Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Quy định của pháp luật về các hình thức huy động vốn của công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.34 KB, 15 trang )

Mở đầu
Công ty cổ phần (CTCP) là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền
kinh tế thị trường, nó góp phần phát triển nền kinh tế và hoàn thiện thể chế
nền kinh tế thị trường. Với nhiều ưu thế so với các loại hình công ty khác
như: có tư cách pháp nhân, các cổ đông công ty chỉ phải chịu trách nhiệm
hữu hạn trong phần vốn góp, có cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng chuyển
nhượng vốn góp tự do, dễ dàng, có tính ổn định trong kinh doanh và không
hạn chế thời gian tồn tại… Với rất nhiều ưu thế trong đó có ưu thế lớn nhất
cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng huy động vốn của CTCP dễ dàng, ưu việt
hơn hẳn các loại hình công ty khác là một trong những lý do khiến CTCP
ngày càng được nhiều nhà đầu tư lựa chọn khi muốn đầu tư kinh doanh hoặc
thành lập, chuyền đổi loại hình công ty. Vậy ta có thể tìm hiểu cụ thể về các
vấn đề về huy động vốn trong CTCP.

Nội dung
I/ Khái quát về công ty cổ phần và một số vấn đề về huy động vốn
trong công ty cổ phần:
1. Khái quát về công ty cổ phần:
Pháp luật hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về
công ty cổ phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết công ty cổ phần.
Khoản 1, Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 quy định:
“1. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp, trong đó:
a)Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b)Cổ đông có thể là cổ tức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế tối đa;
c)Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d)Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 54 của
luật này”.
Ngoài ra tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 77 LDN 2005 còn cho thấy rõ


công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập và có quyền phát hành chứng
khoán ra công chúng.
2. Khái quát về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần
Để kinh doanh không thể không có vốn, vốn của doanh nói chung là giá
trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp
1


hoặc sử dụng hợp pháp của doanh ngiệp, được doanh nghiệp sử dụng trong
kinh doanh. Công ty cổ phần là loại hình công ty đối vốn điển hình do vậy
vấn đề vốn của CTCP hết sức phức tạp. Ta có thể xem xét vốn của CTCP
dưới nhiều góc độ, dựa trên các tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào nguồn vốn
gốc hình thành vốn thì vốn của CTCP gồn có: Vốn của chủ sở hữu (vốn tự
có) và vốn tín dụng (vốn vay).
Vốn của chủ sỡ hữu: là vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ
nguồn vốn đóng góp của các cổ đông và do CTCP tự bổ sung từ lợi nhuận
của công ty.
Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay bằng nhiều hình
thức khác nhau: vay ngân hàng, vay tổ chức cá nhân, vay bằng cách phát
hành trái phiếu.
Vốn của CTCP có thể được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau,
nhưng điều quan trọng là công ty có tỷ lệ vốn hợp lý, phương thức huy động
vốn thích hợp và có phương án kinh doanh đúng đắn để sử dụng vốn hiệu
quả và tạo được niềm tin cho đối tác đảm bảo cho công ty phát triển vững
mạnh.
II/ Huy động vốn trong CTCP.
1.Những ưu thế của CTCP so với các loại hình công ty khác trong
việc huy động vốn
Ưu điểm trong vấn đề huy động vốn của CTCP hơn hẳn các loại hình
công ty khác là “CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy

động vốn” (Khoản 3 Điều 77 LDN 2005) trong khi đó doanh ngiệp tư nhân
và công ty hợp doanh “không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào”
(Khoản 3 Điều 130 và Khoản 2 Điều 141 LDN 2005), khả năng huy động
vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có thuận lợi hơn là được quyền phát
hành trái phiếu nhưng cũng “không được quyền phát hành cổ phần” (Khoản
3 Điều 38 LDN 2005. Trong các loại chứng khoán của CTCP cổ phiếu là ưu
thế lớn nhất của CTCP nhờ khả năng huy động vốn góp rất lớn và giảm
được nhiều chi phí trung gian so với các hình thức huy động khác do tiếp
cận trực tiếp các nhà đầu tư.
CTCP có cấu trúc linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người
đầu tư. Phần vốn của cổ đông có thể được tự do chuyển nhượng thông qua
việc chuyển quyền sở hữu cổ phần (trừ các trường hợp do luật pháp quy
định) hay đó là hình thức chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán. Tính chuyển nhượng cổ phiếu mang lại chob nền kinh tế sự vận động
nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản công
ty.
2


