Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.13 KB, 16 trang )

MỤC LỤC:

A
B
I
1.1
1.2
II

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Khái quát chung về người bào chữa trong tố tụng hình sự
Khái niệm, phân loại người bào chữa
Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Những quy định của pháp luạt về đại vị pháp lí của người bào

Trang
2
2
2
2
4
4

2.1
2.2
III

chữa trong tố tụng hình sự
Quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự


Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật luật hiện

5
8
10

hành và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền
3.1

và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật luật hiện

10

3.2

hành về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa

12

C

vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
KẾT LUẬN

15

A, MỞ ĐẦU.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con người trên mọi phương diện, và đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng
hình sự. Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng của công dân
1


khi tham gia tố tụng với tư cách là người tạm giữ, bị can, bị cáo. Để góp phần
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháo của họ thì pháp luật cho họ có quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Vậy quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa trong tố tụng được thể hiện như thế nào thì sau đây tôi xin
phân tích đề tài: “Địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự”.
B, NỘI DUNG.
I. Khái quát chung về người bào chữa trong tố tụng hình sự
Sự tham gia tố tụng của người bào chữa là điều rất cần thiết, bằng
kinh nghiệm nghề nghiệp và trình độ hiểu biết của mình, người bào chữa
tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Qua đó mà sự tham gia tố tụng của người
bào chữa sẽ góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án được đúng đắn,
không để bị can, bị cáo bị buộc tội oan sai.Do vậy việc quy định địa vị pháp
lý của người bào chữa trong BLTTHS là điều cần thiết.
1.1, Khái niệm, phân loại người bào chữa:
+, Khái niệm:
Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng
nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo vô tội, nhữn tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ những người này về mặt pháp lý nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
+, Phân loại người bào chữa:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa
có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật
tham gia tố tụng hình sự theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ
2


quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật.
Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
- Bộ Luật TTHS không quy định rõ thế nào là “Người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, có thể vận dụng điểm a khoản 1
Điều 58 Bộ Luật Dân Sự về giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành
niên (chưa đủ 18 tuổi) để hiểu người đại diện hợp pháp là: Người chưa thành
niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất
năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn
chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục
người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Hoặc người đại diện
theo pháp luật bao gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Người giám
hộ đối với người được giám hộ (Điều 141 BLDS).
- Hiện nay, hệ thống pháp luật hiện hành không có văn bản nào quy định về
chế định Bào chữa viên nhân dân nhưng có thể hiểu bào chữa viên nhân dân
là người được Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của
mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của
tổ chức mình. Và khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa thì bào
chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định
chung cho người bào chữa.
Những người không được bào chữa được quy định tại khoản 2 Điều 56
BLTTHS.
1.2, Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Nói đến người bào chữa trước hết phải thấy được vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo. Pháp luật quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền bào chữa
thông qua việc tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tuy
3


nhiên nếu nhìn từ tính phức tạp của vụ án hình sự thì vấn đè tự bào chữa là
hết sức khó khăn. Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều vấn đề
pháp lí mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể nhận thức được nên
việc tự bào chữa sẽ không đạt hiệu quả. Vì vậy việc người bào chữa có kiến
thức chuyên sâu sẽ góp phần tích cực đảm bảo được quyền bào chữa.
Ở khía cạnh khác thì sự tham gia của người bào chữa trong TTHS còn
góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan, tang cường tính dân chủ
trong hoạt động tư pháp, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của
người bào chữa còn hạn chế sự chuyên quyền của cơ quan tiến hành tố tụng,
giúp họ nhìn thấy những khuyết điểm, thiếu sót.
Tóm lại với phương châm: “Không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không
làm oan người vô tội”.
II, Những quy định của pháp luạt về đại vị pháp lí của người bào
chữa trong tố tụng hình sự.
Để đảm bảo cho người bào chữa thực thi được chức năng của mình
BLTTHS đã quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong
tố tụng hình sự tại Điều 58 BLTTHS.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường
hợp bắt người theo quy định tại Điều 81,82 BLTTHS năm 2003 thì người bào
chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật
điều tra, đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm
sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
2.1, Quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Có thể nói BLTTHS năm 2003 đã bổ sung khá đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng so với BLTTHS năm 1988.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 thì người bào
chữa có những quyền sau:
4


- Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giam, khi hỏi cung bị can và
nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt
trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng
có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà
mình bào chữa;
Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý
nghĩa quan trọng. Bởi lẽ khi có mặt của người bào chữa, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn; những người tiến hành các hoạt
động điều tra cũng sẽ phải thận trọng và tuân thủ pháp luật hơn. Hơn nữa,
người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều
đó có ý nghĩa rất lớn trong cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh
tụng của họ sau này tại phiên tòa.
- Đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị
can để có mặt khi hỏi cung bị can;
Quy định này tương thích với quy định quyền trên của người bào chữa. Việc
được báo trước thời gian, địa điểm hỏi cung bị can giúp người bào chữa thu
xếp thời gian để có mặt đúng thời gian địa điểm hỏi cung bị can tránh tình
trạng theo dõi ngắt quãng, bỏ qua một số thông tin quan trọng chỉ vì đến
muộn giờ.
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của bộ luật này;
Bởi trong xã hội có nhiều mối quan hệ phức tạp và xuất phát từ lợi ích vật
chất có nhiều người lấy công trả thù tư, khai khống để vu oan giáo họa cho
người khác...Để đề nghị này được thực hiện thì người bào chữa phải đưa ra
được căn cứ ( theo luật định) và xét thấy việc những người này tiến hành

hoặc tham gia tố tụng có thể gây ảnh hưởng không tốt đến quyền, lợi ích của
người mà họ đang bào chữa.
5


- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu
không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác (quyền bổ sung so với
BLTTHS năm 1988).
Đây là một bổ sung rất quan trọng, giúp cho người bào chữa khả năng thực
hiện tốt nhiệm vụ bào chữa của mình, đảm bảo cho việc buộc tội của Viện
kiểm sát khách quan, không phiến diện, một chiều.
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Đây là biện pháp để người bào chữa có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đồng thời, góp phần đảm bảo tính khách
quan, chính xác, đúng pháp luật trong hoạt động tố tụng. Trong quá trình thu
thập tài liệu, chứng cứ của mình nhiều khi người bào chữa có những phát
hiện mới khác theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hoặc
người bào chữa có quyền đưa ra những yêu cầu như triệu tập thêm người làm
chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho
người được bào chữa. Để làm sáng tỏ vụ án hơn cũng như xuất phát từ mục
đích nhân đạo của pháp luật nước ta thì cơ quan tiến hành tố tụng nên tôn
trọng quyền này của người bào chữa.
- Gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
Trong nhiều trường hợp người bào chữa không quen biết gì người mà mình
đang định bào chữa hoặc chưa hiểu gì nhiều về tính cách của họ… Do vậy
mà,việc thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo giúp người bào chữa có thể nắm bắt được đầy đủ các tình tiết của vụ
án, các đặc điểm nhân thân cũng như diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng

của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được
những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Đồng
6


thời, cũng qua đó người bào chữa có thể giải thích những vấn đề về pháp luật
và tác động đến những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ
khai báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến
việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật.
Qua việc đọc, ghi chép hồ sơ vụ án thì người bào chữa có thể nắm
được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ
tội đối với được bào chữa, trên cơ sở đó chuẩn bị tốt cho việc bào chữa, tham
gia tranh tụng tại phiên tòa. Không những thế, qua việc đọc hồ sơ, tài liệu vụ
án, người bào chữa cũng sẽ có điều kiện để phát hiện những sai lầm, thiếu
sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu
cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền. Như chúng ta có thể
thấy, thời gian để người bào chữa được nghiên cứu vụ án cũng rất hạn chế,
trong khi đó những vụ án lớn có số lượng hồ sơ rất nhiều và phức tạp (Chẳng
hạn như vụ án Năm Cam và đồng bọn). Việc sửa đổi quy định cho phép “Sao
chụp” những tài liệu trong hồ sơ vụ án…là một sự bổ sung cần thiết.
- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Tại phiên tòa thì vai trò của người
bào chữa được thể hiện một cách rõ nét nhất. Trong phiên tòa người bào chữa
có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để từ đó
có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Thông qua việc tranh
luận tại phiên tòa, bằng việc phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để có thể
bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng;
- Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa

thành niên hoặc người có nhược điểm về tinh thần hoặc thể chất theo quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 57 bộ luật này. Đây là quyền độc lập của người
7


bào chữa, việc người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc vào ý chí của bị
cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo nhưng phải theo hướng có lợi cho
bị cáo.
2.2, Nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTHS 2003 thì người bào chữa có
những nghĩa vụ sau:
- Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi
thu nhập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có
trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao
nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và các cơ quan tiến hành tố
tụng phải được lập biên bản theo quy định tại điều 95 của bộ luật này.
- Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ. Bởi vì thường thì những người trên có hiểu biết
rất hạn hẹp về pháp luật và những người bào chữa mà đặc biệt là luật sư họ
rất am hiểu pháp luật và cũng xuất phát từ những quyền của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo.
- Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà
mình đã đảm nhận bào chữa nếu không có lý do chính đáng. Trong quá trình
tham gia vụ án ít nhiều thì người bào chữa cũng biết được những thông tin,
nắm giữ tài liệu liên quan…Do vậy luật quy định người bào chữa có nghĩa vụ
này là tránh trường hợp người bào chữa dùng những thông tin đó gây bất lợi
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; tránh tình trạng kéo dài vụ án do nếu
thay người mới thì cũng mất thêm thời gian tìm người, người bào chữa mới

mất thời gian nghiên cứu lại hồ sơ…

8


- Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc
xúi giục người khác khai bóa gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. (nghĩa vụ
bổ sung so với BLTTHS năm 1988). Yếu tố quan trọng làm xuất hiện, cần
đến sự tham gia tố tụng của người bào chữa là để cho sự thật được làm sáng
tỏ, bảo vệ được quyền lợi cho những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo – đây
cũng là cái đích mà pháp luật hướng tới. Bởi vậy, mỗi người khi tham gia tố
tụng với tư cách người bào chữa cần có nghĩa vụ này.
- Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Khi tòa án triệu tập đến có nghĩa là
sự có mặt của người bào chữa là cần thiết, liên quan đến quyền lợi của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc
bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã sao chép, in chụp trong hồ sơ vụ
án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan tổ chức, cá nhân. (nghĩa vụ bổ sung so với BLTTHS năm 1988).
Bởi khi mà bí mật điều tra bị lọt ra ngoài có nhiều đối tượng xấu lợi dụng nó
làm sai lệnh sự thật gây bất lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặ ảnh
hưởng tới lợi ích của nhà nước ta.
Nhận xét: Việc pháp luật quy định người bào chữa có những quyền và
nghĩa vụ trên đều xuất từ việc tôn trọng sự thật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc quy định này là đúng, tương thích với
quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Song những quy định
này vẫn còn chung chung chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ, … đã thể hiện rõ bất
cập trong thực tế. Do vậy, cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa những quy định
của pháp luật để hiệu quả tham gia tố tụng của người bào chưa được nâng
cao.


