Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Khái quát về tranh chấp thương mại và các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.63 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
NỘI DUNG............................................................................................................2
I. Khái quát về tranh chấp thương mại và các hình thức
giải quyết tranh chấp thương mại......................................................................2
1. Tranh chấp thương mại.....................................................................................2
2. Các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.............................................3
II. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại..................3
1. Khái niệm trọng tài thương mại........................................................................3
2. Đặc trưng của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại....................3
3. Các hình thức trọng tài thương mại.................................................................4
4. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại..................6
5. Thẩm quyền của trọng tài thương mại.............................................................8
6. Trình tự giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại.................................8
7. Ưu điểm và nhược điểm của phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại................................................................11
III. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam..............................................................13
1. Thực tiễn áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại....................................................................................13
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại ..........................14
KẾT LUẬN............................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................17

1



LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, khi mà nhu cầu liên
kết, hợp tác của các doanh nghiệp ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết thì
những tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng cũng xuất hiện càng nhiều như một hệ quả
tất yếu trong hoạt động kinh doanh. Do vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tranh chấp, duy trì trật tự nền kinh tế cần phải hoàn thiện cơ chế giải
quyết giải quyết tranh chấp theo hướng đơn giản, thuận tiện và đem lại hiệu quả
cao đối với các bên tranh chấp. Hiện nay, trong các phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại, trọng tài thươn mại nổi lên như một hình thức giải quyết tranh
chấp ưu việt hơn cả vì những mặt tích cực mà nó mang lại. Tuy nhiên bên cạnh đó
cũng ko tránh khỏi những nhược điểm. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu và khắc
phục những hạn chế, tồn tại đó có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại nói riêng cũng như hệ thống
các phương thức giải quyết tranh chấp nói chung.

NỘI DUNG
I. Khái quát về tranh chấp thương mại và các hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại.
1. Tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc
trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới được sử
dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự nhường
bước của khái niệm tranh chấp kinh tế.
Có thể hiểu tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột)
về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương
mại. Như vậy tranh chấp thương mại phải hội đủ các yếu tố sau đây:
- Thứ nhất, tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn (bất đồng) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể.
- Thứ hai, những mâu thuẫn (bất đồng) đó phải phát sinh từ hoạt động thương
mại.

- Thứ ba, những mâu thuẫn (bất đồng) đó phát sinh chủ yếu giữa các thương
nhân.
Có thể thấy rằng tranh chấp là hệ quả tất yếu trong hoạt động kinh doanh và nếu
không được giải quyết có thể dẫn đến sự mất ổn định trong xã hội. Chính vì vậy

2


việc giải quyết tranh chấp thương mại là một nhu cầu tất yếu trong hoạt động kinh
doanh, thương mại.
2. Các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Giải quyết tranh chấp thương mại có thể được hiểu là cách thức, phương pháp
hay các hoạt động để điều chỉnh những bất đồng, xung đột để khắc phục và loại trừ
những mâu thuẫn phát sinh nhằm bảo vệ quyền và các lợi ích hợp pháp của các chủ
thể kinh doanh.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại cơ bản, bao gồm:
- Thương lượng;
- Hòa giải;
- Trọng tài thương mại;
- Tòa án.
Thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại là các phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước mà chủ yếu được
giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp hoặc phán
quyết của bên thức ba độc lập (được các bên lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt, mềm
dẻo. Trong khi đó tòa án lại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mang
ý chí quyền lực nhà nước được tòa án tiến hành theo thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ.
II. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
1. Khái niệm trọng tài thương mại.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 thì “Trọng tài thương mại

là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành
theo quy định của Luật này”.
Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Tùy theo sự lựa chọn của các bên, việc giải
quyết tranh chấp có thể được tiến hành tại Hội đồng trọng tài do trung tâm trọng tài
tổ chức hoặc tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập theo trình tự, thủ tục pháp
luật quy định.
2. Đặc trưng của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Thứ nhất, đây là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ
ba – Hội đồng trọng tài, làm trung gian giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu
nhằm loại trừ tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ, hoạt động theo Luật
trọng tài thương mại 2010.
3


Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là sự kết hợp
giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán.
Thứ tư, thủ tục tố tụng trọng tài thương mại rất linh hoạt, phụ thuộc vào sự thỏa
thuận của các bên hơn so với tòa án.
Thứ năm, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc
thi hành. Như vậy phán quyết của trọng tài không thể bị kháng cáo trước bất kỳ cơ
quan, tổ chức nào. Các bên chỉ có quyền yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài
khi có những căn cứ hủy phán quyết trọng tài (quy định tại Điều 68 Luật trọng tài
thương mại). Trong trường hợp này tòa án cũng không xem xét lại nội dung giải
quyết của trọng tài mà chỉ hủy phán quyết của trọng tài khi có sai xót về tố tụng.
Thứ sáu, có sự hỗ trợ từ tòa án trong việc bảo đảm thực thi các quyết định của
trọng tài.
3. Các hình thức trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức là trọng tài vụ việc và trọng tài

thường trực.
a/Trọng tài vụ việc.
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận
thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt sự
tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc có những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt
hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
- Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành
và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên
chọn hoặc chỉ định có thể là người có tên trong hoặc ngoài danh sách trọng
tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
- Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình. Quy tắc tố
tụng để giải quyết vụ tranh chấp do các bên thỏa thuận xây dựng hoặc thỏa
thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố tụng phổ biến nào (thường là quy tắc tố
tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế).
So với trọng tài thường trực, trọng tài vụ việc có một số ưu thế sau:
- Có thể giải quyết nhanh chóng vụ tranh chấp và ít tốn kém, với việc lựa
chọn hình thức trọng tài này các bên sẽ không phải trả thêm các khoản chi
phí hành chính cho các trung tâm trọng tài.
4


- Quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sự không bị giới hạn bởi
danh sách trọng tài viên sẵn có như hình thức trọng tài thường trực mà có
thể lựa chọn bất kỳ trọng tài viên nào trong và ngoài danh sách trọng tài viên
của bất kỳ trung tâm trọng tài nào.
- Các bên tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để
giải quyết tranh chấp giữa các bên. Trong khi đó ở hình thức trọng tài
thường trực, các bên chủ yếu bị ràng buộc bởi quy tắc tố tụng của chính

trung tâm trọng tài mà các bên lựa chọn.
b/Trọng tài thường trực.
Trọng tài thường trực là phương thức trọng tài hoạt động thường xuyên, liên tục
với hình thức tổ chức, trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên và quy tắc tố tụng
cố định. Ở Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm
trọng tài. Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong
hệ thống các cơ quan nhà nước. Các trung tâm trọng tài không phải được
thành lập bởi nhà nước và được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà
nước mà được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, hoạt động theo nguyên tắc tự
trang trải. Nó không nhân danh quyền lực nhà nước là nhân danh người thứ
ba độc lập ra phán quyết. Tuy là tổ chức phi chính phủ nhưng các trung tâm
trọng tài luôn đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của nhà nước.
- Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với
nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên,
cấp dưới như hệ thống các cơ quan tài phán nhà nước. Chính điều này đã
dẫn đến sự đặc thù của tố tụng trọng tài trong việc áp dụng nguyên tắc xét
xử một lần.
- Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ.
Cơ cấu tổ chức chức của trung tâm trọng tài gồm ban điều hành và các trọng
tài viên của trung tâm.
- Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có
quy tắc tố tụng riêng. Mỗi trung tâm trọng tài tự xác định về lĩnh vực hoạt
động của mình tùy thuộc vào khả năng của đội ngũ trọng tài viên và phải
được ghi rõ trong điều lệ của trung tâm trọng tài. Mỗi trung tâm trọng tài
đều có những quy tắc tố tụng riêng và khi giải quyết tranh chấp hội đồng
trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này.
5



- Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các
trọng tài viên của trung tâm. Mỗi trung tâm trọng tài đều có danh sách riêng
về trọng tài viên của trung tâm và các bên đương sự chỉ được lựa chọn trọng
tài viên trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài.
So với trọng tài vụ việc, trọng tài thường trực có một số ưu điểm sau:
- Trọng tài thường trực tồn tại dưới dạng các trung tâm trọng tài do đó có tính
ổn định cao hơn so với trọng tài vụ việc.
- Trong các trung tâm trọng tài đều có danh sách trọng tài viên riêng, việc này
tạo điều kiện cho các bên đương sự dễ dàng lựa chọn hoặc chỉ định trọng tài
viên tham gia hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất giải quyết vụ
tranh chấp. Bởi không phải thương nhân nào cũng có những hiểu biết cần
thiết về các trọng tài viên do đó trong hình thức trọng tài vụ việc, nhiều
đượng sự sẽ gặp khó khăn để có thể lựa chọn trọng tài viên tham gia giải
quyết tranh chấp
4. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại phải
tuân theo những nguyên tắc sau:
a/ Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài
các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại.
Như vậy việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi phải có sự thỏa thuận của
các bên. Các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau khi có tranh chấp. Thỏa
thuận trọng tài có thể có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong
hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng nhưng phải được xác lập dưới dạng
văn bản (Điều 16 Luật trọng tài thương mại). Trọng tài không có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thương mại nếu không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận
trọng tài vô hiệu. Theo Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010, thỏa thuận trọng
tài vô hiệu trong những trường hợp sau:
- Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng

tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
- Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
- Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự.
6


- Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16
của Luật này.
- Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
b/ Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan và tuân thủ quy định của
pháp luật..
Trọng tài viên là những người “cầm cân nẩy mực”, quyết định tính đúng đắn,
chính xác, khách quan của phán quyết đưa ra để giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Các phán quyết trọng tài có đáp ứng được những đòi hỏi đó hay không trước hết
phải xuất phát từ chính bản thân trọng tài viên. Do vậy, đây là nguyên tắc trung
tâm quyết định đến hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại. Để đảm bảo nguyên tắc này, Luật trọng tài thương mại 2010 đã quy
định khá cụ thể về tiêu chuẩn trọng tài viên (Điều 20), quyền, nghĩa vụ của trọng
tài viên (Điều 21).
Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên hay các trọng tài viên phải căn cứ vào
các tình tiết của vụ tranh chấp, phải xác minh sự thật nếu thấy cần thiết và phải căn
cứ vào các chứng cứ mà mình thu thập được. Trọng tài viên không bị chi phối bởi
bất cứ tổ chức, cá nhân nào trong việc đưa ra phán quyết.
c/ Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật.
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong mọi thủ tục tố tụng nói riêng cũng
như giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội. Để giải quyết tranh chấp một cách

công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên, trọng tài viên
phải căn cứ vào pháp luật, đây chính là tư tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên. Nếu
trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi phạm đạo
đức trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài.
d/ Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên.
Tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết bằng trọng tài nều có thỏa thuận
trọng tài. Như vậy quyền hạn của hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh
chấp thương mại là do các bên giao cho họ. Do đó trọng tài viên phải tôn trọng sự
thỏa thuận của các bên. Các bên tranh chấp được bảo đảm tối đa quyền tự do định
đoạt trên nhiều phương diện trong quá trình giải quyết. Các bên có quyền thỏa
thuận việc chọn hình thức trọng tài nào, chọn trọng tài viên, chọn địa điểm giải
quyết vụ tranh chấp, thỏa thuận về thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc
giải quyết tranh chấp, thỏa thuận về thời gian mở phiên họp giải quyết… Có thể
7


thấy rằng, chỉ có trong tố tụng trọng tài – hình thức giải quyết tranh chấp do các
bên lựa chọn, các bên mới có quyền thỏa thuận nhiều vấn đê như vậy và trọng tài
viên bắt buộc phải tuân theo.
e/ Nguyên tắc giải quyết một lần.
Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại là nhanh chóng, dứt điểm,
tránh dây dưa kéo dài làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Để đảm bảo yêu
cầu đó, thủ tục trọng tài rất đơn giản, ngắn gọn, không nhiều giai đoạn xét xử như
tố tụng tòa án. Trọng tài là tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại không có
cơ quan cấp trến nên phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng
cáo kháng nghị. Tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết, tức là các tranh
chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài. Nếu quyết định của
trọng tài không bị tòa án hủy bỏ thì nó có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
5. Thẩm quyền của trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại được thành lập để giải quyết các tranh chấp thương mại.

Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài thương mại nếu các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận
trọng tài này có hiệu lực.
Như vậy một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương
mại khi có các điều kiện sau:
- Thứ nhất, tranh chấp được gửi đến trọng tài thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài được quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010, bao gồm:
+ Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;
+ Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
+ Tranh chấp giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
trọng tài.
- Thứ hai, giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận
này có hiệu lực.
6. Trình tự giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại.
a/ Đơn kiện.
Để giải quyết vụ tranh chấp tại trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn
kiện gửi đến đúng trung tâm trọng tài mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn.
Đối với giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài do các bên thành lập,
nguyên đơn phải gửi đơn kiện cho bị đơn.
Đơn khởi kiện gồm các nội dung chủ yếu sau:
8


-

Ngày, tháng, năm viết đơn;
Tên và địa chỉ của các bên;
Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;
Các yêu cầu của nguyên đơn;

Trị giá tài sản mà nguyên đơn yêu cầu;
Trọng tài viên được nguyên đơn lựa chọn (bắt buộc là trọng tài viên trong
danh sách nếu giải quyết tại trung tâm trọng tài).
Đơn kiện phải được gửi đến trọng tài trong thời hiệu khởi kiện mà pháp luật
quy định đối với từng loại tranh chấp. Đối với những tranh chấp mà pháp luật
không quy đinh thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vụ tranh chấp bằng
trọng tài là 2 năm kể từ ngày xảy ra tranh chấp.
Tố tụng trọng tài bắt đầu từ khi trung tâm trọng tài nhận được đơn kiện của
nguyên đơn hoặc từ khi bị đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn.
b/Tự bảo vệ của bị đơn.
Nếu các bên không có thỏa thuận khác trong thời hạn 30 ngay kể từ ngày nhận
được đơn kiện và những tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi bản tự bảo vệ cho trung
tâm trọng tài (đối với giải quyết tranh chấp tại trung tâm trọng tài) hoặc cho bị đơn
(đối với giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài do các bên lựa chọn).
Nội dung của bản tự bảo vệ gồm:
- Ngày, tháng, năm viết bản tự bảo vệ;
- Tên và địa chỉ của bị đơn;
- Lý lẽ, chứng cứ bảo vệ, phản bác một phần hay toàn bộ nội dung đơn kiện
của nguyên đơn, ý kiến của bị đơn về thẩm quyền của trọng tài và thỏa thuận
trọng tài.
- Trọng tài viên mà bị đơn lựa chọn.
Theo yêu cầu của bị đơn, thời hạn bị đơn phải gửi bản tự bảo vệ kèm theo
chứng cứ có thể dài hơn 30 ngày nhưng phải trước ngày hội đồng trọng tài mở
phiên họp.
c/ Thành lập hội đồng trọng tài.
Được quy định tài Điều 40 và 41 Luật trọng tài thương mại 2010. Trong bước
này cần lưu ý:
- Các bên tranh chấp có thể thành lập hội đồng trọng tài hoặc lựa chọn một
trọng tài viên duy nhất để giải quyết. Trong trường hợp này, quyết định của trọng
tài viên đó có hiệu lực thi hành như của hội đồng trọng tài.

