môi trường

4.2. Dự báo một số thay đổi của pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường hiện đang là vấn đề nóng đối với nhiều quốc gia trên thế giới,
có thể đó là quốc gia đang phát triển hay quốc gia đã phát triển. Trên phạm vi


toàn cầu cũng như tại Việt Nam, sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi
trường đã, đang và sẽ làm cho môi trường có những biến đổi bất lợi cho con
người, đặc biệt là những thay đổi đối với các yếu tố mang tính tự nhiên như
nước, đất, không khí, hệ thực vật, hệ động vật. Nguyên nhân chính của tình
trạng này là sự tác động theo chiều hướng tiêu cực của con người tới môi trường
ngày càng gia tăng.
Tổ chức Ngân hàng thế giới - WB đã đưa ra 8 mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ và một trong tám mục tiêu đó là: “Đảm bảo bền vững về môi trường”.
Hay như tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới ở Nam Phi (năm 2002) đã nói “Quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt: tăng trưởng
kinh tế, cải thiện xã hội và bảo vệ môi trường (khai thác hợp lý, tiết kiệm và
môi trường sống trong lành)”. Qua đó cho ta thấy phát triển kinh tế phải đi đôi
với bảo vệ môi trường.
Năm 2007, Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại
thế giới WTO và luôn nằm trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh
trên thế giới. Các chuyên gia kinh tế đã cho rằng: “Khi Việt Nam ra nhập WTO
thì vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng nặng nề hơn và đó cũng là một trong
những thách thức”. Đúng như vậy, trong thời buổi cạnh tranh khốc liệt, các
doanh nghiệp đều đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu mà bỏ quên đi yếu tố môi
trường. Cụ thể, nhiều doanh nghiệp không xây dựng hệ thống xử lý nước thải

mà xả trực tiếp ra môi trường, đã làm ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, đất,
không khí… Minh chứng cụ thể như vụ doanh nghiệp Vedan đã xả thẳng nước
thải chưa qua xử lý xuống sông Thị Vải hay nhiều những vụ việc khác vì lợi ích
cá nhân, chạy theo đồng tiền mà quên đi lợi ích của xã hội.
Nhiều cách thức, biện pháp khác nhau đã được đưa ra nhằm bảo vệ môi
trường, ngăn chặn, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, trong đó các biện
pháp pháp lý với nội dung chính là quy định trách nhiệm phải bồi thường thiệt


hại do làm ô nhiễm, suy thoái môi trường đã và đang được các nước trên thế
giới và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Pháp luật Việt Nam đã quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, tổ chức có hành vi gây ô nhiễm môi
trường trong Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường. Các quy định của pháp
luật, bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân, tổ chức bị thiệt hại
do ô nhiễm môi trường yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi
trường gây ra nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, các
quy định về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường hiện vẫn còn dừng
lại ở mức quy định chung, mang tính nguyên tắc, gây khó khăn cho việc giải
quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây
nên trên thực tế. Tuy vậy, lại chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên về
vấn đề này để góp phần đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề lý luận cơ
bản, cũng như đánh giá một cách toàn diện pháp luật hiện hành về bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường sẽ góp phần hoàn thiện thêm một bước
pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường góp phần bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước. Sau khi lựa chọn,
nhóm chúng tôi thống nhất chọn đề tài “Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường – Cơ sở pháp lý, thực trạng và giải pháp”.
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu của đề tài

Xuất phát từ những bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường, tác giả lựa
chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường- Cơ sở pháp lý,
thực trạng và giải pháp.”
1.3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài


- Góp phần hoàn thiện lý luận khoa học pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường trong Bộ luật Dân sự 2005, Luật Bảo vệ môi
trường 2005, các nghị định có liên quan của chính phủ.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường.
- Đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng ở Việt Nam hiện
nay.
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu theo tiến trình phát triển về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
Nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở lĩnh vực môi trường trong
Luật Bảo vệ môi trường.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên phép biện
chứng của lý luận khoa học Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
được thể hiện trong Bộ luật dân sự năm 2005.
Nghiên cứu được tiến hành bằng nhiều phương pháp: Phương pháp thống
kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, điều tra xã hội học; bằng các biện pháp khảo
sát, đánh giá thực trạng nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường trong Bộ luật Dân sự vào sự phát triển của Việt Nam; khảo
cứu các tài liệu có liên quan đến việc nghiên cứu và áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.