9


III, Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật luật hiện
hành và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ
của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
3.1, Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật luật hiện
hành về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
Thứ nhất, về tỉ lệ người bào chữa tham gia tố tụng ở Việt Nam hiện
nay: Người bào chữa khi tham gia TTHS chủ yếu là Luật sư. Sự tham gia của
người đại diện hợp pháp là rất ít, và đặc biệt là rất hiếm hoi đối với bào chữa
viên nhân dân. Tuy nhiên thì tỉ lệ người bào chữa là luật sư cũng rất hạn chế.
Theo đánh giá của Bộ tư pháp thì chỉ có khoảng 20% VAHS trong cả nước
có sự tham gia của Luật sư. Theo số liệu thống kê của ngành Tòa án trong 3
năm 2005-2007 thì toàn ngành Tòa án xét xử 179.091 VAHS với 302.634 bị
cáo. Trong đó chỉ có 40.633 VAHS là có luật sư tham gia tố tụng (xem báo
cáo số 87/BC-BCS ngày 14 tháng 11 năm 2008 của Ban cán sự Đảng Bộ tư
pháp về sơ lược két quả ba năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
3/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020).
Như vậy, số luạt sư tham gia bào chữa chỉ chiếm 22,70%.
Tỉ lệ số VAHS có người bào chữa ở một số tỉnh còn thấp hơn tỉ lệ bình
quân trên. Như ở tỉnh Gia Lai trung bình mỗi năm ngành Toà án tỉnh đưa ra
xét xử trên 1.200 vụ án hình sự, nhưng chỉ có chưa đến 20% vụ án có người
bào chữa. Đoàn Luật sư tỉnh chỉ có 16 người, nhưng thực chất chỉ có ½ hoạt
động , chủ yếu tại địa bàn TP Pleiku chưa đến 20% vụ án có người bào chữa
(xem http://www. Tinphapluat.bacvietluat.vn).
Thứ hai, thực tiễn thực hiện những quy định về quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa khi tham gia TTHS: Trong quá trình tham gia tố tụng người
bào chữa gặp không ít khó khăn, vướng mắc khi thực hiện các quyền của

mình do pháp luật quy định.
10


Người bào chữa được tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm
giữ trong trường hợp bắt người khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã. Trên thực tế quyền này khó thực hiện vì theo quan điểm của
một số điều tra viên sự tham gia của người bào chữa chỉ thêm rối.
Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai người bị tạm giam,
khi hỏi cung bị can và có thể hỏi người bị tạm giam, bị can nếu như Điều tra
viên đồng ý. Trên thực tế rất hiếm có người bào chữa may mắn tham gia cuộc
hỏi cung bị can bởi Điều tra viên không muốn có sự tham gia của họ.
Người bào chữa cũng có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về
thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can nhưng cơ
quan điều tra không thông báo hoặc sát giờ hỏi cung bị can mới báo để người
bào chữa không đến kịp.
Người bào chữa cũng có quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đang bị tạm giam nhưng rất khó thực hiện công an, cảnh sát không cho.
Hơn nữa khi gặp được người bị tạm giam, bị can, bị cáo thì đa số các
trường hợp đều có mặt giám thị nên những thông tin thật sự liên quan đến vụ
án không được khai báo.
Thứ ba, khi tranh luận tại phiên Tòa thì VKS không đối đáp các ý kiến
của Luật sư mà chỉ nói rằng: “tôi bảo lưu ý kiến của mình”, “tôi có đủ cơ sở
để kết luận hành vi vi phạm của bị cáo” và Hội đồng xét xử cũng không yêu
cầu VKS phải đối đáp đầy đủ từ đó dẫn đến việc chưa đảm bảo sự đầy đủ và
khách quan tại phiên Tòa.
Thứ tư, một số người bào chữa còn lúng túng tại phiên Tòa khi bào
chữa. Có luật sư còn thay quyền công tố kết tội bị cáo để làm lợi cho thân
chủ của mình. Nhưng cũng có trường hợp Luật sư và thân chủ không hiểu ý
nhau nên trong phần xét hỏi có nhiều mâu thuẫn.


