Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tìm hiểu những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.35 KB, 17 trang )

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thương mại 2005.
2. Luật Trọng tài thương mại 2010.
3. Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.
4. Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế.
5.Trần Bảo Yến, Những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Khóa
luận tốt nghiệp.
6. www.viac.org.vn.
7. />ItemID=2775


MỤC LỤC
Mở đầu
1. Trọng tài thương mại – phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
1.1. Khái niệm
1.2. Ưu điểm
2. Sự cần thiết phải ban hành Luật Trọng tài thương mại
3. Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003
3.1. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài
3.2. Về thỏa thuận trọng tài
3.3. Về trọng tài viên và tiêu chuẩn trọng tài viên
3.4. Về trọng tài qui chế
3.5. Về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
3.6. Về qui định mất quyền phản đối
3.7. Về quyền của người tiêu dùng
3.8. Về mối quan hệ giữa trọng tài và Tòa án
3.9. Về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
3.10. Về thời hiệu khởi kiện
4. Đánh giá những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại
Kết luận


Tài liệu thạm khảo

1
1
1
3
4
4
5
8
9
9
11
12
12
13
14
14
15

MỞ ĐẦU
Hiện nay, đất nước ta đang nỗ lực xây dựng nền kinh tế thị trường, hội nhập
kinh tế quốc tế. Các chủ thể kinh doanh lớn mạnh cả về chất và lượng, các hoạt động
thương mại ngày càng phong phú và đa dạng; và đương nhiên những xung đột về lợi
ích xảy ra, những tranh chấp thương mại phát sinh là điều không thể tránh khỏi. Do
vậy, việc nghiên cứu các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại là cần thiết
trong bối cảnh hiện nay, và cần thiết hơn khi Trọng tài thương mại vẫn còn là phương


thức giải quyết tranh chấp khá mới mẻ ở Việt Nam. Xuất phát từ yêu cầu đó, nhóm

em xin chọn đề tài: “Tìm hiểu những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương
mại 2010 so với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003”.
1. Trọng tài thương mại – phương thức giải quyết tranh chấp thương mại.
1.1. Khái niệm.
Trọng tài thương mại (TTTM) là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự,
thủ tục tố tụng do Pháp luật quy định, giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của
trọng tài viên tồn tại dưới hai hình thức trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng
tài qui chế (trọng tài thường trực) với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt
xung đột trong quá trình tiến hành các hoạt động thương mại bằng việc đưa ra một
phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Về bản chất, phương thức TTTM
là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán, điều này được cụ thể hóa qua
những đặc điểm sau:
- Nhân danh ý chí các bên, không nhân danh quyền lực tư pháp của Nhà nước.
- Trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và
có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên tranh chấp.
- Thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản, mềm dẻo, linh hoạt và không công khai.
1.2. Ưu điểm.
- Nhanh chóng: Theo thủ tục tố trụng trọng tài, thời gian thụ lý giải quyết tranh
chấp chỉ thu gọn trong vài tháng. Ở đây không có quá trình điều tra, xác minh mà tự
các bên liên quan phải cung cấp đầy đủ căn cứ, tài liệu theo luật định cho Trung tâm
trọng tài. Hội đồng trọng tài sẽ dựa trên những chứng cứ đó và các bộ luật để phân
tích, đánh giá, phán quyết. Khi cần yêu cầu bổ sung thêm tài liệu, hồ sơ, Trung tâm
trọng tài sẽ thông báo cụ thể đến bên liên quan và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các
bên thực hiện nhiệm vụ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
- Sâu về chuyên môn: Các trọng tài viên của một Trung tâm trọng tài bao gồm
hai nhóm: nhóm chuyên gia và nhóm luật sư. Nhóm đầu là những chuyên gia đầu
ngành của nhiều lĩnh vực được Trung tâm mời làm trọng tài viên tham gia xử các vụ



