Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Những quy định chung về biện pháp tạm giam trong BLTTHS Việt Nam .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.8 KB, 18 trang )

I, Những quy định chung về biện pháp tạm giam trong BLTTHS
Việt Nam.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hay bị can, bị
cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trong mà BLHS quy định hình phạt tù
trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
1. Mục đích áp dụng biện pháp tạm giam
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của
tố tụng hình sự. Do đó, ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can,
bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết
vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích
riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn,
việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan
điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ
khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời
cũng giúp cho việc quản lý giám sát bị can được chặt chẽ, việc tạm giam bị cáo sau khi
tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được
thuận lợi.
2. Đối tượng và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo.
Những người không phải là bị can, bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam.
Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định những trường hợp được áp dụng biện pháp
tạm giam như sau:
Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc
phạm tội rất nghiêm trọng. Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 quy định: “tội phạm rất nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Như vậy, khi bị can, bị cáo phạm
tội gây nguy hại rất lớn hoặc đặc biệt rất lớn cho xã hội, thì có thể áp dụng biện pháp


này. Điều đó có nghĩa, biện pháp ngăn chặn này có thể được áp dụng trên cơ sở tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, mà không cần chứng minh khả năng
trốn tránh, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc khả
năng tiếp tục phạm tội của họ.
1


Trường hợp thứ hai: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít
nghiêm trọng mà BHLS quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người
đó có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là đến ba năm tù, tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”. Như vậy, đối
với bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng để quyết định áp
dụng biện pháp tạm giam, phải thỏa mãn 2 điều kiện:
Điều kiện thứ nhất: bị can, bị cáo phạm tội gây nguy hại không lớn hoặc
lớn cho xã hội mà BLHS quy định hình phạt tù trêm 2 năm, thì mới là điều kiện xét xử
để quyết định áp dụng tạm giam, những trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS
1999 quy định hình phạt tù đến 2 năm thì không áp dụng biện pháp này.
Điều kiện thứ hai: có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Đây là điều kiện đủ để có thể xem xét quyết định áp dụng tạm giam đối với bị can, bị
cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù
trên 2 năm. Để có cơ sở xác định bị can, bị cáo sẽ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội, phải nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề
có liên quan đến việc hiện thực hóa khả năng này. Lý luận và thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử đã rút ra những dấu hiệu cho phép dự báo khả năng bị can, bị cáo sẽ trốn tránh
việc điều tra, truy tố, xét xử như sau: 1, bị can, bị cáo đang tìm cách bán nhà hoặc tài sản
có giá trị; 2, bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng; 3, bị can, bị cáo không có mặt

theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng mà không có lý do chính đáng; 4, bị
can, bị cáo bỏ việc làm… Những dấu hiệu cho thấy bị can, bị cáo sẽ cản trở điều tra,
truy tố, xét xử: 1, bị can, bị cáo chuẩn bị tiêu hủy vật chứng, che dấu, xóa các dấu vết
của tội phạm; 2, bị can, bị cáo mua chuộc, đe dọa người làm chứng để họ khai báo gian
dối; 3, bị can, bị cáo mua chuộc người giám định để họ ra kết luận giám định gian dối;
4, bị can, bị cáo đe dọa người bị hại để họ không dám cung cấp tài liệu cho cơ quan tiến
hành tố tụng; 5, bị can, bị cáo bàn bạc, thông đồng với các bị can, bị cáo khác trong vụ
án nhằm khai báo gian dối đánh lừa cơ quan tiến hành tố tụng… Những dấu hiệu cho
phép dự báo khả năng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: 1, bị can, bị cáo phạm tội chuyên
nghiệp, có tổ chức, là phần tử lưu manh, côn đồ, có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội
nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; 2, bị can, bị cáo đã có những hành vi xảo
quyết, hung hãn như đe dọa người tố cáo, đe dọa trả thù người bị hại và có thể thực hiện
sự đe dọa đó; 3, bị can, bị cáo đã thực hiện hành vi tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương
2


tiện hay tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm; 4, bị can, bị cáo đã
có hành vi kích động, xúi giục người khác phạm tội (1).
Ngoài ra cần chú ý tới một số trường hợp sau: Khoản 1 Điều 25 Luật Bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 26/11/2003 quy định: “Người bị tước quyền bầu cử
theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp
hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam, và người mất năng lực hành vi dân sự thì
không được ghi tên vào danh sách cử tri”. Điều 31 Luật này còn quy định: “Những
người sau đây không được ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân: 1. Người thuộc các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật này, 2. Người đang bị khởi tố về hình
sự…”. Khoản 1 Điều 23 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội 2001 cũng quy định: “Người bị
tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người
đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành
vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri”. Điều 29 Luật này còn quy định:
“Những người sau đây không được ứng cử đại biểu Quốc hội: 1. Người thuộc các

