Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích những yếu tố ảnhhưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.96 KB, 14 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH

A. LỜI MỞ ĐẦU
Qua nhiều năm thực hiện tại Việt Nam, đến nay Luật Thuế giá trị gia tăng
(GTGT) đã dần đi vào đời sống và có những tác động tích cực đến tình hình kinh tế
xã hội đất nước ta cũng như góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc áp dụng thuế
GTGT trên thực tế là một vấn đề khó và còn không ít những “kẽ hở” pháp luật dẫn
đến việc gian lận, trốn thuế của các đối tượng nộp thuế và các hành vi vi phạm
pháp luật khác. Theo thông báo của tổng cục thuế, tình hình các vụ án hình sự liên
quan đến thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay ngày càng phức tạp với những thủ đoạn
ngày càng tinh vi. Việc này xuất phát từ việc bản thân thuế GTGT là một loại thuế
mới với các quy định về những phương pháp khấu trừ cũng như hệ thống hóa đơn,
chứng từ phức tạp so với hệ thống hóa đơn chứng từ cũ của Việt Nam. Vì vậy, việc
nghiên cứu và đánh giá lại những quy định pháp luật về thuế GTGT ở Việt Nam
hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về thuế GTGT nói riêng trong thời gian
tới. Vì những lý do trên, em đã quyết định trọn đề tài: “Phân tích những yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay”. để
nghiên cứu với mục đích đánh giá khách quan thực trạng bạn hành và thực hiện
các quy định về thuế GTGT, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về thuế GTGT ở Việt Nam.

1


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH

B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG.
1. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng.


a. Khái niệm.
Thuế là một khoản thu của Nhà nước với các tổ chức và mọi thành viên
trong xã hội. Khoản thu đó mang tính chất bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp mà
được dùng vào các mục tiêu công cộng. Để hiểu được thế nào là Thuế GTGT trước
hết cần tìm hiểu khái niệm giá trị gia tăng: “Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm
đối với một sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ tác động vào nguyên vật liệu thô hay
hàng hóa thu vào, làm cho giá trị của chúng tăng thêm ”. Nói cách khác, đây là số
chênh lệch giữa “ giá đầu ra ” và “ giá đầu vào ” do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá
trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Theo cách hiểu trên về giá trị gia tăng như trên,
Thuế GTGT được định nghĩa như sau:“ Thuế GTGT là loại thuế gián thu được
tính trên phần tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình trong
quá trình luân chuyển từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.” (Điều 1 Luật thuế
GTGT 2008).
b. Đặc điểm.
Thuế GTGT có nhiều điểm tương đồng với các loại thuế đánh vào hàng hóa
dịch vụ khác (như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu)
nhưng có thể nhận diện được thuế GTGT thông qua những đặc điểm của nó như:
Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng tồn tại
trong xã hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, người nghèo hay người có thu nhập
cao đều phải chi trả thu nhập của mình để hưởng thụ kết quả sản xuất kinh doanh
tạo ra cho nền kinh tế xã hội. Việc đánh thuế với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh
thổ thể hiện rõ nét sự công bằng của thuế đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước
đối với các loại tiêu dùng trong xã hội.

2


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ.
Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải với toàn bộ giá trị

hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu
thông không gây ra những đột biến về giá cho người tiêu dùng. Đặc điểm này của
thuế GTGT còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương thức
phù hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị tăng thêm làm căn cứ
tính thuế.
Thứ ba, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế GTGT
phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh
thuế ở tất cả các khâu cảu quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa ở trong nước,
khâu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải
nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi
giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hóa dịch vụ đã được
xác định trước và không thay đổi, các phần hàng hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và
đánh thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng
tính trên tổng giá trị hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Đây vừa
là được điểm vừa là ưu việt của thuế GTGT so với thuế hàng hóa dịch vụ thông
thường (thuế doanh thu) mà Việt Nam và nhiều quốc gia đã áp dụng trong giai
đoạn trước đây.
2. Khái niệm pháp luật thuế giá trị gia tăng.
a. Định nghĩa
Trên thế giới, để đưa ra được thuế GTGT và áp dụng trong thực tế không dễ
dàng thực hiện. Nhiều quốc gia phát triển cho đến nay vẫn không ban hành Luật
thuế GTGT với nhiều lý do khác nhau, Hoa Kỳ là một đại diện. Sự bạn hành luật
thuế GTGT cần phải có sự cân nhắc, lựa chọn thời điểm, tên gọi của luật thuế, các
quy định cụ thể để không gây ra những xáo trộn trong đời sống kinh tế, xã hội.