1.6. Ý nghĩa của nghiên cứu


Góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường trong pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, đề tài nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên sâu về bồi thường thiệt hại do làm
ô nhiễm môi trường nói chung, của các sinh viên theo ngành và quan tâm đến
ngành luật nói riêng.
Nâng cao hiểu biết về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
trong pháp luật Việt Nam.
1.7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài
nghiên cứu khoa học gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường ở Việt nam hiện nay
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường


Chương 2. Một số vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm
ô nhiễm môi trường
2.1. Khái niệm về thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
2.1.1. Thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Hiện nay, trên thế giới có 2 quan niệm khác nhau về thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường:

Một là, thiệt hại do làm ô nhiễm chỉ bao gồm những thiệt hại đối với môi
trường tự nhiên, như: đất, nước, không khí, hệ động – thực vật,… mà không bao


gồm thiệt hại đến con người, như: tính mạng, sức khỏe, tài sản… Thiệt hại về
môi trường có thể được nhận dạng theo nhiều cách phân tầng khác nhau, từ rộng
đến hẹp, từ tổng hợp đến từng phần, từ môi trường chung đến từng thành phần
môi trường cụ thể, song cho dù là bất kì tiếp cận nào thì thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường đều không bao gồm thiệt hại đối với con người hoặc tài sản,
mặc dù chúng có thể là hậu quả trực tiếp của thiệt hại về môi trường.
Hai là, thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường không chỉ bao gồm các thiệt
hại đến môi trường mà còn cả thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng của con người,
tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do ô nhiễm môi trường gây nên.
Tại Việt Nam, tính từ thời điểm Luật bảo vệ môi trường (2005) được ban
hành, thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường được xác định theo quan niệm
thứ hai. Theo quy định tại Điều 131 Luật bảo vệ môi trường (2005), có 2 loại
thiệt hại:
Thứ nhất, thiệt hại đối với môi trường tự nhiên. Đó là sự suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường, trong đó chức năng, tính hữu ích của môi
trường được thể hiện qua ba phương diện chính như sau: môi trường là không
gian sinh tồn của con người; môi trường là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và đa dạng sinh học (kể cả vật liệu, năng lượng, thông tin cần thiết
cho cuộc sống và hoạt động của con người); môi trường là nơi chứa đựng và
tiêu hủy chất thải do con người thải ra trong các hoạt động của mình. Như vậy,
có thể hiểu sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường xảy ra khi: chất
lượng của các yếu tố môi trường sau khi bị tác động thấp hơn so với tiêu chuẩn
về chất lượng môi trường; lượng tài nguyên thiên nhiên bị khai thác, sử dụng
lớn hơn lượng được khôi phục (đối với tài nguyên tái tạo) hoặc lớn hơn lượng
thay thế (đối với tài nguyên không tái tạo được); lượng chất thải thải vào môi
trường lớn hơn khả năng tự phân hủy, tự làm sạch của chúng.



Thứ hai, thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường gây ra. Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người
được thể hiện qua các chi phí để cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi các
chức năng bị mất của người bị hại và các khoản thu nhập thực tế bị mất, bị giảm
sút do bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe có nguyên nhân từ ô nhiễm, suy thoái
môi trường. Thiệt hại về tài sản được thể hiện qua những tổn thất về cây trồng,
vật nuôi, những khoản chi phí cho việc sửa chữa, thay thế, ngăn chặn và phục
hồi tài sản bị thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây nên. Còn thiệt hại
đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được thể hiện qua sự tổn hại về lợi ích
vật chất, sự giảm sút về thu nhập chính đáng mà nguyên nhân là do sự suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường.
2.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường được pháp luật ghi
nhận lần đầu tiên tại Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, theo đó “tổ chức, cá
nhân gây tổn hại môi trường do hoạt động của mình phải bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật”. Nhưng phải đến khi Luật bảo vệ môi trường năm
2005 được ban hành, vấn đề này mới được đề cập một cách rõ ràng hơn. Với
việc quy định tại điều 624, BLDS (2005): “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể
khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm không có lỗi.” và dành riêng
5 điều cho các quy định về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi
trường (từ Điều 131 đến Điều 135, Mục 2, Luật BVMT năm 2005) đã thể hiện
một bước tiến đáng kể trong quá trình “hiện thực hóa” nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả tiền - một nguyên tắc được xem là đặc trưng của lĩnh vực môi
trường.
Tại Việt Nam, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi



trường được tiếp cận và được pháp luật ghi nhận với những nội dung chủ yếu
sau:
Thứ nhất, môi trường là một loại tài sản đồng nhất, được xác định bởi các
giá trị khoa học, kinh tế và môi sinh. Tác hại của việc gây ra đối với môi trường
tự nhiên không khác gì so với tác hại gây ra đối với con người hay tài sản của
con người, vì thế chất lượng môi trường bị suy giảm, bị xâm hại cũng phải được
bồi thường một cách thỏa đáng. Người gây thiệt hại buộc phải có trách nhiệm
bồi thường những tổn thất gây ra đối với môi trường. Trách nhiệm này trước hết
phải là trách nhiệm đối với xã hội của vì họ đã xâm hại tới các điều kiện sống
chung của con người. Tiếp đến mới là trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân,
cụ thể là nạn nhân của sự xâm hại đó, thể hiện qua việc bồi thường thiệt hại đối
với tính mạng, sức khỏe, tài sản,… của người bị hại. Hai khía cạnh trên của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường được xác định bởi yếu tố khách
thể của quan hệ pháp luật môi trường. Trong các quan hệ pháp luật môi trường,
lợi ích mà các bên tham gia quan hệ hướng tới vừa có tính lợi ích cộng đồng
vừa có tính lợi cá nhân. Trong mọi trường hợp, lợi ích cộng đồng phải được ưu
tiên bảo vệ. Điều này cũng có nghĩa là cần phải có sự phân định giữa trách
nhiệm bồi thường thiệt hại đối với môi trường tự nhiên với trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản con người. Sự phân định
này nên được thể hiện qua các quy định về mức bồi thường, hình thức và
phương thức bồi thường. Chẳng hạn như đối với những thiệt hại về sức khỏe,
tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do ô
nhiễm, suy thoái môi trường gây ra, có thể cùng thỏa thuận về mức bồi thường,
hình thức bồi thường và phương thức bồi thường giữa hai bên. Còn thiệt hại đối
với môi trường tự nhiên, người gây thiệt hại chỉ được lựa chọn các mức bồi
thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường theo quy định của
pháp luật.
Thứ hai, do quan hệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường có thể phát sinh



giữa các chủ thể mà không cần đến các cơ sở pháp lý làm tiền đề (như quan hệ
hợp đồng hay quan hệ công vụ), nên bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi
phạm nghĩa vụ bảo vệ môi trường là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Đây là loại trách nhiệm phát sinh dưới sự tác động trực tiếp của các quy
phạm pháp luật mà không cần có sự thỏa thuận trước của các chủ thể. Sự trùng
hợp về một số nội dung có liên quan đến quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường
trong các thỏa thuận hay cam kết không làm ảnh hưởng đến căn cứ áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường theo luật định.
Thứ ba, môi trường có thể bị xâm hại từ 2 nhóm nguyên nhân. Một là
nguyên nhân khách quan tác động đến môi trường không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người, như bão, lũ lụt, động đất, hạn hán... Những trường hợp
này không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường đối với
bất cứ tổ chức, cá nhân nào. Hai là các yếu tố chủ quan do hoạt động của con
người gây ra từ việc khai thác, sử dụng các yếu tố môi trường hay từ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác. Đối với những trường hợp này, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường phát sinh khi có đủ các dấu hiệu cấu
thành trách nhiệm pháp lý dân sự. Thậm chí loại trách nhiệm này còn phát sinh
ngay cả khi người gây thiệt hại không có lỗi. Điều 624 Bộ luật Dân sự (2005)
quy định “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp
người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi”. Tại nhiều nước “trách nhiệm dân
sự tuyệt đối” là loại trách nhiệm được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực môi
trường.
Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường có mối quan hệ
nhất định với trách nhiệm khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm. Thông
thường, trong các quan hệ pháp lý khác có liên quan đến bồi thường thiệt hại,
người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra và được
giải phóng khỏi quan hệ với người bị hại. Nhưng trong lĩnh vực môi trường,



người làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thường phải thực hiện đồng thời cả
hai biện pháp: khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm và bồi thường thiệt
hại về môi trường. Tác dụng chính của biện pháp khắc phục ô nhiễm môi
trường là hạn chế, ngăn chặn phạm vi ảnh hưởng, khả năng lây lan ô nhiễm môi
trường, đồng thời làm giảm nhẹ những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra.
Tác dụng của bồi thường thiệt hại là bù đắp những tổn thất về người, tài sản và
những giá trị sinh thái đã bị mất. Trách nhiệm áp dụng các biện pháp khắc phục
ô nhiễm môi trường mang tính chất là một biện pháp cưỡng chế hành chính, do
người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quyết định, còn bồi thường
thiệt hại lại là một loại trách nhiệm dân sự có thể thỏa thuận và xác lập theo ý
chí của các bên. Tuy nhiên, trong lĩnh vực môi trường, hai loại trách nhiệm có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau và trong một số trường hợp có thể thay thế
(chuyển hóa) cho nhau, đặc biệt là khi chỉ xuất hiện thiệt hại đối với môi trường
tự nhiên mà không xuất hiện thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản của tổ
chức, cá nhân. Nếu việc khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm, suy thoái
do chính người bị hại tiến hành thì những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế
và khắc phục thiệt hại sẽ được tính trong tổng giá trị thiệt hại để đòi bồi thường.
Còn trong trường hợp người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã tự mình
thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm thì họ sẽ
được giải phóng hoặc giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường.
Thứ năm, nhiều người cùng gây thiệt hại cũng là tình trạng khá phổ biến trong
lĩnh vực môi trường. Luật BVMT (2005) quy định trong trường hợp có nhiều tổ
chức, cá nhân cùng gây ô nhiễm môi trường thì cơ quan quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường có trách nhiệm phối hợp với các bên liên quan để làm rõ
trách nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi
trường. Tuy nhiên, trên thực tế không dễ dàng xác định chính xác mức độ gây
hại đến môi trường của từng đối tượng. Bồi thường thiệt hại theo phần bằng
nhau là giải pháp đã được pháp luật dân sự tính đến trong trường hợp này. Tuy