việc có liên quan đến chuyên ngành mà chuyên gia đang làm việc và có nhiều kinh
nghiệm. Vì vậy, cùng với các luật sư trong hội đồng trọng tài, các khía cạnh chuyên
môn được mổ xẻ, phân tích một cách khoa học, khách quan và nhanh chóng. Đây là
một trong các ưu điểm nổi trội của phương pháp này.
- Hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực: Trong một vụ tranh chấp, dù là nguyên
đơn hay bị đơn, một khi đã ra toà thì uy tín của thương hiệu ít nhiều giảm sút nơi
khách hàng. Ảnh hưởng đó mờ nhạt hơn khi giải quyết bằng con đường trọng tài.
Trong thời đại Internet thì mọi thông tin đều có khả năng lan truyền rất nhanh và rất
rộng vì thế giữ vững uy tín và thương hiệu luôn luôn là phương châm phát triển bền
vững của các doanh nghiệp.
- Phán quyết trọng tài là chung thẩm: Khi hội đồng trọng tài đã ra phán quyết
thì phán quyết đó là chung thẩm, được pháp luật bảo hộ thi hành. Ở toà án có nhiều
cấp hơn là sơ thẩm, phúc thẩm và chung thẩm vì thế phức tạp hơn và cũng kéo dài
hơn.
- Sự công nhận quốc tế: Phán quyết trọng tài được công nhận rộng rãi:cho đến
nay đã có nhiều Công ước quốc tế về trọng tài thương mại được ký kết và phê
chuẩn bởi nhiều quốc gia như Công ước New York 1958, Công ước
Washington 1965, Công ước Liên Mỹ về trọng tài thương mại quốc tế;do đó, các
phán quyết của trọng tài được công nhận rộng rãi hơn và dễ thực thi hơn so với
các phán quyết ở tòa án.
Với những ưu điểm nổi trội như vậy, giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài là xu thế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Điều này tạo nên thách thức
cho các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam phải làm sao xây dựng được
khung pháp lí phù hợp, cần thiết để cụ thể hóa những lợi thế vốn có của TTTM, đáp
ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp ngày càng phức tạp.
2. Sự cần thiết phải ban hành Luật TTTM.
Để đáp ứng nhu cầu của hoạt động trọng tài trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, ngày
25/02/2003, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương



mại (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2003) tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các
Trung tâm Trọng tài thương mại trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, qua hơn sáu năm thực hiện, Pháp lệnh này đã bộc lộ không ít những hạn chế
và bất cập như: Phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; chủ thể của
các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài; giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài;
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; việc triệu tập nhân chứng; vấn đề xem xét
thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; việc hủy quyết định trọng tài;
cách tính thời hiệu khởi kiện v.v…
Theo thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VIAC), trong năm 2007 TAND Thành phố Hà nội đã xử gần
9.000 vụ án trong đó có khoảng 300 vụ tranh chấp kinh tế và TAND Tp. Hồ Chí Minh
xử gần 42.000 vụ án, trong đó có 1000 vụ tranh chấp kinh tế thì VIAC với tư cách là
tổ chức trọng tài lớn nhất Việt Nam cũng chỉ tiếp nhận 30 vụ tranh chấp trong năm
2007 và 58 vụ trong năm 2008. Trong khi mỗi thẩm phán ở Toà kinh tế Hà Nội phải
xử trên 30 vụ một năm, ở Toà kinh tế Tp. Hồ Chí Minh xử 50 vụ một năm thì mỗi
trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0,25 vụ một năm.
Để lí giải cho thực trạng trên, các trung tâm trọng tài và trọng tài viên cho rằng,
có rất nhiều lý do dẫn đến việc trọng tài ít được nhớ đến trong các vụ tranh chấp
thương mại. Trong đó có 3 lý do được nói đến nhiều nhất đó là hiệu lực thi hành của
quyết định trọng tài thấp (61,4%), nhiều người chưa tin tưởng phương thức này
(68,6%), và có rất nhiều người chưa biết đến phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại thông qua trọng tài (74,3%).
Từ thực tế này, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh TTTM)
vẫn chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện chủ trương của Nhà nước
khuyến khích các bên sử dụng Trọng tài trong giải quyết các tranh chấp thương mại
và các tranh chấp khác. Cần phải ban hành một đạo luật mới về trọng tài thương mại Luật Trọng tài thương mại để thay thế Pháp lệnh TTTM trên cơ sở kế thừa những chế
định tiến bộ, phù hợp kết hợp với những quy định mới, hoàn chỉnh hơn.



3. Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại 2010 so với
Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
Xuất phát từ nhu cầu bức thiết trên, ngày 17/6/2010, Luật Trọng tài thương mại
(Luật TTTM) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011 đã được Quốc hội khóa XII
kỳ họp thứ 7 thông qua, thay thế cho Pháp lệnh TTTM. Đây là một tín hiệu đáng
mừng đối với hoạt động trọng tài thương mại các tổ chức trọng tài ở Việt Nam. Luật
TTTM 2010 ra đời đã khắc phục được những thiếu sót của Pháp lệnh TTTM 2003,
kịp thời bổ sung những qui định phù hợp với xu hướng quốc tế khuyến khích sử dụng
TTTM trong giải quyết tranh chấp.
3.1. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM.
Nếu như Pháp lệnh TTTM 2003 trong qui định về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của TTTM bị giới hạn chỉ là các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương
mại giữa các bên là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh với nhau. Theo đó,
hoạt động thương mại bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại
diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật;
li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng
hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các
hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật (Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh
TTTM).Với cách liệt kê như trên, sẽ dễ dàng trong việc nhìn ra những tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết của TTTM nhưng lại không dự liệu được hết các trường
hợp tranh chấp xảy ra trong thực tế. Ví dụ: Tranh chấp liên quan đến góp vốn, mua
bán cổ phiếu có thuộc phạm vi thẩm quyền của TTTM hay không?
Với cách qui định không rõ ràng, không bao quát như vậy, Luật TTTM đã dỡ
bỏ hạn chế trên thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của TTTM. Điều 2 Luật
TTTM, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài gồm: (1) Tranh chấp giữa
các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (2) Tranh chấp phát sinh giữa các bên
trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (3) Tranh chấp khác giữa các bên
mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.



Như vậy, theo Luật TTTM, luật không có giới hạn về phạm vi chủ thể tranh
chấp. Tổ chức, cá nhân bất kỳ đều có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết
tranh chấp miễn là lĩnh vực tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại hoặc những
tranh chấp khác mà trong tương lai pháp luật có thể qui định đều có thể thỏa thuận
giải quyết bằng TTTM. Các tranh chấp khác này có thể là: các tranh chấp về sở hữu
trí tuệ, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…
Sự cải tiến này là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM
so với Pháp lệnh TTTM, là rất cần thiết vì nó sẽ giúp giảm gánh nặng xét xử cho Tòa
án, bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự,
Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thương mại, và các luật chuyên ngành khác, phù hợp
với xu thế chung của Pháp luật các nước và Luật mẫu về Trọng tài. Ví dụ: Luật Trọng
tài Đức: “Bất kì khiếu nại nào có liên quan đến một lợi ích kinh tế đều có thể là đối
tượng của thỏa thuận trọng tài, trọng tài có quyền giải quyết ngoại trừ tranh chấp về
hoạt động thuê nhà trên lãnh thổ Đức thì trọng tài không có quyền giải quyết”.
3.2. Về thỏa thuận trọng tài.
 Về hình thức của thỏa thuận trọng tài.
Điều 9 Khoản 1 Pháp lệnh TTTM: “Thỏa thuận trọng tài phải được lập bằng
văn bản. Thỏa thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc
hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng
trọng tài được coi là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản”. Quy định trên đã xác định
được tiêu chí hình thức bắt buộc đó là Thỏa thuận trọng tài phải được lập bằng văn
bản. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm “văn bản” vẫn còn hẹp so với Luật mẫu về
trọng tài và luật trọng tài các nước. Sự không tương thích này có thể dẫn tới việc cùng
một vụ việc cùng một thỏa thuận trọng tài nhưng trọng tài nước ngoài lại có thể giải
quyết tranh chấp trong khi đó trọng tài nước ta lại không thể giải quyết. Điều này sẽ
phần nào cản trở quá trình hội nhập quốc tế của nước ta.
Xuất phát từ hạn chế đó, Luật TTTM đã mở rộng nội hàm của khái niệm “văn
bản” hơn nhiều, bổ sung nhiều hình thức được coi là thỏa thuận bằng văn bản như:
bằng telegram, thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền



ghi chép lại bằng văn bản, các hình thức trao đổi về đơn kiện và bản biện hộ mà trong
đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phản đối,
điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác. Như vậy, với qui định này, Luật
TTTM đã có bước tiến đáng kể trong việc xác lập hình thức thỏa thuận trọng tài phù
hợp với Luật mẫu về trọng tài cũng như luật trọng tài các nước phát triển, mở rộng
phạm vi thỏa thuận cho các chủ thể đảm bảo quyền tự do thỏa thuận mà pháp luật đã
khẳng định.
 Về thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Là trường hợp các bên thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
nhưng thỏa thuận đó không được công nhận hiệu lực.Theo đó, Điều 18 của Luật
TTTM giới hạn 6 tình huống thoả thuận trọng tài bị coi là vô hiệu gồm:
- Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng
tài theo quy định tại Điều 2 của Luật này.
- Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
- Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự.
- Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16
của Luật này.
- Một trong các bên bị lừa dối, bị đe doạ, bị cưỡng ép trong quá trình xác lập
thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Như vậy, Luật Trọng tài thương mại có những quy định cụ thể và rõ ràng hơn
so với những quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Đặc biệt
Luật đã bỏ quy định về việc thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi không chỉ rõ tên tổ chức
trọng tài có thẩm quyền giải quyết. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thỏa thuận trọng tài
không rõ ràng, Luật cho phép các bên có quyền thỏa thuận lại. Trong trường hợp
không thỏa thuận được thì bên khởi kiện (Nguyên đơn) có quyền được tự do lựa chọn

tổ chức trọng tài mà mình cho là phù hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích


hợp pháp của mình (Khoản 5 Điều 43). Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt
tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải
quyết tranh chấp.
 Bổ sung trường hợp thỏa thuận trọng tài không thực hiện được.
Được hiểu là những thỏa thuận trọng tài thỏa mãn tất cả các điều kiện về nội
dung, chủ thể kí kết, hình thức, phạm vi tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài
nhưng lại không thể tiến hành giải quyết bằng trọng tài được. Ví dụ, có một số điều
khoản trọng tài quy định: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải
quyết trước tiên tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam sau đó sẽ được giải quyết
chung thẩm tại Tòa án”; hoặc “Tranh chấp nếu có sẽ được giải quyết tại Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam và Tòa án Trọng tài Quốc tế ICC”
Những điều khoản trọng tài này không thể thực hiện được trong thực tiễn bởi
thỏa thuận có sự mâu thuẫn. Vậy vấn đề này sẽ được giải quyết như thế nào? Các bên
sẽ đưa tranh chấp ra cơ quan nào để giải quyết? Điều này thì Pháp lệnh TTTM không
hề đề cập. Từ thiếu sót đó, Luật TTTM đã qui định: “Trong trường hợp các bên tranh
chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ
chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài
không thể thực hiện được” (Điều 6).
Đây là một điểm mới cơ bản của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM, hoàn
toàn phù hợp với pháp luật quốc tế và luật trọng tài các nước. Chẳng hạn, Khoản 1
Điều 8 Luật mẫu về trọng tài quy định “Tòa án, nơi có khiếu kiện về vấn đề đối tượng
của thỏa thuận được đưa ra, nếu một bên yêu cầu không muộn hơn thời gian khi nộp
bản giải trình đầu tiên của mình về nội dung tranh chấp, sẽ chuyển tranh chấp ra
trọng tài trừ khi thấy rằng thỏa thuận trọng tài vô hiệu, không có hiệu lực hoặc
không thể thực hiện được”. Điều II Công ước New York 1958 quy định “Tòa án của
một quốc gia thành viên, khi nhận được một đơn kiện về một vấn đề mà vấn đề đó các
bên đã có thỏa thuận theo nội dung của điều này, sẽ, theo yêu cầu của một bên, đưa

các bên ra trọng tài , trừ khi Tòa án thấy rằng thỏa thuận nói trên không có hiệu lực
hoặc không thể thực hiện được”