Mặt khác, cổ phần có mệnh giá nhỏ kết hợp với tính thanh khoản và
chuyển nhượng dễ dàng đã khuyến khích được mọi tầng lớp dân chúng đầu
tư. Những đặc điểm này đã giúp CTCP có khả năng huy động một lượng
vốn lớn, khả năng tích tụ và tập trung với vốn quy mô lớn đáp ứng các dự án
đầu tư cần lượng vốn lâu dài, mở rộng đa dạng hóa các ngành nghề kinh
doanh dễ dàng hơn.
2.Quy định của pháp luật về các hình thức huy động vốn của công
ty cổ phần.
Các chủ thể kinh doanh thường muốn có nguồn vốn lớn để mở rộng
quy mô sản xuất kinh doanh. Cũng giống như nhiều loại hình công ty khác
CTCP thường có hai cách để huy động vốn là : tăng vốn chủ sở hữu và tăng

vốn vay và trong mỗi cách lại có những phương thức huy động vốn khác
nhau. Tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu; tăng vốn vay
được thực hiện thông qua ba hình thức: phát hành trái phiếu, tín dụng ngân
hàng, tín dụng thuê mua.
2.1/Huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu.
Cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của CTCP được thể hiện
dưới hình thức cổ phiếu, bao gồm cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi.
Cổ phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toàn ghi sổ xác
nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu là
bằng chứng chứng minh quyền sở hữu cổ phần của công ty (được quy định
rõ tại khoản 1 Điều 85 LDN 2005).
Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần của CTCP cho người đầu
tư nhằm huy động vốn cho công ty. Kết quả của việc chào bàn cổ phần sẽ
đảm bảo huy động vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc làm
tăng vốn điều lệ của công ty khi công ty đang trong quá trình hoạt động.
Việc phát hành cổ phiếu có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các
cổ đông hiện có hoặc có thể dẫn tới sự thay đổi vị thế của từng cổ đông. Do
vậy việc quyết định bán loại cổ phần, số lượng mỗi cổ phần chào bán sẽ do
Đại hội đồng cổ đông quyết định còn Hội đồng quản trị quyết định thời điểm
bán, phương thức và giá chào bán.
Quy định của pháp luật về phát hành cổ phiếu:
Phát hành cổ phiếu có thể diễn ra nhiều lần. Có thể chia thành các trường
hợp: phát hành cổ phiếu lần đầu để huy động vốn thành lập công ty và phát
hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty.
- Phát hành cổ phiếu lần đầu thành lập công ty:
3


Khi thành lập CTCP phải huy động vốn góp của các cổ đông. Pháp luật
quy định các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất là 20%

tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán. Trong trường hợp các cổ
đông sáng lập không đăng ký mua hết số cổ phần được quyền chào bán thì
số cổ phần còn lại phải được chào và bán hết trong thời hạn 3 năm kể từ
ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận kinh doanh. Vì vậy, tối thiểu các cổ
đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ 20% số cổ phiếu dự tính phát hành,
số cổ phiếu còn lại sẽ được phát hành để huy động đủ số vốn điều lệ. Các cổ
đông sáng lập phải thực hiện nguyên tắc nhất trí về số lượng cổ phần, loại cổ
phần dự kiến chào bán.
Luật doanh nghiệp 2005 quy định rõ trách nhiệm của các cổ đông sáng
lập về tính chính xác, trung thực đối với giá trị tài sản góp vốn được giới hạn
trong phạm vi các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng số
chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn kết
thúc định giá. Những người cam kết mua cổ phần còn phải thực hiện thủ tục
chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty theo đúng quy định tại
khoản 1 Điều 29 LDN 2005:
“1.Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ
đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty
theo quy định sau đây:
a) Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người
góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử
dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ
phí trước bạ;
b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải
được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên
bản.
Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công
ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc
chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc đăng ký
của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn; tổng giá trị tài

sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của công
ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn hoặc đại diện theo uỷ quyền
của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty;
c) Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là tiền Việt
Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi
quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty.”
- Phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty:
4


Trong quá trình hoạt động, cổ phiếu cũng trở thành một trong những
phương tiện để huy động vốn rất hiệu quả. Việc phát hành thêm cổ phiếu sẽ
làm tăng thêm độ tím nhiệm cho công ty. Cổ phần là lớp nệm bảo vệ cho các
chủ nợ, nhờ vậy khả năng vay nợ được mở rộng. Hơn nữa, vốn của chủ sở
hữu tăng tạo ra lá chắn chống lại sự phá sản của công ty. Thực chất việc phát
hành cổ phiếu trong trường hợp này là việc công ty chào bán cổ phần để huy
động vốn.
Theo pháp luật Việt Nam, phát hành cổ phiếu có thể thực hiện bằng
hai phương thức:
Phát hành riêng lẻ: là hình thức phát hành trong đó cổ phiếu có thể
được bán cho phạm vi một số người nhất định với số lượng hạn chế, thông
thường bán cho những người trong công ty.
Luật doanh nghiệp 2005 lần đầu đưa ra quy định về việc công ty phát
hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán cổ phần đó cho tất cả các cổ
đông theo tỉ lệ cổ phần hiện có tại công ty:
“a) Công ty phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo
phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú của họ. Thông báo phải
được đăng bóa trong ba số liên tiếp trong thời hạn mười ngày làm việc, kể
từ ngày thông báo.
b) Thông báo phải có họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy

chứng minh thư nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp
khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa chỉ thường chú, quốc tịch, số quyết
định thành lập hoặc số đăng kí kinh doanh của cổ đông là tổ chức; số cổ
phần và tỉ lệ cổ phần hiện có của cổ đông tại công ty; tổng số cổ phần dự
kiến phát hành và số cổ phần cổ đông được quyền mua; giá chào bán cổ
phần; thời hạn đăng ký mua; họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp
luật của công ty. Thời hạn xác định trong thông báo phải hợp lý đủ để cổ
đông đăng ký mua được cổ phần. Kèm theo thông báo phải có mẫu phiếu
đăng ký mua do công ty phát hành;
c) Cổ đông có quyền chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của mình cho
người khác;
d) Nếu phiếu đăng ký mua cổ phần không được gửi về công ty đúng
hạn như thông báo thì cổ đông có liên quan coi như đã không nhận quyền
ưu tiên mua. Trường hợp số lượng cổ phần dự định phát hành không được
cổ đông và người nhận chuyển quyền ưu tiên mua đăng ký mua hết thì số cổ
pần dự kiến phát hành còn lại sẽ do Hội đồng quản trị quản lý. Hội đồng
quản trị có thể phân phối số cổ phần đó cho cổ đông của công ty hoặc
người khác theo cách thức hợp lý với điều kiện thuận lợi hơn so với những
điều kiện đã chào bán cho các cổ đông, trừ trường hợp Đại hội đồng cổ