nhiên, để đảm bảo sự công bằng trong áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về môi trường, nếu người gây thiệt hại chứng minh được mức độ mà mình gây
thiệt hại đối với môi trường là không đáng kể thì họ chỉ phải bồi thường thiệt
hại theo phần tương ứng với mức độ gây hại đó. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về
đối tượng gây thiệt hại sẽ giúp các tổ chức, cá nhân nâng cao hơn trách nhiệm
bảo vệ môi trường cũng như nâng cao năng lực tự bảo vệ mình trong lĩnh vực
này. Ngoài ra, cũng cần tính đến tình huống không áp dụng được trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cho các đối tượng chỉ vì đơn giản thiệt hại môi trường là kết
quả của hiện tượng tích tụ và cộng dồn các ảnh hưởng tới môi trường, trong khi
từng đối tượng lại tác động không quá mức giới hạn tới môi trường.
Thứ sáu, thời hạn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực
môi trường cũng là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Thiệt hại phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời đã trở thành nguyên tắc luật định, song trong lĩnh vực môi
trường, do giá trị của các thiệt hại về môi trường thường rất lớn và khó xác định
nên trong tuyệt đại đa số các trường hợp việc áp dụng trách nhiệm bồi thường
toàn bộ và kịp thời các thiệt hại là điều khó có thể thực hiện được. Pháp luật cần
có các quy định mang tính linh hoạt hơn trong lĩnh vực này. Chẳng hạn như
người gây thiệt hại đối với môi trường có thể bồi thường một lần hoặc nhiều lần
trong khoảng thời gian tối đa một số năm nhất định nào đó kể từ ngày áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, cũng cần cân nhắc đến các quy
định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo bộ Luật dân sự
thì thời hạn này là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Song cũng cần tính đến trong lĩnh vực
môi trường, ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại không hoàn toàn trùng
khít với ngày phát sinh thiệt hại trên thực tế. Thiệt hại đối với người bị nhiễm
chất phóng xạ, nhiễm hóa chất độc hại là những ví dụ điển hình. Nên chăng
pháp luật môi trường cần hướng tới việc quy định thời hiệu khởi kiện gắn với
ngày mà thiệt hại thực tế xảy ra và cần có khoảng thời gian dài hơn 2 năm.



Thứ bảy, khi áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường,
Việt Nam không thể không xem xét đến các cam kết quốc tế về vấn đề này.
Ngày 17/6/2004 Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô
nhiễm dầu 1992 có hiệu lực tại Việt Nam (International Convention on Civil
Liability for Oil Pollution Damage - viết tắt là CLC 92). Đây sẽ căn cứ pháp lý
quan trọng để phía Việt Nam yêu cầu các đối tượng gây ô nhiễm môi trường từ
sự cố tràn dầu phải bồi thường thiệt hại về môi trường một cách thỏa đáng.
Vấn đề bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại Việt Nam còn rất
mới cả từ phương diện lý luận và thực tiễn. Việc nhận thức một cách đầy đủ về
những nội dung liên quan tới thiệt hại về môi trường, bồi thường thiệt hại về
môi trường là yếu tố quan trọng cho việc ban hành và áp dụng trách nhiệm này
trong tương lai. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng cho dù chế định này có phát
triển đến mức nào, chi phí bỏ ra để xử lý, cải tạo môi trường có lớn đến đâu
cũng không thể khắc phục được hết những hậu quả do ô nhiễm, suy thoái môi
trường gây ra. Do vậy, xác định thiệt hại đối với môi trường và áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường trong mọi trường hợp đều không phải
là mong muốn hàng đầu được áp dụng trong lĩnh vực môi trường
2.2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường thuộc loại
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo Bộ luật dân sự, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do ô nhiễm môi trường phát sinh khi có các điều kiện sau đây:
2.2.1. Có thiệt hại xảy ra
Đây là điều kiện mang tính chất tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm này là khôi phục tình trạng tài