3


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
Pháp luật thuế giá trị gia tăng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà

nước ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai,
nộp thuế, quản lý và quyết toán thuế giá trị gia tăng.
Ở Việt Nam, Luật thuế GTGT thay thế Luật thuế doanh thu được ban hành và
áp dụng từ năm 1990 đến 1998, xuất phát từ một số lý do sau:
Thứ nhất, việc áp dụng Luật thuế GTGT giải quyết tình trạng đánh chồng thuế qua
các khâu của quá trình lưu thông hàng hóa.
Thứ hai, áp dụng Luật thuế GTGT với quy định thuế suất đơn giản, đảm bảo ở mức
độ tương đối về tính đơn giản và tính trung lập của thuế.
Thứ ba, Luật thuế GTGT với những điều kiện và phương pháp tính thuế không chỉ
tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách, đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ của đối tượng
nộp thuế mà còn là biện pháp chống gian lận, trốn lậu thuế ở các khâu của quá trình
sản xuất, lưu thông hàng hóa.
Pháp luật thuế GTGT có hai đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả
các đối tượng trong xã hội. Xuất phát được nội dung được pháp luật điều chỉnh cho
thấy, pháp luật thuế GTGT áp dụng đối với mọi đối tượng có thu nhập, sử dụng
một phần thu nhập phục vụ đời sống. Phạm vi áp dụng pháp luật thuế GTGT có
tính phổ biến so với pháp luật thuế tiêu dùng khác.
Thứ hai, pháp luật thuế GTGT chỉ có thể được ban hành khi các điều kiện
áp dụng đạt đến mức độ nhất định. Những điều kiện chủ yếu ở đây là các tiêu
chuẩn về kế toán, chế độ chứng từ hóa đơn và khả năng quản lý của chính các cơ
quan tham gia quản lý, thu thuế GTGT. Điều này lý giải việc ban hành Luật thuế
GTGT tại sao cần phải phải được xem xét đến hiều yếu tố như trên; một số trường
hợp, việc ban hành Luật thuế GTGT kèm theo đó là khoảng thời gian dài, đủ hội tụ
điều kiện áp dụng.

4


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH

Quy phạm pháp luật thuế GTGT quy định về các chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật thuế GTGT, các quyền và nghĩa vụ đối với mỗi loại chủ thể; những căn cứ
pháp lý xác định số thuế GTGT phải nộp và quy định mang tính thủ tục đảm bảo
các chủ thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ.
b. Yêu cầu đối với pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Ban hành Luật thuế GTGT được coi là bước đột phá trong quá trình cải cách, hoàn
thiện hệ thống pháp luật. Để đảm bảo tính hiệu quả, pháp luật thuế GTGT cần đáp
ứng một số yêu cầu sau:
- Đảm bảo tính thống nhất, tính ổn định và tính khả thi. Thuế GTGT là loại
thuế phức tạp, các vấn đề có liên quan đến thuế GTGT được quy định tại
nhiều văn bản pháp luật, với hiệu lực pháp lý khác nhau, mức độ điều chỉnh
trực tiếp hay gián tiếp khác nhau. Tất cả sự khác nhau này chỉ có thể là khác
nhau về trật tự áp dụng nhưng về nội dung phải đảm bảo tính thống nhất; phù
hợp với thực tế đời sống kinh tế, có tính ổn định, tạo niềm tin cho các chủ thể
kinh doanh.
- Đảm bảo tính đơn giản trong quá trình áp dụng. Tính đơn giản thể hiện ở
nhiều khía cạnh khác nhau như:
+ Đơn giản về cách hiểu, áp dụng đối với cơ quan quản lý, thu thuế;
+ Đơn giản về cách hiểu, tuân thủ đối với đối tượng nộp thuế GTGT;
+ Đơn giản về trình tự thủ tục trong suốt quá trình quản lý và chịu sự quản
lý về thuế GTGT.
- Hệ thống pháp luật thuế GTGT cần hướng tới người nộp thuế. Thể hiện yêu
cầu này, những quy định về việc kê khai, nộp thuế phải thể hiện sự tôn trọng
người nộp thuế: tối đa hóa cơ hội tự kê khai, tự nộp thuế của đối tượng nộp
thuế. Bên cạnh đó, đối với trường hợp vi phạm, quy định các chế tài thực sự
nghiêm khắc: bao gồm chế tài hành chính với mức phạt cao; chế tài hình sự
áp dụng đối với nhiều loại hành vi vi phạm khác nhau.

