I. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ
Trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự biện pháp ngăn chặn tạm giam là biện pháp
ngăn chặn có tính chất hà khắc nhất. Việc sử dụng biện pháp tạm giam đã tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho các cơ quan tiến hành tố tụng làm việc một cách có hiệu quả đồng thời biện pháp
ngăn chặn tạm giam này để xét xử, điều tra cũng như truy tố một cách có hiệu quả, đảm bảo
sự công bằng cho mọi công dân Việt Nam.
Vì vậy, để hiểu thêm về việc sử dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giam em đã chọn đề tài
” tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp ngăn chặn này”. Qua tìm hiểu em mong sẽ hiểu rõ như thế nào là tạm giam?
được áp dụng ra sao trong thực tiễn và quy định của pháp luật ra sao về vấn để này
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Một số vấn đề về lý luận
a, Khái niệm về biện pháp ngăn chặn tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng hay bị can bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà bộ luật hình sự
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
việc điều tra truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Tạm giam là một trong những biện
pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình
sự . Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách li với xã hội trong một thời gian nhất định,
bị hạn chế một số quyền công dân.1
b, mục đích của biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự
• Tạm giam được áp dụng cho các bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng
hình sự vì thế mục đích chung thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện
tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
• việc áp dụng biện pháp tạm giam còn có mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt
chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
c, Căn cứ của biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam bao gồm:
1
Giáo trình luật tố tụng hình sự trường đại học luật Hà Nội
1
Căn cứ thứ nhất: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử. Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thể hiện qua
việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn tiêu hủy, làm
giả, thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, … gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành
tố tụng trong việc xác định và làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Căn cứ thứ hai: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể được thể
hiện qua các yếu tố phản án về nhân thân của các bị can, bị cáo. Họ có thể là những phần tử
xấu, tái phạm, tái nguy hiểm, là những tên tội phạm có tính chất chuyên nghiệp, những tên côn
đồ hung hăng coi thường pháp luật. Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội còn thể
hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe dọa người làm chứng, người bị hạn và sự đe dọa có
khả năng trở thành hiện thực
Căn cứ thứ ba : “để đảm bảo thi hành án”. Công tác thi hành án hình sự là vấn đề vô cùng
quan trọng. Các bản án, quyết định của tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật cần phải được đưa
ra thi hành, có như vậy mới nâng cao được tính hiệu quả của pháp luật trong đời sống thực tế.
Khi cần bảo đảm thi hành án, tùy theo tính chất cụ thể của từng vụ án, tùy theo nhân thân của
người bị kết án, tòa án có thể áp dụng BPNC thích hợp trong đó có BPNC tạm giam đối với bị
cáo để đảm bảo cho việc thi hành án
Trong số các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tại điều 79 BLTTHS trên “căn cứ để kịp
thời ngăn chặn tội phạm” không thể là căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, vì đối
tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là bị cáo, bị can, hành vi phạm tội của họ là
hành vi đã được thực hiện trong quá khứ. Căn cứ này, chỉ áp dụng cho các trường hợp bắt
người phạm tội quả tang theo điểm a, khoản 1, điều 181 BLTTHS nhằm kịp thời ngăn chặn
hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hoặc hoàn thành hay không để người phạm tội kết
thúc hành vi phạm tội của mình, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
d, đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Theo quy định tại khoản 1 điều 88 BLTTHS năm 2003 đối tượng có thể bị áp dụng BPNC
tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Tuy nhiên không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ áp dụng đối với trường hợp sau:
• Trường hợp thứ nhất: bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng
mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội ( 3, điểm b, khoản 1, điều
2
88). Trong trường hợp cần thiết, CQTHTT có thể áp dụng BPNC khác như cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh
• Trường hợp thứ hai: bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng.
Nếu bị can, bị cáo thuộc những trường hợp này thì những người có thẩm quyền ra lệnh tạm
giam có thể ra lệnh tam giam ngay mà không cần có thêm các căn cứ khác. Tuy nhiên, trong
trường hợp này phải thấy rằng tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện đó theo quy định của
BLHS năm 1999 có khung hình phạt cao nhất chứ không phải mức hình phạt mà tòa án tuyên
đối với họ. Do đó, khi áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này một cách có căn cứ,
những người có thẩm quyền của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, khi ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự hoặc khi tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phải xem xét cụ thể tội phạm mà
bị can, bị cáo thực hiện, mức độ thiệt hại đến đâu? Về tội phạm nào? Khung hình phạt nào?