3.3. Về trọng tài viên và tiêu chuẩn trọng tài viên.
Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Luật Trọng tài thương mại
2010 vẫn có các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình
thành ở nước ta một đội ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên
nghiệp, có chuyên môn và uy tín xã hội. Theo đó cá nhân có năng lực hành vi dân sự,
có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là
Trọng tài viên (theo Điểm a và Điểm b Khoản 1 Điều 20 Luật TTTM). Đặc biệt, để
tạo điều kiện cho các bên tranh chấp có thể lựa chọn Trọng tài viên phù hợp nhất để
giải quyết vụ tranh chấp đòi hỏi chuyên môn sâu, Luật có quy định mở đó là trong
trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu của quy định tại điểm b cũng có thể được
chọn làm Trọng tài viên (theo Điểm c Khoản 1 Điều 20 Luật Trọng tài thương mại).
Quy định này đã tạo điều kiện cho các bên đương sự có thể lựa chọn dựa trên niềm tin
của họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của nhà chuyên môn
nào đó và trong trường hợp đó thì nhà chuyên môn này cũng có thể được các bên
chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ.
Điểm mới tiếp theo, Luật Trọng tài thương mại không yêu cầu Trọng tài viên
phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được
chỉ định làm Trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài
tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng
cường hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thay đổi trọng tài viên, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM qui định thêm
một căn cứ: “Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước
khi đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên
chấp thuận bằng văn bản”(Điểm d khoản 1 điều 42).Qui định này là cần thiết, bởi lẽ
chính mối quan hệ trước đó của trọng tài viên đối với một bên tranh chấp trong cùng

một vụ việc cũng ảnh hưởng đến tính vô tư, khách quan của trọng tài viên trong quá
trình ra phán quyết trọng tài.
3.4. Về trọng tài qui chế.


Đầu tiên, Luật TTTM đã đưa ra định nghĩa pháp lí về trọng tài qui chế thay cho
khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại trung tâm trọng tài” do Pháp lệnh
TTTM qui định. Cụ thể, Điều 3 Luật TTTM: “Trọng tài quy chế là hình thức giải
quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của Luật này và quy tắc
tố tụng của Trung tâm trọng tài đó”
Luật TTTM cũng bổ sung quy định về quy tắc tố tụng trọng tài, theo đó, các
Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với quy định của
Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các
bên tranh chấp (khoản 1 Điều 28). Các Trung tâm trọng tài nước ngoài cũng được
phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt
Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Luật đã dành toàn bộ
chương XII để quy định về chức năng, các điều kiện và phạm vi hoạt động của các
Trung tâm Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Đây là bước chuẩn bị và là sự hỗ trợ
kịp thời để hoạt động của Trọng tài ở Việt Nam hội nhập với quốc tế. Đồng thời, điều
này cũng mang lại sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trung tâm trọng tài và tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp có nhiều lựa chọn hơn khi cần tới sự trợ giúp từ các Trung
tâm trọng tài.
3.5. Về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
 Về thu thập chứng cứ.
Theo Khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh TTTM 2003, Hội đồng trọng tài có thể thu
thập chứng cứ, mời giám định theo yêu cầu của một bên hoặc các bên nhưng chỉ
trong những trường hợp cần thiết và phải thông báo cho các bên biết. Ngoài ra, Hội
đồng trọng tài chỉ có quyền yêu cầu đối với các đương sự mà không có quyền yêu cầu
đối với người thứ ba với vai trò là người làm chứng hay người lưu giữ chứng cứ. Điều
này làm hạn chế khả năng ra phán quyết của Hội đồng trọng tài, tính chính xác của

phán quyết, kéo dài thời gian xử án.
Khắc phục điều này, thẩm quyền về thu thập chứng cứ của Hội đồng trọng tài
được nâng lên đáng kể, khi khoản 5 Điều 46 Luật TTTM đã có qui định cụ thể về sự
hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài trong việc thu thập chứng cứ. Theo đó, trường hợp