5


đông có chấp thuận khác hoặc cổ phần được bán qua trung tâm giao dịch
chứng khoán” (Khoản 2 Điều 27 LDN 2005).
Quy định này thực sự có một bước phát triển hơn so với Luật doanh
nghiệp trước đó. Tuy nhiên trình tự thủ tục, điều kiện,… chào bán cổ phiếu
riêng lẻ LDN 2005 không trực tiếp quy định mà do Chính phủ sẽ có hướng
dẫn cụ thể.
Phát hành cổ phiếu ra công chúng: là phương thức phát hành trong đó

cổ phiếu được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn nhà đầu tư
với khối lượng cổ phiếu phát hành đạt được một tỉ lệ quy định nhất định và
phải dành một tỉ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ.
Theo khoản 6 Điều 87 LDN 2005, điều kiện, phương thức và thủ tục
chào bán cổ phần racoong chúng thực hiện theo quy định của luạt chứng
khoán. Ngoài ra, công ty còn phải thực hiện chế độ báo cáo, công bố thông
tin và chịu sự giám sát chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Điều đó xuất
phát từ lí do để cổ phiếu hay trái phiếu của công ty phát hành ra không phải
là sản phẩm của trò lừa đảo hoặc của chủ thể có dự án đầu tư kém hiệu quả,
gây lãng phí cho nền kinh tế, đồng thời để bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư.
CTCP muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng phải đáp ứng các nhu
cầu về vốn, thời gian hoạt động, đội ngũ quản lý, hiệu quả sản xuất kinh
doanh và tính khả thi của dự án sản xuất trong tương lai được quy định rõ tại
Khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006:
“Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng phải đảm bảo các điều
kiện sau:
a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ tại thời điểm đăng kí chào bán từ
10 tỷ Việt Nam đồng trở lên tính theo giá trị trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của công ty năm liền trước năm trào bán
phải có lãi đồng thời không có lỗ lũy kể tính đến năm đăng ký trào bán;
c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ
đợt trào bán được Đại hộ đồng cổ đông thông qua”.
Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo số lượng và chất lượng cổ
phiếu của CTCP để có thể giao dịch trên thị trường chứng khoán. Sau khi
đảm bảo được các yếu tố trên công ty lập hồ sơ gủi lên Ủy ban chứng khoán
nhà nước xin được cấp giấy phát hành.
Phát hành cổ phần là hình thức huy động vốn hiệu quả và dễ dàng
nhất của CTCP và chỉ ở CTCP mới có điều này, hơn nữa việc chuyển
nhượng cổ phần tự do càng tạo ra sức hút đối với các nhà đầu tư.
Không chỉ huy động vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu,

CTCP còn được quyền huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái
phiếu, và các hình thức tín dụng khác.

6


2.2/Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng:
a)Phát hành trái phiếu:
Theo Khoản 3 Điều 77 LDN 2005, CTCP có quyền phát hành chứng
khoán các loại để huy động vốn. Cùng với phát cổ phiếu là cách huy động
vốn của chủ hữu, CTCP còn có quyền phát hành trái phiếu để vay vốn dài
hạn, trung hạn, đáp ứng cho nhu cầu về vốn kinh doanh có lúc vượt ngoài
khả năng tài chính của các cổ đông. Nhưng khác với cổ phiếu, trái phiếu chỉ
xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu trái phiếu được trả nợ
gốc và lãi suất được ấn định trong trái phiếu. Trái phiếu có đặc điểm là có
thời hạn do đáo hạn, có lãi suất cố định, tiền trả lãi không phụ thuộc vào việc
kinh doanh của công ty thành công hay khó khăn, đem lại cho người sở hữu
quyền ưu tiên phân chia lợi nhuận, và có thể tự do chuyển nhượng trên thị
trường chứng khoản nhưng chủ sở hữu trái phiếu không có quyền tham gia
biểu quyết các vấn đề của công ty.
Phát hành trái phiếu là hình thức huy động vốn bằng cách vay vốn,
theo đó CTCP phát hành một loại chứng chỉ trên thị trường với một mức lãi
suất cố định, đảm bảo thanh toán trong một thời gian xác định trong tương
lai. Người mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ của công ty, được hưởng một
mức lãi suất cố định và thanh toán khoản vay khi đáo hạn. Kết quả của việc
này sẽ làm tăng vốn vay của công ty.
Quy định của pháp luật về huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu:
Điều kiện phát hành trái phiếu của CTCP được quy định cụ thể tại
Khoản 2 Điều 12 Luật chứng khoán 2006 cũng tương tự như các điều kiện