sản, sức khoẻ… cho người bị thiệt hại. Thiệt hại thường là tổn thất thực tế được

tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của cá nhân,
tổ chức. Các thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây nên có thể bao gồm những
thiệt hại sau đây:
Thứ nhất, thiệt hại do tài sản bị xâm phạm. Đó có thể là: tài sản bị huỷ
hoại hoặc bị hư hỏng, thiệt hại gắn liền với việc thu hẹp hoặc mất những lợi ích
gắn liền với việc không sử dụng, không khai thác hoặc bị hạn chế trong việc sử
dụng, khai thác công dụng của tài sản; những chi phí để ngăn chặn và khắc phục
thiệt hại. Ví dụ: khi nguồn nước và không khí bị ô nhiễm, đồng cỏ bị nhiễm độc
do các chất thải của các cơ sở công nghiệp làm cho các gia súc, gia cầm bị ốm,
bị chết gây thiệt hại cho nhân dân. Các khu du lịch do bị ô nhiễm mà phải đóng
cửa dẫn đến bị thất thu và nguồn lợi nhuận bị suy giảm…
Thứ hai, thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lý cho
việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút;
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại và người chăm sóc người bị thiệt hại bị
mất, bị giảm sút… Ví dụ: khi môi trường sống bị ô nhiễm (ô nhiễm nước, ô
nhiễm không khí, ô nhiễm đất…), sức khoẻ con người bị giảm sút, bị mắc các
bệnh ung thư, các bệnh về đường hô hấp … Những người mắc bệnh phải bỏ ra
một khoản tiền chi cho việc khám bệnh, chữa bệnh đồng thời thu nhập của họ bị
giảm sút do không tham gia lao động…
Thứ ba, thiệt hại do tính mạng bị xâm hại bao gồm chi phí cứu chữa, bồi
dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí mai táng; tiền cấp
dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Thiệt hại
do tính mạng bị xâm hại có thể xảy ra khi có các sự cố môi trường như tràn dầu,
nổ xăng dầu, cháy rừng…
2.2.2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường


Những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường rất đa dạng phong
phú. Tại điều 7 Luật bảo vệ môi trường năm 2005, những hành vi bị nghiêm
cấm bao gồm: phá hoại, khai thác trặt phá rừng, các nguồn tài nguyên thiên

nhiên khác; khai thác, đánh bắt các nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện,
công cụ, phương pháp huỷ diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định
của pháp luật; khai thác, kinh doanh, tiêu thụ, sử dụng các loài thực vật, động
vật hoang dã quý hiếm thuộc danh mục cấm do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định; chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại
khác không đúng nơi quy định và quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường; thải
chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; các chất độc, chất phóng
xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước; thải khói, bụi, khí có chất hoặc
mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hoá vượt
quá tiêu chuẩn môi trường cho phép; gây tiếng ồn, độ rung vượt quá tiêu chuẩn
cho phép; nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện không đạt tiêu chuẩn môi
trường; nhập khẩu, quá cảnh chất thải dưới mọi hình thức; nhập khẩu, quá cảnh
động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch, vi sinh vật ngoài danh mục cho phép;
sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh
thái; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt
quá tiêu chuẩn cho phép; xâm hại di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên;
xâm hại công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường;
hoạt động trái phép, sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xác định là khu vực cấm do mức độ đặc biệt nguy hiểm về môi trường đối với
sức khỏe và tính mạng con người; che giấu hành vi huỷ hoại môi trường, cản trở
hoạt động bảo vệ môi trường, làm sai lệch thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu
đối với môi trường; các hành vi bị nghiêm cấm khác về bảo vệ môi trường theo
quy định của pháp luật.
2.2.3. Gây thiệt hại đối với môi trường
Đối với những trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi


trường phát sinh khi có đủ các dấu hiệu cấu thành trách nhiệm pháp lý dân sự.
Thậm chí loại trách nhiệm này còn phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại
không có lỗi. Điều 624 Bộ luật Dân sự (2005) quy định “Cá nhân, pháp nhân và

các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo
quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không
có lỗi”. Tại nhiều nước “trách nhiệm dân sự tuyệt đối” là loại trách nhiệm được
áp dụng phổ biến trong lĩnh vực môi trường. Quy định này có thể được áp dụng
khi giải quyết các tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do các nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra như các phương tiên giao thông vận tải, các nhà máy công nghiệp
đang hoạt động, các lò phản ứng hạt nhân, các nhà máy điện nguyên tử, kho
chưa vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất dễ cháy, chất phóng xạ… Trong thời gian
qua sự cố tràn dầu từ các phương tiện giao thông đường thuỷ đã làm ô nhiễm
môi trường với diện rất rộng, gây nhiều thiệt hại cho nhân dân, tổ chức khu vực
xung quanh.
2.2.4. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường
Thiệt hại thực tế xảy ra là kết quả của hành vi vi phạm pháp luật. Hoặc
nói một cách khác, hành vi vi phạm pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy
ra. Trong quá trình xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường cần làm sáng tỏ mối quan hệ này.
Là một loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường có một số điểm khác với trách nhiệm phát
sinh từ nghĩa vụ hợp đồng như sau:
Thứ nhất, cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi
trường là các quy định của pháp luật về hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật
của chủ thể, không cần có sự thoả thuận trước của các bên.