trường hợp sau đây quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật này; 2. Người đang bị khởi tố về
hình sự”. Từ những quy định trên đây cho thấy người bị tạm giam không được ứng cử
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, không được ghi tên vào danh
sách cử tri.
Việc tạm giam đối với người chưa thành niên cũng được quy định tại Điều
303 BLTTHS 2003 như sau: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giam
nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 81, 82, 86, 88 và 120 của BLTTHS, nhưng chỉ
trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giam nếu có đủ căn cứ quy
định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của BLTTHS, nhưng chỉ trong những trường
hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng.
3. Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam
“Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi, là người già yếu, người bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam
mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác trừ những trường hợp sau đây:
a, Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b, Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc
cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c, Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia” (Khoản 2 Điều 88
BLTTHS).
3


Theo Pháp lệnh Người cao tuổi 2000 không sử dụng thuật ngữ “người già”
mà sử dụng thuật ngữ “người cao tuổi” và đưa ra định nghĩa pháp lý khái niệm người
cao tuổi tại Điều 1: “Người cao tuổi theo quy định của Pháp lệnh này là công dân nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”. Từ quy định này có thể hiểu,
người già yếu là người 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau. Khái niệm “người bị

bệnh nặng ” có thể hiểu là người đã được giám định y khoa kết luận mắc những bệnh
nếu bị tạm giam thì sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, lao phổi nặng, bại
liệt…
Tóm lại, tạm giam là biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với những người
đã có quyết định khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
4. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Khoản 3 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định những người có thẩm quyền ra
lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh tạm giam. Theo khoản 1 Điều
80 BLTTHS 2003 những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam bao gồm:
“a, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các
cấp;
b, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
c, Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao, Hội đồng xét xử;
d, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp”
Lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trược khi thi hành. Thời hạn mà Viện kiểm sát
phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ
quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và
hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ
quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
5. Thời hạn để tạm giam
a. Thời hạn tạm giam để điều tra
Về thời hạn tạm giam đề điều tra Điều 120 BLTTHS 2003 quy định: “Thời
hạn tạm giam bị can đề điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Quy định tại khoản 2 Điều 120 BLTTHS về gia hạn tạm giam được như
sau:
“a, Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá

một tháng;
4


b, Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất
không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
c, Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất
không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
d, Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần
không quá bốn tháng”.
So với quy định tương ứng của BLTTHS 88, BLTTHS 2003 đã quy định cụ
thể thời hạn tạm giam thêm đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, mà không quy định
dưới dạng trừu tượng: “trong trường hợp cần thiết, đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm
phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia
hạn thêm” như quy định tại khoản 2 Điều 71 BLTTHS 1988. Điều này thể hiện thái độ
tôn trọng của Nhà nước ta đối với các quyền tự do cá nhân của con người, cho dù họ
phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì
cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do
cho người bị tạm giam hoặc xét cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho
người bị tạm giam hoặc nếu xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
b. Tạm giam để truy tố
Ngoài những quy định về tạm giam để điều tra, BLTTHS 1988 cũng như
BLTTHS 2003 đều có quy định về việc tạm giam để truy tố và xét xử.
Đối với việc tạm giam bị can để truy tố, thì sau khi nhận hồ sự vụ án và bản
kết luận điều tra của cơ quan điều tra, theo quy định tại khoản 2 Điều 166 BLTTHS
2003, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can. Nếu thời hạn tạm giam để điều tra đã
hết và xét thấy phải tiếp tục tạm giam bị can để tạo điều kiện cho việc truy tố người đó

trước Tòa án bằng bản cáo trạng, thì Viện kiểm sát có thể áp dụng biện pháp tạm giam,
nhưng thời hạn tạm giam không được quá 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và
tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn
thêm, nhưng không được quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày
đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
c. Tạm giam để xét xử
Đối với việc tạm giam bị cáo để chuẩn bị xét xử, thì sau khi nhận được hồ
sơ vụ án từ Viện kiểm sát, theo quy định tại Điều 177 BLTTHS 2003, Chánh án hoặc
Phó Chánh án có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm
5


giam. Theo quy định tại Điều 176 Bộ luật này, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử
không được quá 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm
nghiêm trọng, 2 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 3 tháng đối với tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng. Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể gia hạn thêm
nhưng không được quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm
trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa, thời hạn tạm
giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra
lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù, nhưng đến ngày kết thúc
phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì theo quy định tại khoản 1 Điều 228, khoản 4,
khoản 5 Điều 227 BLTTHS 2003 thì Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định trong bản án
việc tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
Trong trường hợp Tòa án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại
hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm
giam bị cáo là cần thiết, thì theo quy định tại khoản 5 Điều 250 BLTTHS 2003, Hội

đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến ngày Viện kiểm
sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án. Trong trường hợp Hội đồng Giám đốc
thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để điều tra lại
hoặc xét xử lại và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì theo quy định tại
Điều 287 Bộ luật này, Hội đồng Giám đốc thẩm ra lệnh tạm giam cho đến khi Viện kiểm
sát hoặc Tòa án thụ lý lại vụ án.
Theo quy định tại Điều 33 và khoản 1 Điều 31 BLHS 1999, thì tạm giam
được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 1 ngày tạm giam bằng 1 ngày tù, thời
hạn tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 1
ngày tạm giam bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ.
7. Một số vấn đề liên quan đến tạm giam
a. Thủ tục tạm giam
Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giam
phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người
bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan có lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước
của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp
nhầm lẫn. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình
người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết được sự việc và không phải tiến hành những
thủ tục tìm kiếm không cần thiết, gây tốn kém.
6


b. Chế độ tạm giam
Tạm giam không phải là hình phạt mà là những biện pháp ngăn chặn trong
TTHS. Việc áp dụng biện pháp tạm giam không phải nhằm trừng phạt người phạm tội
mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải
quyết vụ án của người phạm tội. Vì vậy, Điều 89 BLTTHS 2003 quy định chế độ tạm
giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Người bị tạm giam

không phải chấp hành chế độ của người thi hành hình phạt tù mà chỉ chấp hành các quy
định của Chính phủ về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quá, liên hệ với gia đình trong thời
gian bị tạm giam.
c. Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân của người bị tạm giam
Khi áp dụng biện pháp tạm giam, Điều 90 BLTTHS 2003 có quy định nếu
người bị tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc người thân thích là người
tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giam giao
những người đó cho người thân thích chăm nom. Trường hợp người bị tạm giam không
có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giam những người đó cho chính quyền
sở tại chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà
không có người chăm nom bảo quản thì cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải áp dụng
những biên pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
Sau khi đã áp dụng những biện pháp bảo hộ đối với thân nhân và tài sản, cơ
quan đã ra quyết định tạm giam phải thông báo cho người bị tạm giam biết những biện
pháp đã được áp dụng (2).

II. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam và nguyên nhân
của những tồn tại
1. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam
Theo số liệu thống kê của tác giả Nguyễn Hải Phùng trong bài “Thực trạng
và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát về tạm giữ, tạm giam” trong
tạp chí Kiểm sát số 08/2008 cho thấy thời gian mấy năm gần đây việc áp dụng biện pháp
tạm giam đã đạt được những hiệu quả nhất định góp phần có hiệu quả vào việc phát
hiện, đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Trong những năm gần đây đã chấm dứt hoàn
toàn tình trạng tạm giam không có lệnh hợp pháp và tạm giam theo danh sách trích
ngang. Cơ quan có thẩm quyền đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, tỷ lệ này tăng từ 9,2% lên 12% đã làm giảm số tải số
lượng bị can áp dụng biện pháp tạm giam (2000 - 2007). Việc áp dụng biện pháp tạm
giam đã thận trọng hơn nên số người bị tạm giam đưa ra truy tố, xét xử đã tăng lên, việc
phân loại người bị tạm giam được chặt chẽ nên đã hạn chế tình trạng thông cung giữa

các bị can trong cùng một vụ án, tình trạng người bị tạm giam trốn đã giảm hẳn, các
7