5



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG.
1. Kết quả đạt được.
Đối chiếu với các mục tiêu và yêu cầu đề ra qua các năm thì Thuế GTGT đã
đạt được những kết quả rất khả quan, góp phần đảm bảo nguồn thu ổn định và chủ
yếu cho NSNN, đáp ứng được yêu cầu điều tiết vĩ mô nền kinh tế, khuyến khích
mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trong
và ngoài nước... và quan trọng nhất là đã hình thành một hệ thống pháp luật thuế
tương đối đầy đủ, hợp lí, áp dụng thống nhất và bình đẳng với mọi thành phần kinh
tế, mọi loại hình doanh nghiệp.
Thứ nhất, thuế GTGT đã góp phần đáng kể vào trong sự phát triển của nền
kinh tế. Thuế GTGT thu trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ ở các khâu sản
xuất, lưu thông nên khắc phục được nhược điểm cơ bản của Luật thuế doanh thu là
thu trùng lặp qua các khâu sản xuất, kinh doanh, tạo sự công bằng hơn về thuế, từ
đó góp phần thực hiện hợp tác và chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh,
khuyến khích phát triển và mở rộng sản xuất, lưu thông hàng hoá. Điều này đã góp
phần tích cực vào việc lấy lại đà tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao.
Thứ hai, thuế GTGT thu được nhiều hiệu quả đáng kể trong công tác thu ngân
sách nhà nước. Mục tiêu khi áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu đó là
không chỉ ổn định mà còn phải làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thuế GTGT hàng năm liên tục tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu
về thuế, phí. Tuy nhiên, một vấn đề được đặt ra ở đây là theo xu hướng hiện nay thì
chúng ta đang cố gắng giảm tỷ trọng thuế gián thu trong cơ cấu thuế, bởi vậy việc
tỷ trọng thuế GTGT tăng thì ít hay nhiều cũng ảnh hưởng đến mục tiêu chung.
Chính vì vậy cần phải có các biện pháp để vừa tăng được số thuế GTGT thu vào lại
vừa giảm được tỷ trọng thuế gián thu trong cơ cấu thuế nói chung.
Thuế GTGT thu được từ nội địa chiếm phần lớn trong tổng thu của thuế
GTGT. Cùng với quá trình tăng dần của kim ngạch nhập khẩu, thuế GTGT hàng


6


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
nhập khẩu cũng tăng. Đây là kết quả đáng mừng cho cả hoạt động nhập khẩu và thu
ngân sách của nước ta.
Thứ ba, về hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư. Những mặt hàng xuất khẩu
được hưởng mức thuế suất thuế GTGT là 0%, do đó các doanh nghiệp xuất khẩu
được hoàn lại toàn bộ số tiền thuế đã nộp trước cho hàng hóa xuất khẩu, như vậy
mà đã bù đắp được phần nào các chi phí xuất khẩu, nâng cao kả năng cạnh tranh
của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế, kết hợp với nhiều biện pháp
khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước ta trong thời gian qua, khiến tình hình xuất
khẩu không ngững tăng cao.
Còn đối với hoạt động nhập khẩu. Việc đánh thuế GTGT hàng nhập khẩu
làm tăng giá bán hàng nhập khẩu trong nước, do vậy góp phần hạn chế và điều tiết
nhập khẩu, đồng thời Nhà nước cũng cho một số mặt hàng nhập khẩu không thuộc
diện chịu thuế GTGT, đó đều là những mặt hàng công nghiệp nặng, trong nước
chưa sản xuất được hoặc có chăng là sản xuất với số lượng ít, không đủ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người dân, những mặt hàng đó rất cần thiết cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, mà mục đích điều tiết nhập khẩu
thông quan thuế lại được thể hiện rõ ràng trong thuế GTGT.
Thứ tư, tế áp dụng thuế GTGT cũng góp phần hoàn thiện hệ thống chính
sách thuế ở Việt Nam. Thuế GTGT là một sắc thuế tiến bộ và việc nghiên cứu, xây
dựng và triển khai luật thuế này đã góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế
của Việt Nam. Để đạt được hiệu quả cao nhất từ luật thuế này thì Chính phủ, Quốc
hội đồng thời phải xây dựng đồng bộ các luật thuế có liên quan, điều này đánh dấu
bước tiến mới trong hệ thống chính sách thuế ở Việt nam, sự đổi mới đó phù hợp
với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng phù hợp với thông
lệ quốc tế. Khi các nước trong khu vực và trên thế giới hầu hết đều đã hoặc đang
nghiên cứu áp dụng thuế GTGT thì chúng ta cũng không thể giữ mãi luật thuế