Từ đó làm cơ sở để áp dụng BPNC tạm giam một cách có căn cứ và đúng pháp luật.2
e, Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam
Thể hiện tính nhân đạo XHCN, BLTTHS năm 2003 quy định đối tượng không bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam bào gồm:
Bị can, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi và có nơi cư
trú rõ ràng.
Bị can, bị cáo là những người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng
Ở nước ta hiện nay, điều kiện sinh hoạt trong các trại giam không thể đảm bảo đầy đủ nhu
cầu thiết yếu của phụ nữ mang thai, đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, người già
yếu, người bị bệnh nặng hơn nữa trong những trường hợp này bị can, bị cáo đã có nơi cư trú
rõ ràng, nếu họ không thuộc các trường hợp đặc biệt kể trên các QTHTT có thể áp dụng các
BPNC khác để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của CQTHTT. Tuy
nhiên, đối tượng này vẫn có thể áp dụng BPNC tạm giam trong những trường hợp đặc biệt là:
Bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc bị bắt theo lệnh truy nã
Bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở
nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử
Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm đến an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng
không tạm giam đối với họ sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia ( điểm 3. khoản 2. điều 88).
2
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam – Đàm Thị Trang
3
Ngoài ra nếu có đầy đủ căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam như người đã thành niên chỉ
có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong trường hợp:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: nếu có đủ căn cứ tạm giam, chỉ áp dụng BPNC
này thì họ phạm tội rất nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi: nếu có đủ căn cứ tạm giam chỉ áp dụng BPNC
này khi họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
( khoản 3 điều 103).
Như vậy, việc quy định của pháp luật như trên về độ tuổi là hợp lý, căn cứ vào thực tiễn về
tâm sinh lý con người.
f, thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
Căn cứ Tại khoản 3 điều 88 BLTTHS năm 2003 và khoản khoản 1 điều 80 BLTTHS năm
2003, những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Viện trưởng, phó viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp
Chánh án, phó chánh án tòa án nhân nhân và tòa án quân sự các cấp
Thẩm phán giữ chức vụ chánh tòa, phó chánh tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao,
hội đồng xét xử.
Thủ trưởng phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm
giam phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Tuy nhiên, trong mỗi gia đoạn tố tụng khác nhau thì chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam cũng khác nhau:
Trong giai đoạn điều tra: việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC tạm giam sẽ do chủ thể
được quy định tại điểm d khoản 1, điều 80 BLTTHS năm 2003 quyết định. Lệnh tạm giam của
những người này phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành, nếu không
có sự phê chuẩn đó thì trong mọi trường hợp lệnh tạm giam đó không có hiệu lực pháp luật.
Trong giai đoạn truy tố: thẩm quyền quyết định việc áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp
tạm giam sẽ do các chủ thể quy định tại điểm a, khoản 1 điều 80 BLTTHS quyết định. Bởi “
sau khi nhận hồ sơ vụ án viện kiểm sát có quyền áp dụng thay đổi hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn. Thời hạn tam giam không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 điều này ( 3, khoản 2,
điều 166).
Trong giai đoạn xét xử: thẩm quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hủy bỏ BPNC tạm
giam sẽ do chủ thể quy định tại điểm b, c, khoản 1 phân công chủ tọa phiên tòa có quyền
4
quyết định áp dụng thay đổi hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn do chánh án hoặc phó chánh an tòa án quyết định ( khoản 3 điều 177).
Ngoài ra, theo quy định tại điều 228 BLTTHS thì hội đồng xét xử có quyền quyết định
việc tạm giam đối với bị cáo theo thủ tục luật định.
Như vậy, thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam được quy định cho nhiều cơ quan với nhiều
chủ thể khác nhau ở từng giai đoạn tố tụng khác nhau. Viện kiểm sát với chức năng là cơ quan
kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt đối với lệnh tạm
giam của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
g, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam.
Theo quy định của BLTTHS việc tam giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh này
phải do những người có thẩm quyền ký. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên
chức vụ của người ra lệnh, họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam, lý do tạm giam, thời hạn tạm
giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
Tạm giam không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do và danh dự
của công dân còn ảnh hưởng đến cá nhân của họ. Chính vì vậy sau khi ra lệnh tạm giam, cơ
quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và chính quyền
xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú, làm việc biết ( điểm
3, khoản 4 điều 88). Quy định này nhằm mục đích áp dụng BPNC tạm giam đúng đối tượng
tránh hiện tượng bắt giam nhầm dẫn đến oan sai.