9


- Sau khi đã lựa chọn trọng tài viên, nếu trọng tài viên đã chọn thuộc một
trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 42 Luật trọng tài thương mại thì
có quyền thay đổi trọng tài viên.
d/ Chuẩn bị giải quyết.
Thứ nhất, nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc: Trên cơ sở đơn kiện, chứng cứ
của nguyên đơn, bản tự bảo vệ và các tài liệu, chứng cứ của bị đơn, các trọng tài
viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ và các văn bản pháp luật có liên quan đến vụ kiện
để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất. Hội đồng trọng tài có quyền gặp các bên để
nghe ý kiến hoặc tìm hiểu sự việc từ người thứ ba với sự có mặt của các bên.
Thứ hai, thu thập chứng cứ: hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu các bên cung
cấp chứng cứ có liên quan đến vụ tranh chấp. Các bên có nghĩa vụ phải cung cấp
chứng cứ cho yêu cầu của mình hoặc cho sự việc mà mình nêu ra. Trong trường
hợp cần thiết hội đồng trọng tài có thể tự mình thu thập chứng cứ, mời giám định
theo yêu cầu của một bên hoặc các bên và phải thông báo cho bên kia biết.
e/ Hòa giải.
Hòa giải là việc các bên tự thương lượng giải quyết tranh chấp với nhau mà ko
cần có quyết định của trọng tài. Trong tố tụng trọng tài, hòa giải ko phải là nguyên
tắc, là thủ tục bắt buộc song hội đồng trọng tài vẫn phải tôn trọng việc tự hòa giải
của các bên. Nếu các bên tự hòa giải được với nhau thì theo yêu cầu của các bên,
hội đồng trọng tài sẽ đình chỉ tố tụng. Các bên cũng có thể yêu cầu hội đồng trọng
tài tiến hành hòa giải. Trong trường hợp hòa giải thành thì các bên có thể yêu cầu
hội đồng trọng tài lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận hòa giải
thành. Quyết định công nhận hòa giải thành của hội đồng trọng tài là chung thẩm
và có giá trị như phán quyết trọng tài.
f/ Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và quyết định trọng tài.
Thời giai tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận, nếu
các bên không có thỏa thuận thì chủ tịch hội đồng trọng tài quyết định thời gian

mở phiên họp giải quyết. Về nguyên tắc, phiên họp giải quyết vụ tranh chấp không
công khai do đó có thể đảm bảo những bí mật trong kinh doanh cũng như uy tín
của các bên. Các bên có thể trực tiếp thạm dự phiên họp giải quyết tranh chấp hoặc
ủy quyền cho người đại diện của mình, có thể mời nhân chứng, luật sư bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Các bên hoặc đại diện của các bên phải tham gia phiên họp giải quyết vụ tranh
chấp nếu không yêu cầu hội đồng trọng tài giải quyết vắng mặt họ. Trường hợp các
bên không yêu cầu hội đồng trọng tài giải quyết vắng mặt họ mà vắng mặt không
có lý do thì sẽ được giải quyết theo Điều 56 Luật trọng tài thương mại. Theo quy
10


định tại Điều 57, các bên cũng có thể yêu cầu hội đồng trọng tài hoãn phiên họp
giải quyết tranh chấp nếu có lý do chính đáng.
Toàn bộ diễn biến của phiên họp giải quyết tranh chấp do hội đồng trọng tài lập
biên bản. Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp, hội đồng rọng tài phải đưa ra
quyết định trọng tài. Quyết định trọng tài được biểu quyết theo nguyên tắc đa số, ý
kiến của thiểu số được ghi vào biên bản phiên họp. Nếu vụ tranh chấp do trọng tài
viên duy nhất giải quyết thì trọng tài viên này quyết định. Quyết đinh trọng tài là
chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày công bố, các bên phải thi hành trừ trường
hợp quyết định này bị tòa án hủy theo quy định của pháp luật
7. Ưu điểm và nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại.
a/ Ưu điểm.
- Việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại đề cao ý chí
tự do thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Trước hết, các bên tranh chấp có thể tự
do thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã
phát sinh trong hoạt động thương mại. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa
án, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có
quyền đệ đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết mà không cần có sự thỏa

thuận trước, còn việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đòi hỏi có sự
thỏa thuận của các bên. Thứ hai, trong quá trình giải quyết tranh chấp, các bên có
tranh chấp được đảm bảo tối đa quyền tự do định đoạt ví dụ như lựa chọn trung
tâm trọng tài, hình thức trọng tài, trọng tài viên, địa điểm, thời gian giải quyết…
- Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đơn giản, nhanh chóng, các bên
có thể chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, không cần qua nhiều
cấp xét xử như ở tòa án. Do đó sẽ hạn chế được tốn kém về thời gian và tiền bạc
cho doanh nghiệp. Còn việc giải quyết tranh chấp của tòa án thì phải tuân thủ
nghiêm ngặt những quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng dân sự sẽ
làm mất thời gian, trở ngại cho các bên tranh chấp vì tính chất của hoạt động kinh
doanh, thương mại đòi hỏi mọi thủ tục phải rất linh hoạt và mềm dẻo.
- Việc các bên tranh chấp được tự do lựa chọn trọng tài viên, thành lập Hội
đồng trọng tài giải quyết vụ việc sẽ phát huy được tính dân chủ, khách quan trong
quá trình tố tụng. Trọng tài viên được các bên lựa chọn là người có nhiều kinh
nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp
nhanh chóng, chính xác.