7


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
doanh thu chồng chéo, nhiều mức thuế suất. Bởi vậy, thay đổi cũng là một yếu tố
tất nhiên.
Thứ năm, việc áp dụng thuế GTGT còn thúc đẩy tăng cường quản lý, hạch
toán kinh doanh của các doanh nghiệp; nâng cao nhận thức và ý thức tự giác chấp
hành luật thuế của các đối tượng nộp thuế; hiện đại hóa công tác quản lý thuế, cải
cách hành chính thuế, nâng cao năng lực quản lý thuế.
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Bên cạnh những thành tựu trên cũng không thể tránh khỏi những bất cập và
hạn chế đang tồn tại xung quanh. Việc tìm ra những bất cập và hạn chế đó không
phải để lên án hay chỉ trích việc ban hành và áp dụng luật Thuế GTGT mà mục
đích là để tìm ra phương hướng cũng như giải pháp để hoàn thiện, từ đó định ra con
đường đúng đắn nhằm phát triển hơn những thành quả đã đạt được.
a. Đối tượng chịu thuế.
Điều 5 Luật thuế GTGT quy định có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện
không chịu thuế. Số lượng như vậy là quá nhiều, trong khi mục tiêu của chính sách
thuế GTGT là mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng
đưa vào diện này còn chưa hợp lý, chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu gây gián
đoạn trong công tác thu nộp thuế và khó khăn cho doanh nghiệp.
Chính sách hiện hành cũng quy định hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến
không chịu thuế GTGT, do đó nếu các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người
sản xuất không có hóa đơn thì được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản
nhưng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy
chế biến thủy sản, doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT 5% vào ngân sách
nhà nước. Từ đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã mua bán hóa đơn GTGT
khống để làm chứng từ đầu vào khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5% tiền thuế.

Điều 5 và Điều 8 của luật GTGT đã quy định rõ ràng những đối tượng nào
không phải chịu thuế, đối tượng chịu thuế suất 0%, 5%, 10%. Trong bối cảnh nền

8


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
kinh tế mở cửa và hội nhập như hiện nay thì không những chỉ có những đối tượng
như vậy mà còn xuất hiện nhiều đối tượng mới, vậy những trường hợp này thì sẽ
xử lý như thế nào? Điều này tạo ra sự thiếu công bằng trong việc áp thuế và không
bao quát hết các hàng hóa, dịch vụ.
b. Về thuế suất.
Từ khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, số lượng mức thuế suất giảm đi rất
nhiều so với 11 mức thuế suất trước kia của thuế doanh thu, mặt khác lại còn
thường xuyên được xem xét sửa đổi (giảm từ 4 mức thuế suất xuống còn 3 mức
thuế suất như hiện nay), bởi vậy đã thu được nhiều thành công đáng kể. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện cũng xuất hiện nhiều hạn chế cần phải xem xét của hệ
thống nhiều mức thuế suất này.
Thứ nhất, việc có nhiều mức thuế suất làm cho công tác xây dựng chính sách
của các cơ quan có chức năng gặp nhiều khó khăn. Lúc này, muốn tạo ra một sắc
thuế thật công bằng thì cơ quan hoạch định chính sách phải xây dựng các tiêu
chuẩn phân loại hàng hóa, dịch vụ để từ đó mà áp vào các nhóm thuế suất khác
nhau. Điều này không phải lúc nào cũng được thực hiện thuận lợi vì sự khác nhau
giữa các loại hàng hóa là rất khó phân định, sẽ có nhiều ý kiến phản hồi từ các đối
tượng chuyển đến, đặt ra một vấn đề là lại phải tốn một khoản chi phí nhất định để
tổ chức trả lời giải thích cụ thể…
Thứ hai là đối với các doanh nghiệp, không phải doanh nghiệp nào cũng chỉ
sản xuất kinh doanh một loai hàng hóa nhất định và cũng không phải tất cả nguyên
liệu đầu vào của các doanh nghiệp đều chịu một mức thuế suất như nhau, bởi vậy
nên công tác tính toán thuế của họ sẽ trở nên rất phức tạp với nhiều mức thuế suất.