Hội đồng trọng tài đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn
không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án thu thập.
Đây là qui định vô cùng cần thiết, bởi lẽ, hiện nay ở nước ta ngoài Tòa án ra,
việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là cơ quan Nhà nước cung cấp giấy tờ tài
liệu là rất khó khăn. Qui định này là bước phát triển vượt bậc của Luật TTTM so với
Pháp lệnh TTTM phù hợp với tinh thần của pháp luật quốc tế. Cụ thể, Điều 27 Luật
mẫu về trọng tài: “Hội đồng trọng tài hoặc một bên với sự đồng ý của hội đồng trọng
tài có thể yêu cầu toà án có thẩm quyền của nước này trợ giúp thu thập chứng cứ.
Toà án có thể thực hiện yêu cầu đó trong phạm vi thẩm quyền của mình và theo
nguyên tắc về thu thập chứng cứ.”
 Về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo Điều 33 Pháp lệnh TTTM, Hội đồng trọng tài không thể tự mình áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà chỉ có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền áp
dụng. Qui định này đã hạn chế tính linh hoạt của quá trình giải quyết, kéo dài thời
gian xử án vì phải thông qua cơ quan trung gian, và rất có thể, lợi dụng khoàng thời
gian này bên bất lợi hoàn toàn có thể tẩu tán tài sản, tiêu hủy chứng cứ, làm sai lệch
tài liệu ảnh hưởng đến tính chất của vụ việc, hạn chế phán quyết trọng tài.
Về vấn đề này, Luật TTTM có tư duy hoàn toàn khác biệt so với Pháp lệnh
TTTM, cho phép Hội đồng trọng tài trong phạm vi khả năng của mình có thể tự áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu của một trong các bên tranh
chấp. Điều 49 Luật TTTM, các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Hội đồng trọng tài có
thể áp dụng là:
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
- Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành

vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng
trọng tài;
- Kê biên tài sản đang tranh chấp;
- Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc
các bên tranh chấp;


- Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
- Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
Sự cải tiến này của Luật TTTM là hết sức phù hợp, giúp quá trình giải quyết
vận hành hiệu quả, linh hoạt hơn, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tranh chấp, đặc
biệt đối với loại tranh chấp có liên quan đến tài sản, hàng hóa mau hỏng, nếu chờ các
thủ tục tại Tòa án thì sẽ không kịp thời, dẫn đến những tổn thất không đáng có.
Bên cạnh đó, Luật TTTM còn qui định chế tài bồi thường hại đối với bên đưa
ra yêu cầu và Hội đồng trọng tài khi thực hiện yêu cầu (Khoản 5 Điều 49 và Điều 52).
Đây là qui định mới và cần thiết vì thông qua trách nhiệm bồi thường thiệt hại, sẽ hạn
chế được sự tùy tiện, lạm quyền, nâng cao tinh thần trách nhiệm của Hội đồng trọng
tài, cũng như các bên tranh chấp trong quá trình giải quyết tranh chấp.
3.6. Về qui định mất quyền phản đối.
Điều 13 Luật TTTM: “Trong trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy
định của Luật này hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng
trọng tài và không phản đối những vi phạm trong thời hạn do Luật này quy định thì
mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Tòa án”
Đây là một trong những điểm mới của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM,
trên cơ sở tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng – một nguyên tắc
rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng các nước phát triển. Có
thể hiểu, trong quá trình giải quyết tranh chấp, khi trọng tài có dấu hiệu vi phạm qui
định cả Luật trọng tài và các thỏa thuận liên quan, một hoặc các bên phát hiện ra
nhưng không phản đối mà sau khi có quyết định của Hội đồng trọng tài họ lại phản
đối thì việc phản đối sau sẽ vô hiệu.