11


3.2, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa
vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Thứ nhất: làm sáng tỏ khái niệm người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo với bào chữa viên nhân dân.
Việc quy định về người đại diện hợp pháp của người bị tam giữ, bị
can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân còn chưa cụ thể. Do đó, dẫn tới việc áp
dụng trên thực tế rất khó khăn. Mặt khác, việc những người này tham gia tố
tụng cũng rất hạn chế mà chủ yếu là vai trò của luật sư. Vì thế cho nên cần
quy định cụ thể những đối tượng đó là những ai.
Thứ hai, sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật TTHS về
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
- Khoản 1 Điều 58 quy định người bào chữa tham gia tố tụng từ khi
khởi tố bị can đây là một bước tiến mới trong TTHS Việt Nam, vì trước đó
người bào chữa chỉ được tham gia tố tụng khi hồ sơ vụ án được chuyển sang
Tòa án. Về mặt thực tế, việc được tham gia sớm vào quá trình tố tụng đã tạo
cho người bào chữa những điều kiện pháp lý cần thiết để bảo vệ hiệu quả
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.Tuy nhiên, thực tiễn điều tra cho
thấy rằng tỷ lệ các vụ án có luật sư tham gia bào chữa cho bị can ngay từ giai
đoạn điều tra còn quá thấp so với tổng số vụ án hình sự bị khởi tố cũng như
so với tỷ lệ vụ án hình sự có sự tham gia từ các giai đoạn sau. Bên cạnh đó,
thì thủ tục xét và cấp GCNNBC chưa được thống nhất ở các địa phương, bị
chậm trễ về mặt thời gian và còn bị từ chối vì nhiều lý do không chính đáng.
Do vậy, để đảm bảo điều kiện thực thi quyền của người bào chữa trong
TTHS cần quan tâm đến việc cải cách thủ tục cấp và chứng nhận tư cách
người bào chữa theo hướng hợp pháp, đơn giản, nhanh chóng. Nghị quyết số
49 của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 đã nhấn mạnh: “Đổi mới thủ tục hành


12


chính trong cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp
cận công lý.”
- Điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS sửa đổi theo hướng người bào
chữa có quyền: “Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị
can. Sauk hi Điều tra viên thực hiện xong phần lấy lời khai, hỏi cung thì
người bào chữa được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt
động điều tra khác.”
- Với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 55 BLTTHS ta nhận thấy rằng:
Quy định này mang nặng tính hình thức và người bào chữa (chủ yếu là luật
sư) không tham gia và giúp đỡ được gì nhiều cho thân chủ của mình vì bị hạn
chế, tùy thuộc vào sự chấp nhận của Điều tra viên.Trong thực tế, việc người
bào chữa có mặt trong các buổi hỏi cung thường gặp rất nhiều trở
ngại.Thường thì họ không được Cơ quan điều tra thông báo về thời gian hỏi
cung bị can hoặc đã được báo trước về thời gian hỏi cung bị can nhưng sau
đó lại bị hoãn nhiều lần. Thiết nghĩ, trong trường hợp bị can yêu cầu phải có
sự tham gia của luật sư tham dự các buổi hỏi cung thì cơ quan điều tra phải
đảm bảo thực hiện yêu cầu đó. Và vấn đề này cần phải được quy định phù
hợp trong BLTTHS.
- Hiện nay BLTTHS 2003 quy định còn chưa cụ thể, chặt chẽ về quy
định khi người bào chữa gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong trại giam
thì có được gặp riêng hay phải có sự có mặt của của giám thị trại giam. Vì thế
trên thực tế, ở một số địa phương khi người bào chữa gặp người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo thì có sự giám sát trong buổi trong buổi làm việc, dù muốn hay
không cũng sẽ gây ức chế tâm lý đối với họ hoặc ngay cả đối với người bào
chữa. Do đó dẫn đến tình trạng người bào chữa muốn phân tích những sai
phạm của họ để họ nhận tội khắc phục hậu quả nhằm hưởng tình tiết giảm