để phát hành cổ phiếu, ngoài ra công ty còn phải cam kết thực hiện các nghĩa
vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh
toán và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư và các điều kiện
khác. cũng như phát hành cổ phiếu CTCP cũng phải lập hồ sơ nộp lên Ủy
ban chứng khoán nhà nước để được cấp giấy phép phát hành. Trong hồ sơ,
đáng chú ý có bản báo cáo bạch mà CTCP phải đưa ra, nội dung của báo cáo
bạch gồm các thông tin về cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty, hoạt động
kinh doanh, tài sản, tình hình tài chính, các báo cáo tài chính của công ty
trong hai năm gần nhất, các thông tin về đợt chào bán…Trong trường hợp
CTCP phát hành trái phiếu có đảm bảo thì phải nêu rõ tỉ lệ đảm bảo và liệt
kê chi tiết tài sản đảm bảo trong hồ sơ xin phép phát hành và có tài liệu hợp
lệ để chứng minh tài sản đảm bảo đó thuộc quyền sở hữu của mình hoặc của
người thứ 3 (trong trường hợp bảo lãnh) và có đủ giá trị thanh toán trái
phiếu.
7


Công ty phát hành trái phiếu chuyển đổi: phải nêu rõ điều khoản mua
hoặc chuyển đổi. Tỉ lệ chuyển đổi và phương pháp tính giá mua hoặc giá
chuyển đổi. Phương pháp đền bù thiệt hại trong trường hợp công ty phát
hành trái phiếu không phát hành được cổ phiếu để đáp ứng quyền mua hoặc
chuyển đổi và các điều kiện khác nếu có. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
nhận đủ hồ sơ, Ủy ban chứng khoán nhà nước phải cấp giấy phép phát hành
cho công ty, trong trường hợp không cấp phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu là phương thức huy
động vốn ưu việt cho những CTCP có dự án kinh doanh dài hạn, với mức lãi
suất thích hợp nhỏ hơn lãi suất mà công ty phải vay ngân hàng, nhưng lại
cao hơn mức lãi suất tiền giử tiết kiệm ngân hành để thu hút đầu tư. Điều
này vừa có lợi cho công ty phát hành, vừa có lợi cho nhà đầu tư do bỏ qua
được các chi phí trung gian. Mặt khác lời thế nữa của việc phát hành trái

phiếu là các cổ đông của công ty khong phải chia sẻ quyền điều hành công
ty cho người khác. Chi phí để có được vốn giữ một mức độ nhất định do đó
tính toán được và so với cổ tức là là một khoản không tính được nên huy
động vốn bằng phát hành trái phiếu sẽ rẻ hơn so với việc phát hành cổ phiếu.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu và cổ phiếu là hai hình
thức huy động vốn hiệu quả đối với CTCP, đặc biệt là các công ty lớn. Tuy
nhiên không phải CTCP nào cũng có khả năng hoặc đủ điều kiện để huy
động vốn bằng hai cách này do vậy CTCP còn có thể huy động vốn thông
qua hai hình thức nữa là tín dụng ngân hàng và tín dụng thue mua.
b)Huy động vốn thông qua tín dụng ngân hàng.
Huy động vốn thông qua tín dụng nhân hàng là một hình thức huy
động vốn phổ biến được các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng áp
dụng trên thực tế. Thông qua hình thức này, CTCP có thể có được các khoản
vay nhán hạn, trung hạn và dài hạn đáp ứng được nhu cầu của hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Việc huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng có nhiều
thuận lợi cho các công ty có uy tín, có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Bên
cạch đó cơ chế cho vay hiện nay đang tạo cho việc huy động vốn qua ngân
hàng có ưu điểm ưu việt hơn mà huy động bằng trái phiếu không có như khi
vay ngân hàng nếu đến hạn trả công ty chưa có khả năng trả nợ thì có thể xin
gia hạn nợ; trong khi nếu công ty phát hành trái phiếu thì phải có nghĩa vụ
hoàn trả các khoản lãi và gốc khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
Để huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty
phải đáp ứng được các điều kiện nhất định như có tình hình tài chính lành
mạnh, có phương án sử dụng vốn khả thi và có tài sản bảo đảm cho khoản
vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được bên thứ 3 bảo lãnh bằng tài
8