11


- Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không được công khai, nội dung
tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín sẽ giúp các bên đảm bảo bí mật
kinh doanh, giữ được uy tín. Đây là một trong những lý do khiến các nhà kinh
doanh ưa chuộng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
- Tố tụng trọng tài không bị ràng buộc về mặt lãnh thổ, các bên có quyền tự do
lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào, điều này tạo điều kiện rất lớn cho các bên
trong quá trình giải quyết tranh chấp. Trong khi giải quyết tranh chấp bằng toà án
các bên buộc phải lựa chọn tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc (nếu bị đơn là cá
nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức) hoặc tòa án nơi có
bất động sản (đối với những tranh chấp về bất động sản).

- Quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày công
bố và không bị kháng cáo kháng nghị và có thể được cưỡng chế thi hành nếu quyết
định này là hợp pháp. Điều đó sẽ đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất
về tiền, hàng cho các bên.
Với những ưu điểm như vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại đã ngày càng trở thành một phương thức hữu hiệu được các bên lựa chọn đặc
biệt là với những tranh chấp thương mại giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh của
Việt Nam với nước ngoài.
b/Nhược điểm.
- Quyết định của trọng tài thương mại không phải lúc nào cũng chính xác do
trọng tài giải quyết tranh chấp thương mại theo nguyên tắc chung thẩm và chỉ giải
quyết một lần.
- Việc thực hiện phán quyết trọng tài trên thực tế vẫn phụ thuộc vào ý thức
tự nguyện của các bên mà tính tự giác chưa được coi trọng. Mặc dù theo pháp luật
hiện hành phán quyết trọng tài được hỗ trợ bởi cơ quan thi hành án nhà nước nếu
nó không được thi hành nhưng sự hỗ trợ này nhiều khi chưa kịp thời, làm trì hoãn
việc giải quyết dứt điểm vụ tranh chấp.
- Chi phí cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở nước ta
hiện nay lớn hơn rất nhiều so với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án do đó gây
khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc lựa chọn phương thức giải
quyết này.
III. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam:
1. Thực tiễn áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại:
12


Phương thức trọng tài đang ngày càng tỏ ra chiếm ưu thế và quen thuộc trong
thương mại quốc tế. Tuy nhiên, tại Việt Nam, số vụ việc giải quyết bằng trọng tài

trong thời gian qua vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trước thời gian Luật Trọng tài
thương mại năm 2010 có hiệu lực:
Tại thành phố Hà Nội, tranh chấp kinh tế bằng phương thức trọng tài năm 2005
chỉ có 13 vụ, năm 2004 khoảng 10 vụ. Ở TP Hồ Chí Minh – nơi có nền kinh tế sôi
động, số lượng doanh nghiệp chiếm phần lớn so với cả nước nhưng số vụ đưa ra
giải quyết bằng trọng tài thương mại cũng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Xét đến từng
trung tâm trọng tài ở Việt Nam, trung bình mỗi năm, trung tâm trọng tài Quốc tế
Việt Nam VIAC chỉ xử lí được 20 – 25 vụ, các trung tâm khác chỉ 5 – 7 vụ, thậm
chí có trung tâm không xử lí được vụ nào. Theo thống kê của Trung tâm trọng tài
quốc tế VIAC, trong năm 2007 trong khi Tòa án Hà Nội xét xử gần 9.000 vụ án
trong đó có khoảng 300 vụ án kinh tế và Tòa án thành phố Hồ Chí Minh phải xử
gần 42.000 vụ án các loại trong đó có 1.000 vụ án kinh tế thì VIAC chỉ tiếp nhận
khoảng 30 vụ. Tính trung bình mỗi trọng tài viên chỉ xử 0,25 vụ một năm. Trong
khi đó trên thế giới, các tranh chấp thương mại vẫn phổ biến được giải quyết bằng
con đường trọng tài, như: trung tâm trọng tài quốc tế Singapo 119 vụ, hiệp hội
trọng tài Mỹ 621 vụ, Tòa án Trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại quốc tế
ICC (599 vụ), Hiệp hội Trọng tài thương mại và kinh tế Trung Quốc (1118 vụ)
Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông (448 vụ).
Có thể nhận thấy rằng tuy phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại không phải là một chế định quá mới mẻ nhưng các doanh nghiệp Việt
Nam chưa có thói quen sử dụng trọng tài thương mại như là một trong những
phương thức cơ bản để giải quyết các tranh chấp.
Như vậy, bất chấp những lợi thế mà việc giải quyết tranh chấp thương mại
bằng phương thức trọng tài mang lại, trên thực tế có rất ít các doanh nghiệp lựa
chọn phương thức này khi xảy ra tranh chấp, có thể do một số nguyên nhân sau:
• Về phía các doanh nghiệp:
- Trong thời buổi cạnh tranh thị trường khốc liệt, việc vi phạm pháp luật và
các thỏa thuận hợp đồng giữa các bên diễn ra phổ biến, thường xuyên cho nên các
doanh nghiệp thường tìm cách thương thuyết tay đôi để giải quyết ổn thỏa tranh
chấp, giữ quan hệ làm ăn lâu dài. Một phần cũng là bởi tư tưởng “vô phúc đáo tụng