Qui định này là cần thiết, để bảo vệ quyền lợi của các bên tranh chấp, cũng như
nhắc nhở các bên phải chủ động, kịp thời phát hiện các vi phạm tố tụng trọng tài để
xử lí kịp thời, đồng thời ngăn chặn một cách có hiệu quả hành vi cơ hội trong tố tụng
trọng tài. Ngoài ra, điểm mới này của Luật TTTM cũng phù hợp với qui định “Khước
từ quyền phản đối” trong Luật mẫu về trọng tài: “Khi một bên biết rằng bất kì điều
khoản của Luật này có thể bị các bên làm tổn hại, hoặc bất kì yêu cầu nào theo thoả


thuận trọng tài chưa được tuân thủ và vẫn tiếp tục tiến hành trọng tài mà không
tuyên bố sự phản đối của mình về những việc không chấp hành đó trong thời hạn cho
phép thì sẽ xem như đã từ bỏ quyền phản đối của mình”
3.7. Về quyền của người tiêu dùng.
Đây là điểm mới đáng chú ý Luật TTTM, luật đã bổ sung quy định nhằm bảo
vệ người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó
Điều 17: “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu
dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về
cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người
tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp.
Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được
người tiêu dùng chấp thuận”. Quy định này thể hiện rõ thái độ bảo vệ người tiêu
dùng trong trường hợp người tiêu dùng bị đặt vào thế bị động trong các giao dịch dựa
trên những hợp đồng in sẵn từ phía nhà cung cấp dịch vụ, đồng thời nó cũng là biện
pháp để hạn chế những phương thức giải quyết tranh chấp không có lợi cho khách
hàng thường hay bị người cung cấp dịch vụ cài sẵn trong các hợp đồng và ép buộc
bên sử dụng dịch vụ phải chấp nhận.
3.8. Về mối quan hệ giữa trọng tài và Tòa án.
So với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM là đã xác định rõ nét, qui định cụ thể mối
quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của
các bên. Theo đó, thẩm quyền của Tòa án được ghi nhận tại Điều 7 Luật TTTM và
liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu

thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận
trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu
huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác
liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã
khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và


Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các
trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động hiệu quả.
3.9. Về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Theo qui định tại Điều 53, Điều 55 Pháp lệnh TTTM thì thủ tục này sẽ có sự
tham gia của Tòa án nhiều cấp khác nhau, của Viện kiểm sát, các bên có quyền kháng
cáo quyết định của Tòa án. Đây là điều không cần thiết, làm giảm tính linh hoạt, gây
rắc rối, mất thời gian, tốn chi phí giải quyết. Bên cạnh đó, việc qui định bên yêu cầu
chỉ cần nộp đơn yêu cầu mà không kèm theo tài liệu chứng minh, rất có thể bên thua
kiện lợi dụng qui định này để cố tình trì hoãn, kéo dài thời gian phải thi hành phán
quyết trọng tài.
Khắc phục hạn chế này, thủ tục tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật quy định một Hội
đồng gồm 03 thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và quyết định
của Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù hợp (Điều 71). Bởi lẽ,
đây không phải là việc Tòa án xem xét lại nội dung vụ tranh chấp mà chỉ là việc Tòa
án kiểm tra, đối chiếu phán quyết trọng tài có thuộc các căn cứ để hủy phán quyết mà
luật đã qui định hay không.
Tiếp đó, để thực hiện quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thì bên yêu cầu
phải có đủ căn cứ chứng minh và đơn yêu cầu phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp (Điều 69).
Như vậy, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM đã thắt chặt, hạn chế quyền yêu cầu
hủy phán quyết của các bên tranh chấp hơn, điều này là cần thiết để hạn chế tình trạng

tùy tiện, lợi dụng quyền năng này trì hoãn thời gian thi hành phán quyết trọng tài.
3.10. Về thời hiệu khởi kiện.
Điều 33 Luật TTTM: “Trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác,
thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm”
So sánh với Pháp lệnh TTTM, khoản 2 Điều 21: “Đối với vụ tranh chấp mà
pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ


tranh chấp bằng trọng tài là hai năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp”. Theo qui định
này thì, thời điểm bắt đầu tính để xác định thời hiệu là “ngày xảy ra tranh chấp”. Trên
thực tế, thời điểm xảy ra tranh chấp này rất khó xác định, gây lúng túng cho cơ quan
tố tụng. Hơn thế nữa, qui định này của Pháp lệnh TTTM không tương đồng với các
luật chuyên nghành như Luật Thương mại 2005, Bộ Luật tố tụng dân sự. Chẳng hạn,
Điều 319 Luật thương mại 2005: “Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh
chấp thương mại là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm”
Như vậy, điểm mới của Luật TTTM là xác định thời điểm tính thời hiệu là thời
điểm “quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm” thay cho thời điểm “xảy ra tranh
chấp” trong Pháp lệnh TTTM. Đây là thay đổi cần thiết để phù hợp với thực tế cũng
như đảm bảo sự tương đồng với các luật chuyên nghành, một nguyên tắc căn bản
trong xây dựng pháp luật.
4. Đánh giá những quy định mới của Luật TTTM.
Luật TTTM ra đời là lời khẳng định cho chủ trương khuyến khích sử dụng
trọng tài giải quyết tranh chấp của Đảng và Nhà nước ta. Khắc phục những hạn chế,
thiếu sót của Pháp lệnh TTTM, những điểm mới của Luật TTTM là một sự thay đổi
tích cực, hoàn toàn phù hợp với đời sống kinh tế cũng như con đường hội nhập quốc
tế của nước ta. Có thể chỉ ra tính đúng đắn của sự thay đổi này qua một vài nhận định
sau:
Thứ nhất, việc mở rộng phạm vi chủ thể tranh chấp, phạm vi thẩm quyền của

TTTM để đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh doanh, các thể nhân và pháp nhân
dân sự muốn giải quyết vụ việc của mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu
quả, vốn là ưu điểm của TTTM. Hơn thế nữa, điểm mới này còn góp phần làm giảm
tải hoạt động xét xử của Toà án, giảm áp lực cho Thẩm phán.
Thứ hai, Hội đồng trọng tài được phép áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời, các biện pháp thu thập chứng cứ, hạn chế trường hợp quyết định của Hội đồng
trọng tài bị Tòa tuyên hủy. Chính điểm mới này đã đảm bảo quá trình trọng tài được
diễn ra nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả hơn, quyền năng của các Hội đồng trọng tài


nâng cao hơn, vị thế của trọng tài vững chắc hơn. Đây là cơ sở để TTTM trở thành
công cụ giải quyết tranh chấp hiệu quả, phù hợp với xu hướng khuyến khích sử
dụng trọng tài trong giải quyết các loại tranh chấp ở các nước trên thế giới.
Thứ ba, so với Pháp lệnh TTTM những điểm mới của Luật TTTM về thỏa
thuận TTTM, thẩm quyền của TTTM, Hội đồng trọng tài, qui định mất quyền phản
đối… đã tiến gần hơn tới các chuẩn mực quốc tế, và phù hợp hơn pháp luật các quốc
gia khác. Điều này, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoàn cảnh đất nước trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Theo đó, pháp luật nước ta
cũng phải hòa cùng dòng chảy của quốc tế, các qui định của pháp luật cũng phải phù
hợp với pháp luật quốc tế cũng như pháp luật các nước.
Thứ tư, đảm bảo và tôn trọng hơn quyền tự do thỏa thuận của các bên tranh
chấp thông qua việc cho phép các bên được quyết định thủ tục xét xử, lựa chọn hình
thức trọng tài, lựa chọn trọng tài viên… và đặc biệt Luật đã hạn chế hơn các trường
hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
KẾT LUẬN
Trên đây là những điểm mới cơ bản của Luật TTTM 2010 so với Pháp lệnh
TTTM 2003. Với các qui định rõ ràng và cụ thể như vậy, Luật đã khẳng định rằng
khung pháp luật về trọng tài của Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, đảm bảo phù
hợp với pháp luật trọng tài thương mại quốc tế. Luật TTTM chắc chắn sẽ là công cụ

pháp lí hữu hiệu góp phần thúc đầy trọng tài Việt Nam phát triển, hội nhập quốc tế.
Các doanh nghiệp sẽ tin tưởng và lựa chọn trọng tài nhiều hơn.



×