sản để đam bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng, trừ trường hợp

công ty được ngân hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Công ty
vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã
thỏa thuận; hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đún thời hạn đã thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng.
Có hai hình thức cho vay là vay có bảo đảm và vay không có bảo
đảm. Vay có bảo đảm thì CTCP phải cam kết trả nợ cho ngân hàng bằng tài
sản cầm cố, thế chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản hoặc bằng
chính tài sản được hình thành từ vốn vay. Khi vay vốn có biện pháp đảm bảo
bằng tài sản thì công ty và ngân hàng lập hợp đồng bảo đảm có chứng nhận
của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền. Việc kiểm tra tính hợp pháp và điều kiện của tài sản đản bảo
tiền vay do ngân hàng thực hiện. Còn cho vay không có bảo đảm thì CTCP
phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 20 nghị định 178/1999/NĐCP:
1.Khách hàng vay phải có đủ các điều kiện sau đây:
a)Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn
vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi;
b) Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả
thi, có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống
khả thi phù hợp với quy định của pháp luật;
c) Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ;
d) Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu
của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp
đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện
pháp bảo đảm bằng tài sản quy định tại điểm này.
2. Đối với khách hàng vay là doanh nghiệp, ngoài các điều kiện quy định tại
khoản 1 Điều này còn phải có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong hai
năm liền kế với thời điểm xem xét cho vay.
Việc huy động vốn qua tín dụng ngân hàng đòi hỏi công ty phải có tài
sản đảm bảo, có tín nhiệm với ngân hàng hoặc có năng lực tài chính đủ
mạnh thì mới được ngân hàng cho vay vốn. Điều này sẽ rất khó khăn đối với

các công ty vừa và nhỏ, năng lực tài chính còn yếu hoặc các công ty không
có tài sản để đảm bảo nếu có nhưng tài sản của họ không đủ để đảm bảo cho
số tiền dự định vay. Bên cạnh đó một số tài sản của công ty không đủ điều
kiện để thế chấp vay vốn ngân hàng như tài sản đã lạc hậu về công nghệ sản
xuất, quá cũ… nên không thể bán, chuyện nhượng dễ dàng trên thị trường
hoặc công ty chưa được cấp giấy chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng
hợp pháp đối với tài sản thế chấp. Hơn nữa đối với các công ty còn chưa
khảng định được uy tín của mình đối với ngân hàng trong quan hệ tín dụng
9


để vay vốn bằng tín chấp. Do vậy cần có một phương thức huy động vốn
bằng tín dụng thuê mua là một hình thức nữa giúp CTCP có thể huy động
vốn đầu tư mà không cần quá nhiều điều kiện như các hình thức huy động
vốn kia.
c) Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng thuê mua.
Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một
tài sản cụ thể. Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó tổ chức
tín dụng chuyển giao một khoản tiền còn cho thuê tài chính thì tổ chức tín
dụng lại chuyển giao cho khách hàng (bên thuê) một tài sản cụ thể như: máy
móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải… để bên thuê sử dụng trong
một thời gian nhất định.
Các hoạt động cho thuê tài chính phát triển ngày càng nhanh, nguyên
nhân thúc đẩy cho các hoạt động cho thuê tài chính phát triển nhanh là do nó
có tính chất an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả cho các bên giao dịch. Pháp luạt
Việt Nam hiện nay ghi nhaanjcho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng
trung và dài hạn, nhằm phù hợp với đặc điểm đối tượng cho thuê là những
động sản có giá trị, thời gian cần thiết để khấu hao thường từ một năm trở
lên.
Cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng

của chủ sở hữu (bên cho thuê) được chuyển giao hết cho bên thuê. Bên thuê
có quyền sử dụng và hưởng những lợi ích kinh tế mà tài sản thê mang lại
trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ
tài sản tương ứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này cho
thấy việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài sản chính không đòi hỏi
sự đảm bảo tài sản trước đó, tạo điều kiện cho công ty tiếp cận với hình thức
huy động vốn mới và giải tỏa được áp lực về tài sản đảm bảo nếu đi vay
ngân hàng. Loại hình thuê tài chính rất tích hợp với các công ty vừa và nhỏ
nhờ ưu điểm là không phải thế chấp tài sản như đi vay ngân hàng.
Các giao dịch cho thuê tài chính phải có một trong các dấu hiệu quy
định tại Khoản 2 Điều 1 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 được
sửa đổ bổ sung Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/05/2005 về tổ chức và
hoạt động của công ty cho thuê tài chính:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển
quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục sử dụng thuê theo thỏa thuận
của hai bên;
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền
ưu tiên mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài
sản thuê tại thời điểm mua lại;

10


- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian
cần thiết để khấu hao tài sản thuê;
- Tổng số tiền thuê tài sản theo thỏa thuận. Ít nhất phải tương đương
với giá trị của tài sản đó tại thời điểm kí hợp đồng.
Có nhiều cách phân loại phương thức cho thuê tài chính nhưng để làm
nổi bật bản chất tín dụng, hoạt động cho thuê tài chính được phân loại thành:
cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản và có hoàn lại tài sản.

Huy động vốn thông qua tín dụng thuê mua là một hình thức huy động
vốn mà CTCP có thể áp dụng vì trên thực tế không phải công ty nào cũng có
đủ điều kiện để phát hành cổ phiếu, trái phiếu và tiếp cận với nguồn vốn từ
ngân hàng. Không chỉ đối với CTCP mà nhiều doanh ngiệp khác nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì huy động vốn thông qua tín dụng thuê mua sẽ
là phương thức huy động vốn hiệu quả, đơn giản và hợp lý nhất. Tuy mỗi
hình thức huy động vốn sẽ có những ưu điển và nhực điểm khác nhau,
nhưng điều quan trọng là nó làm tăng vốn của công ty để có thê đầu tư sản
xuất và kinh doanh thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
III/ Đánh giá về các quy định của pháp luật về huy động vốn trong
công ty cổ phần.
1. Huy động vốn bằng cách tăng vốn chủ sở hữu.
Mặc dù cacsquy định của pháp luật về huy động vốn chủ sở hữu đã có
nhiều tiến bộ, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nhưng bên cạnh đó vẫn có
những hạn chế không tránh khỏi:
Khoản 1 Điều 85 LDN 2005 quy định một trong những nội dung chủ
yếu mà cổ phiếu phải có là “mệnh giá cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần
ghi trên cổ phiếu” nghĩa là cổ phiếu bắt buộc phải có mệnh giá. Có thể hiểu
mệnh giá là cách thức góp vốn, cũng là cơ sở để cho chủ nợ nhìn vào để đòi
nợ và chỉ có ý nghĩa khi CTCP phát hành cổ phiếu lần đầu. Cổ phiếu khi
được bán trên thị trường có thể có một giá cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá.
Như vậu là có sự tách bạch giữa mệnh giá với giá thị trường nhưng tính chất
bình đẳng của việc góp vốn vẫn được duy trì, bởi giữ những người mua với
nhau không có gì khác biệt. Vì vậy để việc định giá cổ phiếu liệu có cần
thiết không? ở nhiều nước trên thế giới hiện nay thường các công ti phát
hành cổ phiếu có mệnh bằng không, đơn giản là vì việc này không cần thiết
và họ còn bị đánh thuế theo giá cổ phiếu vì vậy để tránh bị đánh thuế họ đã
phát hành cổ phiếu có mệnh giá bằng không.
Ngoài ra, chúng ta nên đa dạng hóa các loại cổ phiếu ưu đãi để tạo nên
sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư bỏ tiền vào. Như ở một số nước khác nhau