buồng giam đã được xây nâng cấp, xây mới nên nơi ở của họ đã rộng rãi, đảm bảo sức
khỏe cho người bị tạm giam, chế độ lương thực quy ra gạo được tăng từ 12kg lên 15 kg,
các chế độ thực phẩm, nhu yếu phẩm cho người bị tạm giam đã được quy thành lượng
và quyết định theo giá thị trường (3). Tuy nhiên vẫn còn những vi phạm khi áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam xảy ra trên thực tế. Trong công tác quản lý giam giữ ở các trại
tạm giam tính đến hết năm 2007 còn để 6.184 lượt người vi phạm quy chế và nội quy
trại tạm giam, hành vi vi phạm chủ yếu là đánh nhau 3.710/6.184 người chiếm tỉ lệ 60%,
trốn khỏi nơi giam 503 người (bị bắt lại 307 người, chưa bắt lại 196 người), cơ quan
điều tra đã khởi tố 21 vụ về tội trốn khỏi nơi giam, tội cố ý gây thương tích 10 vụ, về tội
giết người 1 vụ, để 3 đối tượng có thai trong quá trình tạm giam như tử tù Nguyễn Thị
Oanh, phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, án phạt tử hình, bị tạm giam tại trại giam
của công an tỉnh Hòa Bình, bị can Trần Thị Hương, phạm tội mua bán trái phép chất ma
túy và Nguyễn Thủy Tiên phạm tội cướp tài sản đang bị tạm giam tại trại tạm giam Chí
Hòa và nhà tạm giữ của Công an Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh (4).
Về thủ tục tạm giam: việc tạm giam bị cáo để chờ xét xử phúc thẩm nhưng
không được Tòa án cấp phúc thẩm ra lệnh tạm giam theo quy định tại điều 243
BLTTHS 2003, tồn tại này phần nhiều thuộc trách nhiệm của 3 Tòa phúc thẩm thuộc
Tòa án nhân dân tối cao.
Về thời hạn tạm giam: việc quá hạn vẫn xảy ra ở một số địa phương. Tình
trạng tạm giam kéo dài tời gần 3 năm, thậm chí còn bị bỏ quên, thất lạc hồ sơ… Việc để
xảy ra những trường hợp quá hạn tạm giam đều có trách nhiệm của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án các cấp.
Việc vi phạm trong công tác quản lý của cán bộ chiến sĩ ở các trại tạm giam
là người đưa người bị tạm giam ra ngoài lao động để cải thiện, có nhiều trường hợp do
sơ hở mất cảnh giác của cán bộ trong lúc dẫn giải đi xét xử, khi đi khám tại bệnh viện,
thậm chí còn quên khóa cửa buồng giam nên dẫn đến người bị tạm giam bỏ trốn, có

trường hợp trốn ra lại tiếp tục phạm tội (5).
2. Nguyên nhân của những tồn tại
Sở dĩ có tình trạng tạm giam tràn lan, không đúng đối tượng, không có
lệnh, quá thời hạn và không đúng với các quy định về chế độ tạm giam… nêu ở trên là
do nguyên nhân chủ quản thuộc về những người có trách nhiệm, quyền hạn trong việc ra
lệnh tạm giam, những người có trách nhiệm trong trại tạm giam, do công tác xây dựng
pháp luật chưa đầy đủ, kịp thời… và do điều kiện cơ sở vật chất của các trại giam hiện
nay cũng như do công tác kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực tạm giam không được
thường xuyên, chặt chẽ.
a. Nguyên nhân chủ quan
8


Nhận thức của các cơ quan và những người có trách nhiệm trong việc bắt
và ra lệnh tạm giam còn hạn chế, chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp
luật về thủ tục, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam. Ở một số địa phương lực lượng tiến
hành tố tụng vừa yếu lại thiếu so với số lượng vụ án cần giải quyết, dẫn đến việc giải
quyết các vụ án còn chậm, việc tồn đọng bị kéo dài, bị can, bị cáo tạm giam quá hạn.
Trình độ của những cán bộ làm công tác ở các trại tạm giam chưa đồng
đều, thậm chí có nơi chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, dẫn đến vi phạm pháp luật do kém
hiểu biết, không tiến hành thường xuyên chế độ kiểm tra, kiểm soát bảo vệ an toàn nơi
giam giữ cũng như không quản lý, theo dõi chặt chẽ và thông báo kịp thời đến cơ quan
có trách nhiệm về việc người tạm giam quá hạn.
Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giam chưa
được Viện kiểm sát ở nhiều địa phương tiến hành thường xuyên và đều khắp nên không
phát hiện và có biện pháp khắc phục kịp thời những vi phạm xảy ra.
Công tác quản lý, theo dõi những người bị tạm giam chưa được duy trì chặt
chẽ nên còn để xảy ra tình trạng bỏ trốn hoặc chết do dịch bệnh, do đánh lẫn nhau.
Những điều kiện cần thiết bảo đảm cho công tác tạm giam chưa được chú
trọng đúng mức. Trại tạm giam nhiều nơi bị xuống cấp nhưng không được xây dựng,