đình” đã ăn sâu vào suy nghĩ của những người kinh doanh cho nên họ thường tránh
lựa chọn phương thức giải quyết bằng tòa án hay trọng tài trừ khi không còn cách
nào khác. Theo số liệu của Phòng kinh tế thương mại Việt Nam, giải quyết tranh
13


chấp kinh tế qua toà án và trọng tài chỉ chiếm khoảng 49% số lượng các vụ tranh
chấp trong thực tế.
- Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa coi trọng phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại, một phần do họ chưa đặt niềm tin vào
phương thức này, một phần do quan niệm bề nổi là một tổ chức phi Chính phủ như
các trung tâm trọng tài thì việc ra các quyết định sẽ không có tính khả thi như Tòa
án. Từ trước đến nay, nếu buộc phải nhờ đến bên thứ 3 xét xử thì tòa án luôn là lựa
chọn hàng đầu của các bên.
- Ngoài ra, các thương nhân Việt Nam khi kí kết hợp đồng kinh doanh với
nhau hoặc với các đối tác nước ngoài thường chưa coi trọng vấn đề giải quyết
tranh chấp nên không thỏa thuận ngay về hình thức, cơ quan giải quyết tranh chấp
nên khi tranh chấp xảy ra các bên thường lúng túng trong việc lựa chọn phương
thức giải quyết sao cho kịp thời, hiệu quả.
• Về phía các Trung tâm trọng tài: mạng lưới các trung tâm trọng tài ở nước ta
quá thưa thớt, hoạt động của các trung tâm trọng tài chỉ dựa vào nguồn vốn của các
nhà sáng lập, nguồn thu rất hạn hẹp làm hạn chế khả năng hoạt động và phát triển
của các trung tâm. Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có 7 TTTT, cả nước hiện có 175
trọng tài viên, trong đó TTTT quốc tế Việt Nam có 123 trọng tài viên.
• Pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam
đã được hoàn thiện, từng bước tiến gần đến các chuẩn mực quốc tế đặc biệt khi
LTTTM được ban hành năm 2010. Tuy nhiên, ở Việt Nam đây vẫn là hình thức xét
xử mới, do việc tuyên truyền chưa được tốt, các doanh nghiệp chưa được phổ biến
rộng rãi về vai trò và tính ưu việt của trọng tài nên vẫn có thói quen lựa chọn tòa
án để giải quyết tranh chấp.