Thứ hai, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường việc thực hiện bồi thường thiệt hại sẽ làm chấm dứt nghĩa vụ còn trong
nghĩa vụ hợp đồng thì việc bồi thường thiệt hại không làm cho người có nghĩa
vụ được giải phóng khỏi trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách thực tế như
giao vật, thực hiện công việc…

Thứ ba, trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực môi trường chỉ có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại chứ không có hình thức phạt vi phạm.
Thứ tư, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
có trường hợp không có lỗi vẫn phải chịu trách nhiệm, nếu pháp luật có quy
định.
2.3. Căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Tại Việt Nam, cả từ phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy sự mờ
nhạt về mảng kiến thức này. Hiện tại, chúng ta mới chỉ đúc rút được đôi chút
kinh nghiệm từ thực tiễn tự phát giải quyết các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại
về sức khỏe, tài sản do ô nhiễm môi trường gây nên. Việc xác định thiệt hại đối
với môi trường tự nhiên trong một số lần sự cố tràn dầu vẫn phải nhờ đến tư
vấn, giúp đỡ của các chuyên gia quốc tế. Để Việt Nam có thể tự chủ trong việc
xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây nên, đặc biệt là thiệt hại
đối với môi trường tự nhiên, những nội dung sau đây cần phải được làm sáng tỏ
trong các văn bản pháp luật hướng dẫn việc xác định thiệt hại về môi trường:
một là thành phần môi trường được xác định thiệt hại; hai là mức độ thiệt hại
được xác định; ba là các căn cứ để xác định mức độ thiệt hại.
Số lượng thành phần môi trường, loại hình hệ sinh thái, giống loài bị suy
giảm, và mức độ thiệt hại của từng loại cũng là một trong những căn cứ để xác
định mức độ thiệt hại đối với môi trường (khoản 3 Điều 131). Thực tế cho thấy
một hành vi làm ô nhiễm môi trường có thể gây thiệt hại cùng một lúc hai hoặc


nhiều thành phần môi trường. Mức độ thiệt hại đối với môi trường trong trường
hợp này sẽ phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các yếu tố môi trường bị suy
giảm. Số lượng thành phần môi trường bị xâm hại càng lớn thì thiệt hại gây ra
sẽ càng nặng nề. Tương tự, mức độ thiệt hại đối với môi trường sẽ phụ thuộc
vào giống, loài động thực vật bị thiệt hại. Nếu giống loài bị thiệt hại có mức độ
đe dọa, quí hiếm càng cao thì có nghĩa là thiệt hại gây ra đối với môi trường
càng lớn. Trong trường hợp này, danh mục các loài động, thực vật hoang dã,

quý hiếm sẽ là một trong những cơ sở pháp lý giúp cho việc xác định mức độ
thiệt hại đối với môi trường được dễ dàng hơn.
Xác định mức độ thiệt hại môi trường thông qua việc xác định phạm vi,
giới hạn môi trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích có lẽ là quy định bất
cập nhất trong số các quy định về thiệt hại môi trường. Theo khoản 2 Điều 131,
Luật bảo vệ môi trường (2005) việc xác định phạm vi, giới hạn môi trường bị
suy giảm chức năng, tính hữu ích gồm có: Xác định giới hạn, diện tích của khu
vực, vùng lõi bị suy giảm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; Xác định giới
hạn, diện tích vùng đệm trực tiếp bị suy giảm; Xác định giới hạn, diện tích các
vùng khác bị ảnh hưởng từ vùng lõi và vùng đệm. Việc sử dụng các thuật ngữ
vùng lõi, vùng đệm để chỉ mức độ khác nhau của sự suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường. Ngoài ra, đối với các vùng, khu vực khác nhau nhưng
có cùng mức độ suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường có thể dùng
hệ số (k) để xác định thiệt hại, trừ trường hợp trong các tiêu chuẩn môi trường
đã xác định giá trị hệ số vùng, khu vực.
2.3.1.Các tiêu chuẩn về môi trường
Thứ nhất, các tiêu chuẩn về môi trường nước gồm có: tiêu chuẩn chất
lượng nước mặt; tiêu chuẩn chất lượng nước biển ven bờ; tiêu chuẩn chất lượng
nước ngầm; tiêu chuẩn chất lượng nước.