sửa chữa kịp thời.
b. Những nguyên nhân khách quan
Tình hình vi phạm, tội phạm ngày càng tăng lên, theo chiều hướng phức
tạp, số người bị tạm giam tăng lên hàng năm, tính chất tội phạm ngày càng nghiêm trọng
hơn, do vậy công tác quản lý tạm giam đã gặp không ít khó khăn.
Các trại tạm giam đều đóng ở khu vực xa trung tâm, phương tiện kĩ thuật
phục vụ cho công tác kiểm sát việc tạm giam chưa được đầu tư đúng múc đã làm hạn
chế chất lượng của công tác trực tiếp kiểm sát thường kì và bất thường tại các trại giam.
Bên cạnh đó các quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn nói
chung, đối với biện pháp tạm giam nói riêng trong BLTTHS dù đã có tính hệ thống,
đồng bộ, thống nhất song vẫn còn những hạn chế nhất định mâu thuẫn với nhau, chồng
chéo nhau và có những quy định không phù hợp với thực tế như:
- Chưa quy định đầy đủ các đối tượng cần áp dụng biện pháp tạm giam.
- Thời hạn tạm giam nhiều khi chưa đủ để tiến hành các hoạt động tố tụng
cần thiết.
- Nhiều khi thời hạn tạm giam ngắn hơn thời hạn điều tra nên thời hạn điều
tra vẫn còn, việc tạm giam vẫn cần thiết nhưng không có cơ sở để tiếp tục áp dụng biện
pháp tạm giam bị can, bị cáo.
- Thời hạn áp dụng đối với các hành vi tố tụng như việc phê chuẩn của
Viện kiểm sát đối với lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra thời hạn tạm giam để chuyển
9


từ giai đoạn tố tụng này sang giai đoạn tố tụng khác… chưa được quy định đầy đủ và
chặt chẽ.
- Phạm vi thẩm quyền ra lệnh áp dụng biện pháp tạm giam còn quá rộng,
nhưng có nhiều khi lại chưa quy định đủ thẩm quyền nên dẫn đến khó khăn cho cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc áp dụng biện pháp tạm giam.

III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện pháp

tạm giam
Nghị quyết số 08/NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới có nêu: “tăng cường công tác kiểm sát việc bắt,
giam, giữ,, bảo đảm đúng pháp luật, những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam
thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, phát hiện và xử lý kịp thời
các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ” (6). Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Xác định rõ căn cứ tạm giam,
hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp đối
tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam”.
Với chủ trương trên thì việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS về việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng
cần phải được chú ý khi sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2003. Về việc sửa đổi, bổ sung các
quy định của BLTTHS 2003 về biện pháp ngăn chặn tạm giam, tôi xin đưa ra một số ý
kiến như sau:
1. Về căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam và việc hạn chế áp dụng biện
pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm:
Theo quy định của BLTTHS hiện hành (Điều 88, Điều 303), căn cứ để áp
dụng hoặc không áp dụng biện pháp tạm giam dựa vào một số loại tiêu chí như: dựa vào
sự phân loại tội phạm theo quy định của BLHS, dựa vào khả năng bị can, bị cáo cos thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội, dựa vào một
số yếu tố về nhân thân, lai lịch như tuổi, tình trạng sức khỏe, tình trạng thai sản hoặc
đang nuôi con nhỏ của bị can, bị cáo là phụ nữ… BLTTHS hiện hành quy định các
trường hợp có thể tạm giam như mục 1.3 phần I, tôi đồng ý với ý kiến của tác giả Lê
Minh Tuấn trong bài viết “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về tạm giam nhằm
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” đăng trên tạp chí Kiểm sát số 09/2008: đó là quy định
hiện hành của BLTTHS về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam là chưa thực sự phù hợp
và chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cần xuất phát từ mục
đích của việc áp dụng biện pháp tạm giam để xác định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn
chặn này một cách phù hợp, đồng thời cũng để tránh việc áp dụng biện pháp tạm giam
10