Đồng thời khi tiến hành tạm giam một người cần phải đảm bảo các thủ tục liên quan khác
như:
khi người bị tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là
người bị tàn tật, già yếu không có người chăm sóc thì cơ quan ra lện tạm giam những người đó
cho người thân thích chăm sóc. Nếu người bị tạm giam không có người thân thích thì cơ quan
ra lệnh tạm giam giap những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom
Nếu người bị tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo
quản thì cơ quan ra lện tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom bảo quản thích
đáng
Cơ quan ra lện tạm giam phải thông báo cho người bị tạm giam biết những biện pháp đã
được áp dụng ( khoản 3 điều 9)
h, thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
5
Trong BLTTHS năm 2003 vấn đề thời hạn tạm giam không được quy định tập trung ở một
điều luật cụ thể mà quy định ở nhiều điều luật theo từng giai đoạn tố tụng khác nhau.
Thời hạn tạm giam để điều tra: trong giai đoạn điều tra, điều 120 BLTTHS năm 2003 quy
định thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá
ba tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc
biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét thấy cần phải có
thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi, hủy bỏ BPNC tạm giam thì
chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam. Theo quy định của BLTTHS thì việc gia
hạn tạm giam được quy định như sau:
đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một
tháng
đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất
không quá hai tháng, lần thứ hai không quá một tháng.
Đối với phạm tội rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tam giam hai lần lần thứ nhất
không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng.
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn giam ba lần, mỗi lần
không quá bốn tháng ( điểm 3 khoản 2 điều 120).
Thời hạn tạm giam để truy tố: trong giai đoạn truy tố “ thời hạn tạm giam để truy tố
không được quá thời hạn “ (quy định tại khoản 1 điều 166). Trong thời hạn hai mươi ngày đối
với tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, viện kiểm sát phải ra một
quyết định sau: quyết định truy tố bị can trước tòa án bằng bản cáo trạng, quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Trường hợp cần thiết, viện
trưởng viện kiểm sat có thể gia hạn tạm giam nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, không quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng không quá ba
mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thời han tạm giam để xét xử sơ thẩm: điều 177 BLTTHS quy định : “ thời hạn tạm giam
để chuẩn bị xét xử sơ thẩm không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điều 176
của bộ luật này”. Căn cứ tại điều 176 BLTTHS thì thời hạn chuẩn bị xét xử là ba mươi ngày
đối với tội ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội nghiêm trọng, hai tháng đối với tội
rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án. Đối
với những vụ án phức tạp chánh tòa án có thể quyết định gia hạn nhưng không quá mười lăm
6
ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng không quá ba mươi ngày đối với tội rất
nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì
htowif hạn tạm giam để mở phiên tòa là từ mười lăm ngày đến ba mươi ngày. Ngoài ra, đối
với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu cần thiết
tòa án có thể ra lệnh tạm giam cho đến hệt khi kết thúc phiên tòa.
Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm: BLTTHS quy định sau khi nhận hồ sơ vụ án, tòa
án phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC. Việc áp dụng hoặc
thay đổi hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam do chánh án, phó chánh án TAND cấp tỉnh,
TAQS cấp quân khu, thẩm phán giữ chức vụ chánh tòa, phó chánh tò tòa án phúc thẩm tòa án
nhân dân tối cao quyết định. Thời hạn tạm giam trong trường hợp này không được quá thời
hạn xét xử phúc thẩm tại điều 242 BLTTHS năm 2003. Theo quy đinh tại điều 242 BLTTHS
tòa án nhân dân cấp tỉnh, tòa án nhân dân quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm
trong thời hạn sáu mươi ngày, tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tòa án quân sự trung
ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn chín mươi ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ
vụ án. Như vậy, trong thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm ở tòa án nhân dân cấp tỉnh, tòa
án nhân dân cấp quân khu là sáu mươi ngày, thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm ở tòa án
nhân dân tối cao, tòa án nhân dân cấp trung ương là chín mươi ngày kể từ ngày nhận được hồ
sơ vụ án.
Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án: sau khi xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc
thẩm hội đồng xét xử có thể quyết định việc tam giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.
Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo quy định tại điều 228 BLTTHS thì với vị cáo
đang tạm giam mà bị phạt tù nhưng ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì hội
đống xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Trong trường hợp bị cáo
không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt giam để chấp hành hình phạt khi bản án
có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có
căn cứ cho thấy bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tôi, Thời hạn tạm giam bị cáo trong
trường hợp này là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Tại phiên tòa phúc thẩm theo quy
định điều 243 BLTTHS nếu bị cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến hết ngày kết thúc
phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo
việc thi hành án, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 điều 127 của bộ luật này.
Thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
i, một số quy định khác của tạm giam.
7
Thứ nhất, về chế độ tạm giam: chưa có bản án kết tội của tòa án thì người bị tạm giam vẫn
được coi là người chưa có tội. Vì vậy thời gian bị tạm giam họ không bị đối xử như một người
có tội. Nhà tạm giam chỉ tiếp nhận những người đã có lệnh tạm giam hoặc lệnh truy nã. Người
bị tạm giam không được giam chung một buồng. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính
mạng tài sản danh dự nhân phẩm của người bị tạm giam. Giám thị trạm giam thông báo bằng
văn bản cho cơ quan thụ lý vụ án có người bị tạm giam biết việc hết hạn tạm giam lần thứ nhất
trước năm ngày, việc tạm giam lần thứ hai trước mười ngày và yêu cầu cơ quan thụ lý đến
nhận hoặc giải quyết các trường hợp hết thời hạn tạm giam.
Việc tạm giam được bố trí theo khu vực phân loại: phụ nữ, người chưa thành niên, người
nước ngoài, người có bệnh truyền nhiễm… không được giam chung buồng những người cùng
một vụ án điều tra, truy tố, xét xử. Bình quân diện tích tối thiểu nơi giam đối với người bị
giam là 2m2/ người.
Thứ hai, bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giam tại
điều 260.
Thứ ba, về chế độ chăm nom người thân và bảo quản tài sản của người bị tạm giam quy
định cụ thể tại điều 90
Thứ tư, pháp luật cũng quy định việc khấu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành
hình phạt tù. Một ngày tạm giam bằng một ngày tù ( điều 33)
2. Thực tiễn thi hành biện pháp tạm giam
a, Những điểm tích cực trong việc thi hành biện pháp tạm giam
Trong những năm qua, tạm giam đã được cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách có
hiệu quả.
Đa số việc tạm giam có căn cứ, đúng pháp luật, tình trạng tạm giam không có lệnh, quá
hạn tạm giam từng bước được khắc phục.
Những trường hợp không cần thiết phải tạm giam thì cơ quan tiến hành tố tụng đã áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác như: bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm.
Việc tiếp nhận giải quyết cho ra khỏi trại tạm giam phân trại tạm giam nhìn chung thực
hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Các chế độ đối với người tạm giam phạm nhân được giám thị trại giam thực hiện theo
đúng quy chế giam giữ, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo có đủ các điều kiện được giám
thị trại giam đề nghị cho tạm đình chỉ thi hành án phát tù theo đúng quy định pháp luật.
8
b. những hạn chế vướng mắc:
Về đường lối áp dụng biện pháp tạm giam có nơi, có vụ chưa chính xác chưa thực hiện
đúng quy định của pháp luật, Những vi phạm về thời hạn tạm giam, đối tượng bị áp dụng biện
pháp tạm giam, thẩm quyền ra lệnh tạm giam, chế độ tạm giam quản lý giam giữ… còn xảy ra
nhiều trường hợp không cần thiết phải tạm giam nhưng do nhận thức chưa đầy đủ về tạm giam
nên vẫn áp dụng tạm giam. Chủ thể có thẩm quyền tạm giam nhiều khi chưa phân biệt được
tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật nhiều khi dẫn đến tạm giam oan, sai.