Thứ hai, các tiêu chuẩn về môi trường không khí bao gồm: giá trị giới hạn
thông số cơ bản trong không khí xung quanh; nồng độ tối đa cho phép của một
số chất độc hại trong không khí xung quanh; tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối
với bụi và các chất vô cơ; tiêu chuẩn khí thải công nghệ đối với các chất hữu cơ;
tiêu chuẩn tiếng ồn cho phương tiện giao thông vận tải đường bộ và trong khu
vực công cộng và dân cư.
Thứ ba là tiêu chuẩn hoá chất bảo vệ thực vật trong đất. Hiện nay, tiêu
chuẩn ô nhiễm trong đất còn chưa đồng bộ (thiếu tiêu chuẩn đất, trầm tích), các
tiêu chuẩn khác cũng còn thiếu nhiều thông số để tham chiếu (thí dụ NO2, NO3,

PO4, SiO2… trong tiêu chuẩn chất lượng nước ven bờ).
Tuy nhiên, để xác định sơ bộ xem có bị ô nhiễm không, đầu tiên người ta
phải chú ý đến một số thông số chung, sau đó mới đến các thông số đặc thù của
nguồn thải. Cụ thể như sau: đối với môi trường nước mặt, các thông số chung
có thể là: pH, BOD5, COD, DO, SS, Coliform, màu, mùi, váng dầu mỡ; Đối với
nước biển ven bờ công bố pH, BOD5, COD, DO, SS, Coliform, màu, mùi, váng
dầu mỡ; Đối với nước ngầm là: pH, màu, mùi, độ cứng, Fecal Coli, coliform;
Đối với nước thải công nghiệp: TpH, BOD5, COD, DO, SS, Coliform tổng hoạt
động phóng xạ. Sau đó tuỳ thuộc tính đặc thù của nguồn thải mà xem xét thêm
các yếu tố khác.
Tiêu chí xác định ô nhiễm là các tiêu chuẩn môi trường. Dựa vào các tiêu
chuẩn có thể xác định mức độ ô nhiễm. Từ đó đánh giá mức độ vi phạm tiêu
chuẩn môi trường, tiêu chuẩn chất thải là bao nhiêu lần, ảnh hưởng tới con
người, loài vật và các hệ sinh thái cùng các phạm vi ảnh hưởng đó và thời gian
bị ảnh hưởng.Tuy nhiên, tại thời điểm này việc xác định thiệt hại đối với tất cả
các thành phần môi trường nêu trên là điều không hiện thực. Qua khá nhiều
cuộc tranh luận khoa học (ở cả cấp quốc gia và quốc tế), việc xác định thiệt hại
đối với môi trường tự nhiên chỉ nên bao gồm thiệt hại đối với đất, nước, không


khí và đa dạng sinh học. Ngay cả việc có xem môi trường không khí là đối
tượng thiệt hại được tính bồi thường hay không cũng là vấn đề chưa hoàn toàn
đạt được sự thống nhất ý kiến. Do đặc tính khuếch tán của môi trường không
khí nên khó có thể tính toán được thiệt hại đối với yếu tố môi trường này như
các yếu tố môi trường khác. Tương tự, thiệt hại đối với đa dạng sinh học cũng
cần phải giới hạn ở những thiệt hại về hệ sinh thái, loài sinh vật do ô nhiễm, suy
thoái môi trường gây nên, để phân biệt với thiệt hại về đa dạng sinh học do hành
vi trực tiếp xâm hại đến các giống loài sinh vật, hệ sinh thái, mà về bản chất
pháp lý những thiệt hại đó là hậu quả của hành vi vi phạm các quy định của
pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học chứ không phải là hành vi vi phạm pháp

luật môi trường.
2.3.2. Các mức độ vi phạm tiêu chuẩn môi trường
Hiện tại, Luật BVMT (2005) xác định có 3 mức độ của sự suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường, đó là: có suy giảm, suy giảm nghiêm trọng
và suy giảm đặc biệt nghiêm trọng (khoản 1 Điều 131). Nhiệm vụ của văn bản
hướng dẫn là phải lượng hóa được một cách đầy đủ hơn 3 mức độ suy giảm nêu
trên, làm căn cứ cho việc xác định các mức độ thiệt hại.
Cả từ phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy khó có thể đo, đếm
được sự suy giảm thực tế về chức năng, tính hữu ích của mỗi thành phần môi
trường khi chúng bị ô nhiễm, suy thoái. Trong trường hợp này chúng ta cần phải
vận dụng phương pháp suy đoán lôgíc, theo đó nếu một thành phần môi trường
bị ô nhiễm ở các mức có ô nhiễm, ô nhiễm nghiêm trọng, ô nhiễm đặc biệt
nghiêm trọng thì cũng có nghĩa là thành phần môi trường đó đã bị sự suy giảm
tương ứng về chức năng, tính hữu ích của nó. Điều đó cũng có nghĩa là thiệt hại
đối với môi trường tự nhiên có thể được chia làm 3 cấp độ tương ứng với 3 mức
suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Luật BVMT (2005) một lần
nữa lại thể hiện sự phát triển đáng ghi nhận khi căn cứ vào tiêu chuẩn môi


trường để lượng hóa ở mức có thể nhận diện được các cấp độ ô nhiễm môi
trường. Tại điều 92, căn cứ để xác định khu vực môi trường bị ô nhiễm gồm có:
môi trường bị ô nhiễm trong trường hợp hàm lượng một hoặc nhiều chất gây ô
nhiễm vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường; môi trường bị ô nhiễm
nghiêm trọng khi hàm lượng của một hoặc nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt
quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 3 lần trở lên hoặc hàm lượng của
một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi
trường từ 5 lần trở lên; môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng khi hàm
lượng của một hoặc nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất
lượng môi trường từ 5 lần trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây
ô nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 10 lần trở lên.