nhẹ theo quy định của pháp luật nhưng với sự có mặt của điều tra viên, kiểm
13


sát viên họ không thực hiện lời khuyên được vì trước đây họ có lời khai khác
với cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi
cho người bào chữa làm việc có hiệu quả nên quy định lại điểm e, Khoản 2
Điều 58 như sau: “ người bào chữa có quyền gặp riêng người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo tại nhà tạm giữ hoặc trại giam”.
- Theo quy định của BLTTHS 2003 thì Chủ tọa phiên tòa không được hạn
chế thời gian tranh luận tại phiên tòa trừ việc cắt ý kiến không liên quan đến
vụ án. Tuy nhiên thực tế vẫn còn nhiều bất cập.
- Hiện nay quy định về những giấy tờ cần thiết để làm thủ tục cấp GCNNBC
còn chung chung nên đã gây khó khăn cho người bào chữa khi xin cấp
GCNNBC. Vì thế, cần quy định cụ thể những giấy tờ này là gì, đồng thời cần
quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc
cấp GCNNBC và chế tài cho việc cố tình trì hoãn hoặc đưa ra lý do không
hợp pháp để từ chối việc cấp giấy chứng nhận. Quy định Tòa án phải lưu giấy
chứng nhận ở trong hồ sơ vụ án để thuận tiện cho việc kiểm tra, phát hiện
những vi phạm trình tự, thủ tục của cơ quan tiến hành tố tụng…
Thứ ba, một số giải pháp khác.
- Cần xác định vị trí, vai trò của Luật sư như một chức danh tư pháp
độc lập, có trách nhiệm và quyền hạn trong quá trình điều tra, thu thập chứng
cứ, cũng như các giai đoạn khác của hoạt động tố tụng. Và xem sự hiện diện
của luật sư như là một yêu cầu để đảm bảo tính hợp pháp của hoạt động tố
tụng đó.
- Cần ghi nhận một số nguyên tắc tố tụng tiến bộ của các nước trên thế
giới chẳng hạn như: Sự bắt buộc có mặt và trợ giúp pháp lý của luật sư trong
hoạt động tố tụng; quyền im lặng của bị can, bị cáo cho đến khi có mặt luật
sư; đảm bảo việc trao đổi, tư vấn của luật sư với thân chủ trong trại giam chỉ

trong tầm nhìn, ngoài tầm nghe của người tiến hành tố tụng…
14


- Tăng cường đội ngũ Luật sư về cả số lượng và chất lượng. Công tác
đào tạo Luật sư cần được Bộ tư pháp quan tâm nhiều hơn nữa, tạo điều kiện
cho họ được rèn luyện, trau dồi kỹ năng traanh tụng và hoàn thiện các kĩ
năng khác của người bào chữa. Bản thân Luật sư cũng phải trau dồi, tích lũy
kiến thức pháp lý của mình, nhằm theo kịp sự thay đổi của các yếu tố xã hội.
Luật sư phải không ngừng học tập, thường xuyên thực hành bồi dưỡng
nghiệp vụ. Bên cạnh đó cũng cần phải học và được đào tạo về đạo đức nghề
nghiệp.
- Giáo dục ý thức pháp luật cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để họ
thấy hết được cái lợi mà người bào chữa mang lại. Đối với những người tiến
hành tố tụng thì bản thân họ phải có ý thức đúng đắn về người bào chữa. Các
cơ quan tiến hành tố tụng cũng nên tiến hành kiểm tra thường xuyên, phát
hiện kịp thời những trường hợp không tạo điều kiện hoặc cản trở người bào
chữa thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ để có hình thức xử lí. Đối với người
bào chữa cần phải bào chữa một cách chuyên tâm vì lợi ích của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trên cơ sở đạo đức nghề nghiệp.
C, KẾT LUẬN.
Qua đó ta đã phần nào thấy được các quy định của pháp luật về người
bào chữa là rất quan trọng trong TTHS. Nhiệm vụ và quyền hạn của người
bào chữa để được nâng cao hơn nữa cần phải không chỉ hoàn thiện them
pháp luật mà còn phải cần sự hợp tác giữa những người tham gia tố tụng. Và
để những người bào chữa tham gia hoạt động tố tụng thực sự hiệu quả thì cần
chú trọng hơn nữa công tác đào tạo luật sư để phù hợp với nhu cầu thực tế
trong đời sống hàng ngày vì con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

15


1, Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam,
Nxb tư pháp, Hà Nội, 2006;
2, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003;
3, Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009;
4, Tạp chí Kiểm sát số 4/2007, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
thực thi các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền của luật sư trong
quá tham gia tố tụng;
5, Trường Đại học luật Hà Nội, Văn Hoàng Anh, Địa vị pháp lí của người
bào chữa trong tố tụng hình sự, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2010;
6, Trường Đại học luật Hà Nội, Dương Đức Trọng, Địa vị pháp lý của Luật
sư bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thảm vụ án hình sự, Khóa luận tốt
nghiệp, Hà Nội, 2011;
7, Trường Đại học luật Hà Nội, Đỗ Thị Loan, Địa vị pháp lí của Luật sư bào
chữa trong tố tụng hình sự, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2011.

16



×