Về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam và thực tiễn áp dụng có thể thấy còn nhiều
vướng mắc, có sự mây thuẫn chồng chéo giữa căn cứ chung và căn cứ riêng, có những quy
định còn gây hiểu nhầm giữa căn cứ áp dụng với mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn tam giam, cụ thể tại điểm a, khoản 1, điều 88 BLTTHS năm 2003 quy định: “ Bị can, bị
cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng”. Nhà làm luật cho rằng với
quy định này người phạm tội sẽ cân nhắc mối tương quan về lợi ích giữa việc chấp nhận bị
truy cứu trách nhiệm hình sự với việc bỏ trốn thì việc bỏ trốn luôn mang lợi ích cao hơn nên
đã lấy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và khả năng gánh chịu hình phạt tương ứng để
làm căn cứ áp dụng BPNC tạm giam. Có thể hiểu đây không phải là căn cứ đầy đủ để áp dụng
BPNC tạm giam. Khả năng gánh chịu trách nhiệm hình sự với tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội có thể là một trong những vấn đề người phạm tội cân nhắc khi quyết
định bỏ trốn hay không nhưng không thể suy diễn rằng mọi bị can, bị cáo đều lựa chọn biện
pháp bỏ trốn khi biết rằng mình có thể gánh chịu mức hình phạt cao. Không ít nhữn bị can, bị
cáo khi phát hiện mình phạm tội khai báo thành khẩn mong được hưởng chính sách khoan
hồng…nhiều vụ án ban đầu bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử với tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng nhưng sau đó lại được thay đổi nhẹ hơn. Trong trường hợp này, việc áp dụng
BPNC tạm giam với họ không có đầy đủ căn cứ? tình chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
cao hay thấp, mức hình phạt mà bị can, bị cáo ó thể phải chịu là vấn đề mà các CQTHTT phải
làm rõ trong các giai đoạn tố tụng. Vì vậy, nó không thể là căn cứ để áp dụng BPNC tạm
giam. Như thế, có thể hiểu căn cuwsaps dụng BPNC tamjg iam là văn cứ có thật dự báo khả
năng thực tế có thể xảy ra việc bỏ trốn chức không thể là căn cứ mang tính suy diễn từ tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc quy định suy diễn như thế trọng lập
pháp tạo ra cơ sở cho việc xâm phạm quyền công dân. Mặt khác cách dùng từ cũng chưa
chuẩn xác, bởi khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của tòa án có thẩm quyền thì chưa thể
khẳng định bị can, bị cáo phạm vào loại tội nào.
9
Ngoài ra, trông điểm b, khoản 1 và khoản 2 điều 88 BLTTHS có sự mây thuẫn. Theo chính
sách hình sự của đảng và nhà nước thì các đối tượng này được hưởng chính sách nhân đạo nên
căn cứ áp dụng BPNC tạm giam với họ phỉ được quy định ở mức độ hạn chế hơn hoặc trong
trường hợp không thể áp dụng BPNC khác. Thế nhưng, thì căn cứ áp dụng BPNC tạm giam
đối với các đối tượng khác nhau không có gì khác nhau. Bởi căn cứ “ có thể bỏ trốn hoặc cản
trở điều tra, truy tố, xét xử. hoặc có thể tiếp tục phạm tội” được quy định tại điểm b, khoản 1
cùng một loại với căn cứ khác nhau như: “ bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã”
hay “ bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố
ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử”, có khác là một căn cứ khi chỉ
khả năng có thể hiện thực hóa với một căn cứ là sự hiện thực hóa khả năng đó. Thế nhưng,
nếu ở điểm b, khoản 1 còn phải thỏa mãn căn cứ khác là “ bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm” thì ở
điểm a, biểm b khoản 2 nị can, bị cáo phạm bất cứ tội phạm nào cũng có thể bị tạm giam.
Nghĩa là căn cứ áp dụng BPNC tạm giam của một số đối tượng đáng ra được hưởng chính
sách đặc biệt thì lại mở rộng hơn so với căn cứ áp dụng BPNC tạm giam của các đối tượng
bình thường. 3
Nhiều trường hợp không căn cứ đúng quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền tự do
công dân sai phạm về đối tượng, Ví dụ như tạm giam những người chưa thành niên phạm tội
ít nghiêm trọng, tạm giam người không có tội. Hay điển hình ở Nghệ An Hơn 2 năm tạm giam
một ông già gần 70 tuổi nghi án hiếp dâm Bị cáo Nguyễn Châu Thợi bị khởi tố theo tội danh
hiếp dâm trẻ em – tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp mà bị cáo có thể bị
áp dụng biện pháp tạm giam bị cáo Thợi là một người đã già yếu, ốm đau không thuộc các
trường hợp buộc phải áp dụng biện pháp tạm giam nêu trên nhưng cơ quan tiến hành tố
tụng vẫn áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với bị cáo. Điều đáng nói là cùng với quá
trình điều tra kéo dài, quá trình hoãn xét xử nhiều lần khiến thời gian bị cáo phải ngồi
trong trại tạm giam tới hơn 2 năm4
Tạm giam sai thời hạn với quy định của pháp luật
3
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam – Đàm Thị Trang
4
/>
10
Trong
thực tế còn tồn tại nhiều trường hợp khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp
dụng biện pháp tạm giam như:
+ Có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tự sát. Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, không có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục
phạm tội trốn tránh pháp luật nhưng lại có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tự sát, cần phải ngăn
chặn việc người đó tự sát. Việc coi bị can, bị cáo tự sát là trường hợp gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc là hành động trốn tránh pháp luật để áp dụng biện pháp tạm giam,
theo chúng tôi là không hợp lý vì không phù hợp với mục đích của biện pháp tạm giam.
+ Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội gây căm phẫn đối với người bị hại, gia đình,
người thân của người bị hại hoặc gây căm phẫn trong nhân dân có thể dẫn đến việc quần
chúng tự phát xử lý người phạm tội. Ví dụ như vụ Nguyễn Văn Hải, phường Tân Hưng, quận
7, TP. HCM bị tạm giam về tội cố ý làm trái, nhận hối lộ, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị bắt để
tạm giam, sau đó được Viện Kiểm sát nhân dân TP. HCM cho tại ngoại bị quần chúng phản
đối, 1 ngày sau khi cho tại ngoại lại bắt để tạm giam.
+ Trường hợp bị can có thái độ khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình và
của đồng bọn có thể bị đồng bọn đe dọa gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng để bịt đầu mối,
để răn đe bị can, bị cáo trong việc khai báo sự thật cần bảo vệ bị can, bị cáo..5
Về cơ sở vật chất : Trại tạm giam và Nhà tạm giữ đều đang trong tình trạng quá tải nghiêm
trọng hầu hết các Trại tạm giam và Nhà tạm giữ trên các địa bàn đều đang trong tình trạng
xuống cấp hoặc quá tải nghiêm trọng
c. nguyên nhân :
Thứ
nhất, do người tiến hành tố tụng chưa hiểu rõ về biện pháp tạm giam dẫn đến sử dụng biện
pháp này thiếu căn cứ trái pháp luật. Năng lực của một số người tiến hành tố tụng còn yếu
kém, một số người nặng về trấn áp, không phân biệt rõ được trường hợp cần tạm giam.
Thứ
hai, công tác kiểm tra pháp luật trong lĩnh vực tạm giam còn chưa mạnh mẽ, thống nhất và
làm việc chưa hiệu quả
5
o/2010/05/can-cu-ap-dung-bien-phap-tam-giam-trong.html
11
Thứ
ba, công tác xây dựng pháp luật còn chưa hoàn thiện. Nhiều chế định còn chồng chéo, hơn
nữa do chế định về tạm giam chưa sâu, rõ nét nên việc áp dụng dẫn đến có nhiều hiểu nhầm.
Thứ
tư, cơ sở vật chất, điều kiện tạm giam chưa được đảm bảo chú trọng đúng mức.
3. hoàn thiện pháp luật.
Bổ sung điều 88 BLTTHS:
Trong quy đinh của BLTTHS hiện hành chưa có quy định về khái niệm, biện pháp tạm
giam, Tại điều 88 BLTTHS chỉ mới nêu ra được đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam, vì vậy cần đưa khái niệm BPNC tạm giam vào khoản 1 điều 88
Tại khoản 2 điều này quy định “ người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ
ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác trừ những trường hợp luật
định” nhưng luật lại không có hướng dẫn giải thích lứa tuổi nào được coi là già yếu, tình trạng
như thế nào được coi là bênh nặng, quy định cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết vấn đề nà.
Do vậy, pháp luật cần hoàn thiện bổ sung chi tiết hơn về điều này.
Vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can bị cáo để tạm giam thì BLTTHS nên quy định các mức
thời hạn phê chuẩn lện của VKS theo từng loại vụ án đơn giản phức tạp, kể từ khi nhận được
công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu vụ án. Tại khoản 3 điều 88 BLTTHS quy định về thời
hạn viện kiểm sát xem xét là ba ngày kể từ ngày nhận được lện tam giam, đề nghị xét phê
chuẩn hồ sơ , tài liệu liên quan đến việc tạm giam, viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn
hoặc quyết định không phê chuẩn. Tuy nhiên, có nhiều vị việc, tài liệu phức tạp thì viện kiểm
sát không thể xem xét hết và phê chuẩn. Vì thế mà viện kiểm sát chậm phê chuẩn dẫn tới bị
can có thể bỏ trốn, hoặc tiêu hủy chứng cứ gây khó khăn cho điều tra.
Từ phân tích trên có thể bổ sung điều 88 BLTTHS hiện hành như sau:
Điều…: tạm giam
1. tạm giam là biện pháp ngăn chặn do những người có thẩm quyền của cơ quan điều
tra, Viện Kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án theo đúng trình
tự, thủ tục, căn cứ và trong các trường hợp luật định nhằm ngăn chặn việc họ bỏ trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. …
12
3. trong thời hạn… kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ
sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát ra quyết định…6
Bổ sung điều 80 bộ luật tố tụng hình sự
Khoản 1 điều 80 quy định về việc bắt bị can, bị cáo tạm giam nhưng mới chỉ quy định về
thẩm quyền ra lệnh, nội dung lệnh bắt, chưa có quy định về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm
giam tức chưa quy định về những trường hợp cụ thể nào là bị can, bị cáo có thể bị bắt để tạm
giam. Khi áp dụng BPNC này, CQTHTT lại phải căn cứ quy định tại khoản 1, 2 điều 88
BLTTHS về căn cứ áp dụng BPNC tạm giam trong khi điều 80 không viện dẫn căn cứ bắt bị
can, bị cáo để tạm giam sang điều 88 BLTTHS. Vì thế không có sự logic giữa các điều luật
mà buộc người thực hiện phải tự nghiên cứu và áp dụng. bắt bị can bị cáo để tạm giam là một
biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam, do vậy căn cứ thực hiện biện pháp này chính là lệnh
hoặc quyết định tạm giam của người có thẩm quyền đồng thời lệnh hoặc quyết định tạm giam
đó dựa trên cơ sở căn cứ áp dụng BPNC tạm giam theo quy định của BLTTHS.
Như thế điều 80 BLTTHS cần được cơ cấu lại theo hướng là khoản 1 trong điều luật quy
định về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Điều…: bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
1…
2. Những người có thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam…
3. trong trường hợp bị can, bị cáo đang tại ngoại, người có thẩm quyền áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam phải ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam đồng thời với lện
( hoặc quyết định) tạm giam.
4…7
Về việc bắt giam bi cáo ngay tại phiên tòa cần có quy định theo hướng phải có lệnh tạm
giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không thể tiếp tục tạm giam bị cáo
do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa được đem ra thi hành trừ trường hợp bản
án được đem ra thi hành tại khoản 2 điều 255 BLTTHS. Đồng thời theo quy định tại khoản 3
điều 243 BLTTHS thì: “ sau khi nhận hồ sơ vụ án, tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định
việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn”> quy định này áp dụng cho toàn án
6
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam – Đàm Thị Trang
7
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam – Đàm Thị Trang
13
cấp phúc thẩm còn nội dung và phạm vi khác với cấp sơ thẩm. cụ thể , nếu ở cấp sơ thẩm việc
bắt bị cáo tại phiên tòa chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho thấy bị cap có thể trốn hoặc tiếp
tục phạm tội thì ở cấp phúc thẩm chỉ cần bị cáo tuyên phạt tù thì hội đồng xét xử phải bắt
giam ngay, trừ trường hợp quy định tại điều 261 BLTTHS. Trong nhiều trường hợp việc bắt
giam bị cáo ngay tại phiên tòa thuận lời vì nhiều trường hợp bị cáo tại ngoại thì hầu hết khi họ
đến phiên tòa đều có người thân đi cùng, nếu bắt ngay bị cáo tại phiên tòa thì không tránh khỏi
việc nhân thân họ có những hành vi xử sự gây mất trật tự tòa án, ảnh hưởng đến quá trình làm
việc hội đồng xét xử.