Giữa các khâu của quá trình sản xuất thuế phải thu khác nhau làm cho đối tượng
nộp thuế bị phân biệt đối xử. Chính vì lý do như vậy mà khi doanh nghiệp xác định
hướng sản xuất kinh doanh của mình phải hao tốn thêm một lượng chi phí để xây
dựng chiến lược mặt hàng, tính toán thuế cho từng sản phẩm, từng giai đoạn.

9


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
c. Phương pháp tính thuế.
Phương pháp tính thuế là yếu tố quyết định đến việc thuế tính có bị trùng
lắp, chồng chéo hay không. Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện hai phương pháp
tính thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp.
Khi áp dụng nhiều phương pháp như quy định hiện hành thì sẽ có những hạn
chế và bất hợp lý, gây ra sự không thống nhất về giá tính thuế, đối với phương pháp
khấu trừ thì giá là giá chưa có thuế GTGT, còn phương pháp trực tiếp là giá đã có
thuế GTGT, điều này làm cho tính liên hoàn của thuế GTGT bị đứt đoạn, không
công bằng giữa các địa bàn tỉnh. Do quy định Cục thuế tỉnh xác định tỷ lệ % GTGT
tính trên doanh thu làm căn cứ tính thuế, dẫn đến mỗi tỉnh ban hành một biểu tỷ lệ
thuế suất riêng không thống nhất trong cả nước. Điều này làm mất đi ý nghĩa của
thuế GTGT vì đối tượng nộp thuế trong trường hợp này không quan tâm đến tỷ lệ
GTGT trên doanh thu mà họ chỉ quan tâm đến doanh thu và số thuế phải nộp.
Hơn nữa, tính thuế theo phương pháp trực tiếp không khắc phục được hiện
tượng trùng thuế vốn là ưu điểm nổi bật của thuế GTGT. Theo công thức của
phương pháp trực tiếp thì giá bán và giá vốn của hàng hóa đều đã là giá có thuế
GTGT, trong trường hợp nếu doanh số bán ra lớn hơn giá vốn (thường phổ biến) thì
phần chênh lệch đã bị đánh trùng thuế.
d. Chế độ hóa đơn chứng từ.
Một trong những yếu tố ảnh hướng lớn nhất trong quá trình thực hiện
luật thuế GTGT ở nước ta là vấn đề về hóa đơn chứng từ. Luật thuế GTGT quy

định quá nhiều loại hóa đơn, bên cạnh hóa đơn dành cho các cơ sở áp dụng theo
phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ còn có các loại hóa đơn đặc thù kể
cả bảng kê mua hàng hóa của người không có hóa đơn,… Các hóa đơn đều có tính
pháp lý như nhau do Luật thuế quy định. Nhưng điểm đáng chú ý ở đây là việc
khấu trừ thuế lại khác nhau, chỉ có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn đặc thù tại các
đơn vị nộp thuế theo phương pháp khấu trừ mới được khấu trừ thuế theo quy định.

10


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
Chính phủ đã ban hành rất nhiều quy định về hóa đơn chứng từ như Nghị định số
89/2002/NĐ-CP quy định về việc in, phát hành, quản lý hóa đơn,… nhưng vẫn nảy
sinh hiện tượng lợi dụng trong mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để khai man
thuế GTGT đầu vào để khấu trừ hoặc gian lận trong hoàn thuế.
e. Cơ chế quản lý và thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế.
Đã nhiều năm kể từ khi cải cách thuế Việt Nam được tiến hành, bên cạnh
những thành tựu đạt được thì các hạn chế vẫn tồn tại khá nhiều. Đối với hệ thống
thuế nói chung và riêng với sắc thuế GTGT, một điều đáng chú ý là hệ thống cơ
quan hành thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra
thuế lại không đáng kể,… Các khâu hành thu phức tạp, một số trường hợp còn xảy
ra hiện tượng chồng chéo.
Bộ máy tổ chức ngành thuế cũng chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý
thuế của nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ
thống này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán
bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế
do đó không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển
sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải
tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của một số cán bộ còn thấp
do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc.

III. MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG.
- Về phạm vi, đối tượng chịu thuế.
Thu hẹp đối tượng không chịu thuế trên nguyên tắc đảm bảo phù hợp với
thông lệ quốc tế, điều kiện kinh tế - xã hội đất nước, các chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước và tình trạng công tác quản lý thuế
qua từng thời kỳ.