này một cách tùy tiện hoặc sự dụng biện pháp ngăn chặn này như một biện pháp thay thế
cho các biện pháp điều tra. Vì tạm giam không phải là hình phạt mà chỉ là một biện pháp
ngăn chặn được cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng chủ yếu để ngăn chặn việc bị can, bị
cáo trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội nên việc
nhà làm luật chỉ thuần túy dựa vào sự phân loại tội phạm theo quy định của BLHS (tức
là dự vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được thực hiện)
mà không cần tính đến việc bị can, bị cáo có khả năng trốn hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết định
việc tạm giam. Ngoài ra, cũng cần xem xét đến một số yếu tố khác có thể được dùng làm
căn cứ để áp dụng (hoặc không áp dụng) biện pháp ngăn chặn này như: khả năng gây
nguy hại đến an ninh quốc gia hoặc trật tự an toàn xã hội của bị can, bị cáo nếu không
tạm giam họ, loại và mức hình phạt vi phạm tội được thực hiện, một số yếu tố về nhân
thân, lai lịch như tuổi, tình trạng sức khỏe, tình trạng thai sản, hoặc đang nuôi con nhỏ
của bị can, bị cáo là phụ nữ…
Liên quan đến việc hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số loại
tội phạm, từ thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam ở nước ta những năm qua cho thấy,
do BLTTHS hiện hành không quy định đối với những loại (nhóm) tội phạm nào thì có
thể hạn chế việc tạm giam nên việc xem xét, quyết định tạm giam chỉ căn cứ vào quy
định của Điều 88 và Điều 303 BLTTHS chứ không căn cứ vào loại tội phạm mà bị can,
bị cáo đã thực hiện. Trên thực tế có những trường hợp bị can, bị cáo phạm tội thuộc
nhóm tội phạm về kinh tế - chức vụ, họ có nơi cư trú rõ ràng, có đủ điều kiện để có thể
áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam như: cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền, hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, họ không có khả
năng và điều kiện thực tế để có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
có thể tiếp tục phạm tội nhưng họ vẫn bị tạm giam với lý do đơn giản để phục vụ việc
điều tra, truy tố, xét xử (?).
Theo tác giả Lê Minh Tuấn việc hạn chế tạm giam bị can, bị cáo đối với
một số loại tội phạm là rất cần thiết. Vấn đề đặt ra là cần hạn chế tạm giam đối với

những loại tội cụ thể nào và trong những trường hợp nào. Trong điều kiện thực tế ở
nước ta hiện nay, có thể nghiên cứu để hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một
số loại tội phạm sau:
+ Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
+ Nhóm tội phạm môi trường
+ Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu (trừ các tội: cướp tài
sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản…)
+ Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng và trật tự quản lý hành chính.
11


+ Một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ và nhóm tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp.
Thêm vào đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS chỉ phụ nữ có
thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi mới được áp dụng quy định không tạm giam.
Trường hợp đứa trẻ dưới 36 tháng tuổi nhưng không còn mẹ chỉ có cha thì sao? Người
cha có được miễn tạm giam không? Hoặc trường hợp là người duy nhất phải chăm sóc
người thân (cha, mẹ, anh chị em ruột là người tàn tật, già yếu, người sắp chết không thể
tự sinh hoạt như những người bình thường được). Để bảo đảm tính nhân đạo, tiến bộ và
vì con người, theo tôi nên bổ sung vào khoản 2 Điều 88 trường hợp không tạm giam:
“người đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người duy nhất có người thân là người tàn
tật, già yếu không tự sinh hoạt được”
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm thì cùng
với việc hạn chế tạm giam đối với một số loại tội, cần thiết phải tăng cường hiệu quả và
tính khả thi của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Từ những phân tích trên, tác giả cũng xin đề xuất những căn cứ áp dụng
biện pháp tạm giam như sau:
“Điều… tạm giam:
1.Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau

đây:
a. Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội;
b. Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù có
thời hạn thuộc đối tượng sống lang thang, không có nơi cư trú nhất định, không được
cơ quan, tổ chức, cá nhân đứng ra bảo lĩnh và có căn cứ để cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
c. Bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội;
d. Bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội
rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ cho rằng người đó cos
thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội;
đ. Bị can, bị cáo thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này nhưng phạm tội
xâm phạm an ninh quốc gia hoặc là đối tượng đặc biệt nguy hiểm đố với an ninh quốc
gia hoặc trật tự an toàn xã hội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
2. Đối với bị can, bị cáo thuộc một trong những trường hợp sau đây thì không áp dụng
biện pháp tạm giam mà nếu cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác:
12


a. Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai, người đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người duy
nhất có người thân là người tàn tật, già yếu không tự sinh hoạt được;
b. Bị can, bị cáo phạm tội mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt chính không phải là
hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình hoặc quy định hình phạt tù có thời
hạn là hình phạt lựa chọn với các loại hình phạt khác;
c. Bị can, bị cáo phạm tội quy định tại các Điều… của Bộ luật Hình sự (liệt kê các tội
phạm cụ thể hoặc các nhóm tội phạm không cần thiết phải tạm giam) mà có nơi cư trú
rõ ràng và được cơ quan, tổ chức, cá nhân đứng ra bảo lãnh hoặc tự đặt tiền hoặc tài

sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án…”