2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài thương mại:
Luật Trọng tài Thương mại được ban hành trong điều kiện đất nước ta đang
ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới, vì thế đã giúp cho pháp luật về Trọng tài
thương mại của Việt Nam tiến gần hơn tới các chuẩn mực quốc tế. Sự ra đời của
Luật Trọng tài thương mại khẳng định rằng khung pháp luật về trọng tài của Việt
Nam ngày càng hoàn thiện hơn, trở thành công cụ pháp lý hữu hiện góp phần thúc
đẩy trọng tài phát triển và hấp dẫn các doanh nghiệp trong việc lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, để phương thức giải quyết tranh chấp bằng

14


trọng tài thương mại thực sự phát huy được hiệu quả và được áp dụng phổ biến
trên thực tế, cần thiết phải thực hiện các giải pháp sau:
- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức: Hiện nay, các trung tâm trọng tài ở Việt Nam
hoạt động khá tản mạn, khoanh vùng. Sự nhỏ lẻ, manh mún làm cho trọng tài sẽ
mờ nhạt đi trong cách nhìn nhận của giới doanh nghiệp. Vì vậy, cần thiết phải
thành lập một hiệp hội trọng tài thương mại thống nhất.
Ở Việt Nam hiện nay nhiều lĩnh vực hoạt động như đầu tư, tài chính, ngân hàng,
chứng khoán… đang diễn ra sôi động, các tranh chấp phát sinh không ít. Để tăng
độ hấp dẫn của trọng tài đối với nhà đầu tư nên thành lập các trung tâm trọng tài
chuyên ngành, chuyên giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực này.
- Đào tạo nhằm bồi dưỡng nâng cao trình độ của các trọng tài viên: đây là
vấn đề rất bức thiết và quan trọng hiện nay trong việc nâng cao uy tín cũng như
chất lượng của các trung tâm trọng tài.Muốn vậy, nhà nước cần có chính sách hỗ
trợ, đào tạo trọng tài viên thông qua các chương trình đào tạo dài hạn trong nước,
nước ngoài kết hợp với các chương trình tập huấn ngắn hạn với sự hướng dẫn của
các trọng tài viên, các chuyên gia có uy tín trong và ngoài nước. Bên cạnh sự hỗ
trợ cả nhà nước, bản thân các trung tâm trọng tài cũng cần có những chính sách

thiết thực để bồi dưỡng trọng tài viên của trung tâm mình.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật: Đây là một giải
pháp quan trọng để pháp luật trọng tài nhanh đi vào thực tiễn đặc biệt là khi tuyên
truyền pháp luật chưa tốt là một nguyên nhân khiến cho phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở nước ta vẫn còn mới mẻ, chưa được coi
trọng. Trước hết, cần phải tuyên truyền phổ biến pháp luật về trọng tài cho các cơ
quan nhà nước có liên quan như: tòa án, cơ quan thi hành án, chính quyền địa
phương…Bên cạnh đó chú trọng đến việc tuyên truyền pháp luật trọng tài thương
mại cho các doanh nghiệp – đối tượng quan trọng nhất quyết định đến việc áp dụng
cũng như hiệu quả của hoạt động giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài.
Ngoài ra, cần có các biện pháp giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân hiểu biết vai
trò và ý nghĩa của tổ chức trọng tài đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường đã hội nhập.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp bằng phương thức
trọng tài tại các trung tâm trọng tài bằng cách quy định rõ ràng hơn về trách
nhiệm trọng tài như hình thức kỉ luật, xử phạt, mức phạt…khi đưa ra phán quyết
sai gây thiệt hại đến các bên trong vụ tranh chấp.
15


KẾT LUẬN
Qua những phân tích, đánh giá ở trên có thể thấy rằng trọng tài thương mại là
một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại có rất nhiều ưu điểm vượt trội tuy
nhiên thì việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài ở nước ta
hiện nay còn rất hạn chế. Hi vọng rằng cùng với sự ra đời của Luật trọng tài
thương mại 2010 và bằng các biện pháp cụ thể, phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại hứa hẹn sẽ trở thành một phương thức hữu hiệu nhất,
đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong việc giải quyết tranh chấp cũng
như đòi hỏi của nền kinh tế năng động, phát triển.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại – tập 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
2. Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Hỏi và đáp luật thương mại, Nxb.Chính trị hành chính, Hà Nội, 2011.

16


3. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình luật thương mại - tập 2, Nxb. Giáo
dục, 2008.
4. Nguyễn Thị Khế (chủ biên), Luật thương mại và giải quyết tranh chấp
thương mại, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2002.
5. Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam, Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội,
2003.
6. Nguyễn Đình Thơ, Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ luật học, trường Đại
học Luật Hà Nội, 2007.
7. Luật trọng tài thương mại năm 2010.

17



×