Tương tự như vậy cũng có thể xác định các cấp độ suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường căn cứ vào các mức độ suy thoái môi trường. Do
mức độ suy thoái môi trường cũng có thể được xác định dựa trên cơ sở số lượng
của thành phần môi trường bị khai thác, sử dụng quá mức so với trữ lượng tự
nhiên của nó; dựa vào mức độ khan hiếm của thành phần môi trường trên thực
tế hay mức độ ưu tiên của Nhà nước trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển mỗi
thành phần môi trường... Tuy nhiên, hiện tại pháp luật chưa có các quy định để
lượng hóa các mức độ suy thoái môi trường nên việc xác định mức độ suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường do môi trường bị suy thoái mới chỉ
dừng lại ở các mức định tính.
2.4. Một số quy định của các nước trên thế giới về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Riêng về quan niệm về thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường, trên thế giới
hiện đang tồn tại hai quan niệm khác nhau. Quan niệm thứ nhất cho rằng, thiệt
hại do ô nhiễm môi trường gây ra chỉ là các thiệt hại đối với môi trường tự
nhiên như thiệt hại đối với hệ động vật, thực vật, đất, nước, không khí… mà


không bao gồm thiệt hại về người và tài sản. Điển hình cho nhóm quan niệm
này là Cộng đồng chung Châu ÂU - EC, Canada, Hàn Quốc... Cộng đồng chung
châu Âu quan niệm thiệt hại trong lĩnh vực môi trường là sự thay đổi bất lợi về
tài nguyên thiên nhiên hoặc cản trở đáng kể đến các dịch vụ môi trường có thể
xảy ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp và chúng thường biểu hiện dưới các
dạng sau: Thiệt hại đối với các loài và môi trường sống tự nhiên của chúng;
Thiệt hại đối với môi trường nước; Thiệt hại về đất (tức là bất kỳ sự ô nhiễm đất
nào gây ra nguy cơ đáng kể cho sức khỏe con người, bị ảnh hưởng bất lợi do kết
quả của việc đưa trực tiếp hoặc gián tiếp các chất, sản phẩm pha chế, các sinh
vật hoặc vi sinh vật vào đất hoặc lòng đất). Quan niệm thứ hai cho rằng, thiệt
hại do ô nhiễm môi trường gây ra không chỉ bao gồm các thiệt hại liên quan đến
chất lượng môi trường nói chung mà còn bao gồm cả thiệt hại về sức khỏe của

con người, tài sản của cá nhân do ô nhiễm môi trường gây nên. Cộng hòa liên
bang Nga, Nhật Bản, Australia... là những nước theo quan niệm này.
Nghiên cứu các điều ước quốc tế về môi trường cho thấy, những vấn
đề về xác định thiệt hại, nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc ngăn ngừa, kiểm
soát ô nhiễm, bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường nói chung và môi
trường không khí nói riêng đã được đề cập khá nhiều. Chẳng hạn, Tuyên bố của
Liên hợp quốc về môi trường và phát triển năm 1992, Công ước Geneva về ô
nhiễm không khí xuyên biên giới tầm xa (1979), Hiệp định ASEAN về kiểm
soát khói mù xuyên biên giới năm 2002. Trong phạm vi khu vực, như ở châu
Âu: Nghị viện và Hội đồng châu Âu cũng đã ban hành văn bản xác định trách
nhiệm, nghĩa vụ của các nước trong cộng động châu Âu về bảo vệ chất lượng
môi trường không khí, chẳng hạn Chỉ thị số 2004/35/CE về trách nhiệm đối với
việc phòng chống và khắc phục thiệt hại môi trường đã thiết lập một khuôn khổ
trách nhiệm pháp lý trong việc ngăn chặn, khắc phục thiệt hại về môi trường
dựa trên nguyên tắc gây ô nhiễm, trả tiền.
Nhiều quốc gia trên thế giới (điển hình như Mỹ, Úc, Đức, Nga…) xác


định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường là một dạng "trách nhiệm
pháp lý dân sự", nghĩa là trách nhiệm đối với môi trường theo các quy định của
luật tư. Cộng đồng Châu Âu quan niệm "người gây ô nhiễm phải trả giá" (tiếng
Anh là polluter pays principle, viết tắt là PPP). Đây là là một nguyên tắc được
quy định trong Hiệp ước của EC (Điều 130r(2)). Tương tự công đồng Châu Âu,
các nước trên thế giới đều theo nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả".
Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới (được nghiên cứu) theo quan
niệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một dạng trách nhiệm
pháp lý dân sự và là một dạng của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.



×