2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 và khoản 3 Điều 88 BLTTHS những
người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan
điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
các cấp. Theo tôi, quy định phạm vi chủ thể được ra lệnh tạm giam như vậy là quá rộng.
BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng thu hẹp phạm vi đối tượng chủ thể được ra
lệnh tạm giam. Trong giai đoạn điều tra, việc ra lệnh tạm giam chỉ nên giao cho Viện
Trưởng Viện kiểm sát. Thay vì việc Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra có
quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam như quy định của BLTTHS
hiện hành thì chỉ nên quy định cho các chủ thể này có nghĩa vụ thu thập các tài liệu,
chứng cứ để đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định bắt bị can để tạm giam và
ra lệnh tạm giam. Vì biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn đặc biệt nên cũng
không nên giao cho Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được quyền ra lệnh bắt bị can để
tạm giam và ra lệnh tạm giam mà chỉ nên giao thẩm quyền này cho Viện trưởng Viện
kiểm sát. Chỉ trong trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt thì một Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng Viện kiểm sát ủy quyền mới được ra lệnh bắt bị
can để tạm giam và ra lệnh tạm giam. Trong giai đoạn hồ sơ vụ án chuyển Tòa án chuẩn
bị xét xử thì chỉ nên quy định cho thẩm phán giữ chức vụ Chánh án Tòa án các cấp và
Chánh án Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao được quyền ra lệnh bắt bị cáo để tạm
giam và ra lệnh tạm giam. Tại phiên tòa, thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử.
Theo đó về thẩm quyền ra lệnh tạm giam nên sửa như sau:
“Điều … Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Trong các giai đoạn tố tụng trước khi xét xử (giai đoạn khởi tố, điều tra,
truy tố), Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các
cấp tự mình hoặc trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của Thủ trưởng Cơ quan điều tra
13



cùng cấp có quyền ra lệnh tạm giam. Trong trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát vắng
mặt thì một Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng ủy quyền thực hiện thẩm
quyền này.
Trong giai đoạn xét xử, Chánh án Toàn án nhân dân, Chánh án Toàn án
quân sự các cấp có quyền ra lệnh tạm giam. Trong trường hợp Chánh án Tòa án vắng
mặt thì một Phó Chánh án Tòa án được Chánh án ủy quyền thực hiện thẩm quyền này.
Thẩm quyền ra lệnh tạm giam bị cáo tại phiên tòa do Hội đồng xét xử xem xét, quyết
định…”
3. Về thời hạn tạm giam bị can, bị cáo
Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo được quy định theo những căn cứ khác
nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng để bảo đảm cho cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Trong đó, thời hạn tạm giam để quyết định truy tố
được quy định bằng thời hạn quyết định truy tố, và thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử
được quy định bằng thời hạn chuẩn bị xét xử. Còn thời hạn tạm giam để điều tra và thời
hạn gia hạn tạm giam để điều tra phụ thuộc vào từng loại tội. Nếu so sánh với thời hạn
điều tra thì chúng ta có thể nhận thấy tổng thời hạn để điều tra 1 vụ án về tội ít nghiêm
trọng là 4 tháng, và tổng thời hạn tạm giam để điều tra 1 vụ án về tội ít nghiêm trọng là
3 tháng, tổng thời hạn để điều tra 1 vụ án về tội nghiêm trọng là 8 tháng, và tổng thời
hạn tạm giam để điều tra 1 vụ án về tội nghiêm trọng là 6 tháng, tổng thời hạn để điều
tra 1 vụ án rất nghiêm trọng là 12 tháng, tổng thời hạn tạm giam để điều tra 1 vụ án rất
nghiêm trọng là 9 tháng, trong khi đó tổng thời hạn để điều tra 1 vụ án đặc biệt nghiêm
trọng là 16 tháng, tổng thời hạn tạm giam để điều tra 1 vụ án đặc biệt nghiêm trọng là 16
tháng. Như vậy, trong số các loại tội phạm nêu trên chỉ có tội đặc biệt nghiêm trọng là
có tổng thời hạn tạm giam để điều tra bằng tổng thời hạn điều tra, còn tội ít nghiêm
trọng, tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng là có các tội có tổng thời hạn tạm giam
để điều tra ngắn hơn tổng thời hạn điều tra (8). Vì mục đích của việc tạm giam là để bảo
đảm cho việc điều tra cho nên BLTTHS không quy định thời hạn tạm giam để điều tra
bằng thời hạn điều tra của ba loại này như tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc như thời hạn
tạm giam để hoàn thành cáo trạng, chuẩn bị xét xử như BLTTHS 1988 là khó khăn cho

cơ quan điều tra. Để khắc phục bất cập này và không làm bó tay Cơ quan điều tra theo
tôi cần sửa lại quy định về thời hạn điều tra, tạm giam để điều tra quy định tại Điều 119
(về gia hạn điều tra) và quy định tại Điều 120 (về gia hạn tạm giam để điều tra) của
BLTTHS hiện hành cần sửa đổi, bổ sung theo hướng sau:
- Giao thẩm quyền gia hạn điều tra và gia hạn điều tra tạm giam để điều tra
cho Tòa án (phù hợp với quy định chung và thẩm quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp tạm giam và gia hạn tạm giam của Tòa án).
14