11


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
Theo đó, đối tượng không thuộc diện chịu thuế chỉ nên bao gồm các
nhóm mặt hàng sau: Nhóm các mặt hàng sản phẩm nông nghiệp của các tổ
chức hộ gia đình, cá nhân tự sản xuất và bán ra; nhóm các dịch vụ xã hội cần
thiết phục vụ chính sách phát triển con người (y tế, giáo dục, đào tạo, văn
hóa, thể thao, phát thanh, truyền hình công cộng); nhóm các dịch vụ phúc lợi
xã hội, bao gồm:vệ sinh thoát nước, đường phố, công viên, cây xanh, chiếu
sáng công cộng; nhóm các mặt hàng chuyên dụng phục vụ an ninh – quốc
phòng được tài trợ từ NSNN, nhóm các mặt hàng không chịu thuế theo thông
lệ quốc tế.
- Về thuế suất
Theo quy định hiện hành, thuế GTGT hiện nay có ba mức thuế suất: 0%,
5%, 10%. Việc quy định các mức thuế suất khác nhau ảnh hưởng lớn đến
tính công bằng và hiệu quả của Thuế GTGT. Chính sách thuế GTGT cần
được cải cách theo hướng giảm bớt số mức thuế suất để nâng cao hiệu quả,
tính trung lập và tránh những tác động bóp méo của thuế.
- Về phương pháp tính thuế
Cần đi đến thống nhất sử dụng một phương pháp tính thuế khấu trừ đối
với các doanh nghiệp có quy mô phù hợp (doanh nghiệp lớn và vừa). Nghiên

cứu áp dụng chế độ thuế phù hợp đối với các pháp nhân nhỏ. Cần nghiên cứu
cơ chế xem xét việc quy định thống nhất một loại thuế đối với các doanh
nghiệp nhỏ (chẳng hạn thuế doanh nghiệp nhỏ tính trên doanh thu) để đảm
bảo tính đơn giản, dễ triển khai thực hiện và nâng cao tính công bằng, hiệu
quả của hệ thống chính sách thuế.
- Về hoàn thuế
+ Xây dựng tiêu chí rõ ràng về điều kiện, thời hạn, mức hoàn thuế, đối
tượng hoàn thuế, đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế để đảm bảo hoàn thuế đúng

12


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH
đối tượng, đầy đủ và kịp thời.
+

Hoàn thiện quy trình quản lý hóa đơn, chứng từ Thuế GTGT, trong đó

chú trọng tăng cường trách nhiệm quản lý của cơ quan thuế trong việc cấp và
kiểm tra, giám sát quy trình sử dụng hóa đơn, chứng từ Thuế GTGT tại các
doanh nghiệp.
- Về quản lý thu thuế
+ Cần quy định thống nhất và cụ thể vai trò, chức năng của các cơ quan
trong việc quản lý thu thuế nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và rõ
ràng trong trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý thu thuế.
+ Tăng cường và hợp lý hóa quy trình quản lý hóa đơn, sổ sách, chứng từ kế
toán cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp và đối tượng nộp thuế.
+ Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối tượng nộp thuế kết
hợp với tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức
năng khác trong công tác quản lý thuế.

+ Khuyến khích phát triển hệ thống dịch vụ tư vấn thuế dưới cả hình thức
nhà nước và tư nhân.
+ Tăng cường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho
đội ngũ cán bộ thuế.

13


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT TÀI CHÍNH

C. KẾT LUẬN
Kể từ khi ban hành cho đến nay, thuế giá trị gia tăng luôn thu hút sự quan tâm
đặc biệt của mọi giới, nhất là các nhà kinh doanh lớn và nhỏ. Tác động tích cực do
thuế GTGT mang lại rất rõ: thu ngân sách Nhà nước không giảm mà còn tăng nhiều
so với thuế doanh thu; hoạt động sản xuất – kinh doanh ngày càng đi vào mạnh mẽ;
và, sản xuất nội địa được gia tăng áp lực bảo hộ.
Cho đến nay, Luật thuế GTGT đã từng bước khẳng định chỗ đứng và vai trò
của một sắc thuế tiến bộ, công bằng, là công cụ điều tiết vĩ mô. Tuy còn một số bất
cập không thể tránh khỏi trong việc đưa ra áp dụng một chính sách thuế mới có tác
động rộng rãi đến tất cả các thành phần kinh tế từ các doanh nghiệp lớn đến các hộ
sản xuất cá thể. Nhưng chúng ta có thể tin rằng trong những năm tới, với những
nghiên cứu và sửa đổi Luật thuế GTGT của Chính phủ, Luật thuế GTGT sẽ ngày
càng hoàn thiện và thể hiện rõ vai trò của một sắc thuế tiến bộ trong nền kinh tế của
nước ta.

14




×