Ngoài ra đối với người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã, theo Điều 83, khoản 2
BLTTHS hiện hành quy định việc cơ quan điều tra nhận người bị bắt trong trường hợp đang bị
truy nã, trước khi giao người bị bắt cho cơ quan đã ra lệnh truy nã nếu xét thấy không thể giao
ngay người bị bắt cho cơ quan đã ra quyết định truy nã thì áp dụng biện pháp tạm giữ. Cơ
quan đã ra quyết định truy nã, sau khi nhận được thông báo về việc đối tượng mà mình truy nã
đã bị bắt thì phải ra lệnh tạm giam và gửi cho cơ quan điều tra đã nhận người bị bắt. Theo quy
định này thì người bị bắt theo quyết định truy nã có thể bị áp dụng đồng thời hai biện pháp
ngăn chặn, đó là biện pháp tạm giữ (do cơ quan điều tra nhận người bị bắt áp dụng) và biện
pháp tạm giam (do cơ quan đã ra quyết định truy nã áp dụng). Đối với người bị bắt trong
trường hợp đang bị truy nã, không nên tạm giữ đối với họ, vì thời hạn tạm giữ quá ngắn,
trường hợp nơi họ bị bắt quá xa nơi ra lệnh truy nã họ, có thể không đủ thời gian để cơ quan
điều tra nhận người bị bắt thông báo cho cơ quan ra lệnh truy nã về việc bắt và cơ quan đã ra
lệnh truy nã tiếp nhận người bị bắt. Vì vậy, cần phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ,
đồng thời quy định rõ thời hạn tạm giam đối với người bị bắt trong trường hợp này. Vì họ là
người đang bị truy nã nên họ phải là bị can, bị cáo hoặc người đang thi hành hình phạt theo
bản án đã có hiệu lực pháp luật và việc họ bị truy nã chứng tỏ có căn cứ cho rằng cần phải
cách ly họ ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định. Việc họ trốn, dẫn đến phải truy nã đã
thể hiện căn cứ tạm giam đối với họ.
Đồng thời, pháp luật nước ta cần có những quy định về nâng cao năng lực chuyên
môn và phẩm chất đạo đức của các chủ thể có thẩm quyền trong việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam và các biện pháp để tăng cười xây dựng hoàn thiện cơ sở vật chất, đời sống cho
người bị tạm giam
4. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
14
• Biện pháp tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường
pháp chế XHCN. Việc áp dụng biện pháp tạm giam sẽ đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn
định, trật tự pháp luật được giữ vững, chế độ xã hội XHCN được bảo vệ, các quyền cũng như
lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh khám
phá tội phạm, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và hàm oan người vô tội
• Tạm giam là phương tiện hữu hiệu đảm bảo cho hoạt động điều tra truy tố, xét xử và thi
hành án đạt hiệu quả cao nhất.
• Tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền cơ bản của
công dân được hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Đảm bảo không một công dân nào có thể bị
tạm giam trái pháp luật, khi bị áp dụng biện pháp tạm giam không đúng theo quy định công
dân có quyền khiếu nại đến các chủ thể có thẩm quyền.
• Tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Đó là biện pháp đảm bảo cho mọi công
dân được sống trong một xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người được tôn trọng
bà bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định đảm bảo cho mọi
người dân yên tâm sinh sống, học tập, làm việc, tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm đạt hiệu quả cao nhất.
IV. KẾT LUẬN
Nhà nước ta là nhà nước của dân do dân vì dân nên những hoạt động của nhà nước không
nhằm mục đích nào khác là phục vụ quyền lợi của nhân dân lao động. Nghiêm chỉnh tuân thủ
các quy đinh về tạm giam là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan này phải
hoạt động theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn, và thủ tục luật định. Mọi hành vi trái với quy định
của pháp luật về tạm giam đều bị xử lý nghiêm khắc, thậm chí còn bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo luật định. Như vậy, qua tìm hiểu ở trên ta có thể thấy được ý nghĩa vai trò quan
trọng của việc sử dụng biện pháp ngăn chặn trong việc phòng chống tội phạm và những quy
định của pháp luật về vấn đề này. Từ đó đưa ra những biện pháp hoàn thiện pháp luật để áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam một cách có hiệu quả nhất trong thực tiễn.
Với trình độ kiến thức còn hạn chế cộng với thời gian nghiên cứu ít ỏi, vì vậy trong quá
trình em làm bài không tránh được những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy giáo, cô giáo để giúp cho bài viết của em được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo trình luật tố tụng hình sự trường đại học luật Hà Nội
2. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam – Đàm Thị Trang
3.
4. o
5.
16