- Khắc phục mâu thuẫn giữa nội dung quy định tại Điều 119 (về gia hạn
điều tra) và quy định tại Điều 120 (về gia hạn tạm giam để điều tra) với thời gian tối đa
là 20 tháng

15


CÁC CHÚ THÍCH
(1) Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, tác giả: Trần Quang Tiệp,
nxb Chính trị quốc gia, năm 2005.
(2) Giáo trình Tố tụng hình sự, trường Đại học Luật Hà Nội, nxb Tư pháp, năm 2006.
(3) Từ thực tiễn công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục, chấp
hành hình phạt tù, tạp chí Kiểm sát số 08/2008, tác giả: Tô Thị Mình Tâm.
(4) Thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, tạp chí Kiểm sát số 08/2008, tác giả: Nguyễn Hải Phùng.
(5) Từ thực tiễn công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục, chấp
hành hình phạt tù, tạp chí Kiểm sát số 08/2008, tác giả: Nguyễn Hải Phùng.
(6) Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
trong BLTTHS, tạp chí Kiểm sát.
(7) Phòng ngừa tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự, Luận văn Thạc sĩ, tác giả: Đặng

Thị Hồng Nhung, năm 2005.
(8) Sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về những biện pháp ngăn chặn, tạp chí
Kiểm sát số 20/2007, tác giả: Mai Bộ.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Bộ luật Tố tụng hình sự 1988
2, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
3, Luật Bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân 2003
4, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội 2001
5, Chỉ thị số 15/2008/CT-TTạm giam về tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện công tác
tạm giữ, tạm giam do Thủ Tướng Chính phủ ban hành.
6, Nghị định 98/2002/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế về tạm giữ, tạm
giam ban hành ngày 27/11/2002.
7, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, trường Đại học Luật Hà Nội , năm 2006, nxb Tư
pháp
8, Phòng ngừa tình trạng oan sai trong điều tra hình sự, Luận văn Thạc sĩ, tác giả Đặng
Thị Hồng Nhung, năm 2005.
9, Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam về giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
Luận văn Tiến sĩ Luật học Lê Thị Thanh Hằng, năm 2009.
10, Hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố tụng hình sự
theo yêu cầu của cải cách tư pháp, tác giả: Phạm Mạnh Hùng, tạp chí Kiểm sát số
21/2007.
11, Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, tác giả: tiến sĩ Trần Quang
Tiệp, nxb Chính trị quốc tra, năm 2005.
12, Từ thực tiễn công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành hình phạt tù, tác giả: Tô Thị Minh Tâm, tạp chí Kiểm sát số 08/2008.
13, Thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc tạm giữ,

tạm giam, tác giả: Nguyễn Hải Phùng, tạp chí Kiểm sát số 08/2008.
14, Sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về những biện pháp ngăn chặn, tạp chí
Kiểm sát, số 20/2007, tác giả: Mai Bộ.
15, Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về tạm giam nhằm đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, tác giả Lê Minh Tuấn, tạp chí Kiểm sát số 09/2008.

17


MỤC LỤC

I, Những quy định chung về biện pháp tạm giam trong
BLTTHS Việt Nam…………………………………………………. .....1
1. Mục đích áp dụng biện pháp tạm giam……………………………... 1
2. Đối tượng và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam………………….. 2
3. Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam…………..... 4
4. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam……………………………………… 4
5. Thời hạn để tạm giam……………………………………………… .. 5
6. Một số vấn đề liên quan đến tạm giam……………………………… 6

II. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam và nguyên nhân
của những tồn tại……………………………………………….7
1. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam……………………………. 7
2. Nguyên nhân của những tồn tại…………………………………….. .8

III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện
pháp tạm giam…………………………………………………10
1. Về căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam và việc hạn chế
áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm:……….…... 12
2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giam……………………………...….... 13

3. Về thời hạn tạm giam bị can, bị cáo………………………………….13

18



×