trong khu vực ASIAN họ đưa ra rất nhiều cổ phiếu ưu đãi như: cổ phiếu ưu
11


đãi dồn phiếu, cổ phiếu ưu đãi dự phần chia cổ tức, cổ phiếu ưu đãi mua lại,
cổ phiếu ưu đãi phức hợp, cổ phiếu ưu đãi để chống…
2. Các quy định về việc huy động vốn bằng các hình thức tín dụng.
a) Phát hành trái phiếu:
Cũng giống như cổ phiếu, chúng ta cũng nên đa dạng hóa các loại trái
phiếu khác nhau để thu hút các nhà đầu tư. Có thể đưa thêm một số loiaj trái
phiếu khác như: trái phiếu không trả lãi, trái phiếu lãi theo thu nhập…
b) Tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn phổ biến không chỉ
CTCP mà còn là hình thức huy động vốn của rất nhiều loại doanh nghiệp
khác, nhưng thủ tục cho vay rất phức tạp và đòi hỏi quá nhiều điều kiện mà
không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng được để vay dễ dàng hơn.
Hơn nữa khi vay thì khoản vay thường lớn nên lãi suất cao, đồng nghĩa với
việc doanh nghiệp phải chịu áp lực trả lãi và thời hạn trả.
c) Tín dụng thuê mua:
Mặc dù đây là hình thức huy động vốn khá phổ biến trên thế giới và
có nhiều lợi thế cạnh tranh nhưng thực tiễn các doanh nghiệp Việt Nam
không mây quan tâm đến loiaj hình này, nguyên nhân có thể là do sự hiểu
biết về loại hình cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế, hoạt
động quảng bá dịch vụ còn yếu và giá cho thuê còn cao và nhiều khi nếu tính
ra thì có khi lãi suất thuê tài chính còn cao hơn cả lãi suất khi đi vay ngân
hàng, bởi vì lãi suất khi đi thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về
lắp đặt, vận hành, bảo hiểm… của bên cho thuê phải bỏ ra.
Một nguyên nhân rát đáng được quan tâm là hành lang pháp lý về cho
thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật
hóa. Các quy định về chủ sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ… trong

các văn bản có nhiều vấn đề phải bàn. Luật các tổ chức tín dụng và các văn
bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để
các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với
tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho
thuê tối đa… gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính.
Vì vậy phải từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động
liên quan đến dịch vụ cho thuê tài chính trong Luạt tổ chức tín dụng và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại số 16/2001/NĐ-CP đối tượng
tài sản để cho thuê là các động sản, đây là một trong những bất cập cần được
sửa đổi.

12


Kết luận
Tóm lại, CTCP hiện nay đang ngày càng thu hút được nhiều nha đầu
tư góp vốn xây dựng sản xuất kinh doanh, bở những ưu điểm về khả năng
huy động vốn linh hoạt. Nhưng công ty cần phải xây dựng cho mình các
phương thức huy động vốn thích hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Bên cạnh đó để nhưng quy định về huy động vốn của CTCP đi vào
thực tế cuộc sống và phát huy hiệu quả cũng đòi hỏi sự hỗ trợ rất nhiều mặt
cũng nhue những hướng dẫn cụ thể từ phía Nhà nước.

13


Danh mc ti liu tham kho
1. Trờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thơng mại (tập
1 và tập 2), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
2. Luật doanh nghiệp năm 2005.

3. />4. />
14


MỤC LỤC

15



×