Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Hoạtđộng đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh BàRịa – Vũng Tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.12 KB, 33 trang )

Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

PHẦN MỞ ĐẦU
Đăng ký kinh doanh (ĐKKD) là một trong những nội dung trọng yếu trong việc
cải cách hành chính ở giai đoạn hiện nay. Đối với Nhà nước, ĐKKD là công cụ quản lý
kinh tế vi mô. Đối với các chủ thể kinh doanh, đó là phương tiện để họ thực hiện quyền
tự do kinh doanh của mình và phát huy hiệu quả trong hoạt động kinh doanh nhằm khai
thác hợp lý tiềm năng kinh tế – xã hội của đất nước. Tiếp thu tư tưởng của Điều 57 Luật
Hiến pháp Việt Nam: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp
luật”, Luật Doanh nghiệp 1999 (LDN 1999) ra đời trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm từ thực
tiễn áp dụng Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Sau đó, cùng với quá trình
chuyển đổi nền kinh tế và hội nhập quốc tế, những thiếu sót và hạn chế của LDN 1999 đã
được sửa đổi, bổ sung bằng Luật doanh nghiệp 2005 (LDN 2005). Điều này không những
tạo ra môi trường và vị thế cạnh tranh mới cho các chủ thể kinh doanh trong và ngoài
nước mà còn đánh dấu một bước tiến mới trong hoạt động ĐKKD cho các chủ thể kinh
doanh trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Trong những năm qua, LDN 2005 và những văn bản pháp luật về kinh doanh vẫn
là một đề tài nghiên cứu hấp dẫn cho những ai quan tâm đến hoạt động kinh doanh ở Việt
Nam dưới nhiều vấn đề và góc độ khác nhau. Là một sinh viên chuyên ngành Luật
Thương mại, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh có ý
nghĩa quan trọng đối với em, nhất là vấn đề về ĐKKD – một vấn hiện nay đang mang
tính thời sự. Bên cạnh đó, qua quá trình thực tập tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (BRVT),
nhận thấy những vấn đề thực tiễn trong hoạt động đăng ký kinh doanh tại địa phương có
ý nghĩa thiết thực và phù hợp với chuyên ngành của mình, nên em chọn đề tài: “Hoạt
động đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu” làm đề tài tiểu luận tốt nghiệp của mình. Mặc dù bài viết sẽ khó tránh
khỏi những sai sót nhưng hi vọng vẫn đáp ứng được những yêu cầu cơ bản và cung cấp
đủ các thông tin cần thiết trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động ĐKKD nói chung và
trên địa bàn tỉnh BRVT nói riêng.


Nguyễn Hải Thanh

1


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

CHƯƠNG I
ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1. Những vấn đề chung về ĐKKD

Chủ thể kinh doanh và quyền tự do kinh doanh

1.1.

1.1.1. Khái niệm chủ thể kinh doanh

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chủ thể kinh doanh gồm các tổ chức, cá
nhân kinh doanh đã làm thủ tục theo quy định và được cấp giấy chứng nhận về ĐKKD
hay giấy chứng nhận đầu tư.1 Cụ thể bao gồm:
1.

Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập và hoạt
động theo pháp luật về doanh nghiệp.

2.

Hộ kinh doanh mà hiện nay được điều chỉnh bởi Nghị định 43/2010/NĐ –

CP về ĐKKD của Chính phủ.
1.1.2.

Nền kinh tế thị trường và quyền tự do kinh doanh

Nền kinh tế thị trường đối lập với nền kinh tế tự nhiên – tự cung tự cấp và đối lập
với cơ chế tự phát giao nộp. Nền kinh tế thị trường vận hành theo những quy luật riêng
của nó như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Nói một cách khác,
kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các quan hệ kinh
tế của các cá nhân, doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ
trên thị trường (tức đều được tiền tệ hóa) nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận theo sự dẫn
dắt của giá cả thị trường. Ở Việt Nam, vào thập niên 1980 đã diễn ra công cuộc cải cách
nền kinh tế mang tính lịch sử. Theo đó, nền kinh tế đã được chuyển đổi từ nền kinh tế tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của Nhà nước. Với đặc điểm nổi bật là một nền kinh tế tự do cạnh tranh, kinh tế
thị trường đã tạo ra một môi trường kinh doanh tự do, dân chủ và đã gián tiếp trao cho
các chủ thể kinh doanh một quyền quan trọng – đó là “quyền tự do kinh doanh” được ghi
1 Theo Luật đầu tư 2005 thì giấy chứng nhận đầu tư sẽ có giá trị như giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Nguyễn Hải Thanh

2


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

nhận trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác. 2 Quyền tự do kinh doanh được
thể hiện dưới nhiều góc độ như quyền tự do lựa chọn mô hình kinh doanh (thành lập
doanh nghiệp hoặc kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh), quyền lựa chọn ngành

nghề kinh doanh hay quyền tự quyết của chủ thể kinh doanh… Hiện nay, có nhiều quan
điểm hiện nay đều cho rằng quyền tự do lựa chọn mô hình kinh doanh được xem là nội
dung cơ bản của quyền tự do kinh doanh.
1.1.3. Pháp luật hiện hành và quyền tự do kinh doanh

Trước đây, Quốc hội đã từng ban hành LDN 1999 có hiệu lực ngày 01 – 01 –
2000. Qua 6 năm thực hiện, LDN 1999 đã mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên,
cùng với sự thay đổi của điều kiện kinh tế – xã hội trong nước và sự thay đổi của nền
kinh tế trên toàn thế giới, một số nội dung của LDN 1999 đã không còn phù hợp. Vì vậy,
để tạo môi trường pháp lý mới phù hợp hơn, có thể khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực
trong xã hội để phát triển nền kinh tế trong nước, Quốc hội đã thông qua LDN 2005 có
hiệu lực từ ngày 01 – 07 – 2006. LDN 2005 đã có những đổi mới cơ bản so với LDN
1999 mà cụ thể nhất là mở rộng quyền tự do kinh doanh.
Như đã nói ở trên, quyền tự do lựa chọn mô hình kinh doanh là nội dung được
xem là cơ bản nhất của quyền tự do kinh doanh và được thể hiện ở hai khía cạnh: tự do
thành lập doanh nghiệp và tự do thành lập hộ kinh doanh. Hiện nay, mặc dù các quyền tự
do này được pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo vệ nhưng sự tự do đó phải nằm trong
một khuôn khổ nhất định để đảm bảo lợi ích quốc gia và đáp ứng được yêu cầu của quản
lý Nhà nước. Một trong những biểu hiện rõ nhất của điều này chính là sự đổi mới của chế
định ĐKKD. Có thể dễ dàng nhận thấy trong LDN 2005, từ yêu cầu về hồ sơ đến trình tự
thủ tục ĐKKD so với LDN 1999 đều đã được các nhà làm luật đơn giản hóa nhằm hỗ trợ
các chủ thể kinh doanh dễ dàng hơn trong việc thực hiện “quyền tự do kinh doanh” của
mình. Và gần đây nhất, sự ra đời của Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD thay thế cho
Nghị định 88/2006/NĐ – CP đã loại bỏ được phần lớn những rườm rà, đơn giản hóa hơn
hẳn thủ tục và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư khi tiến hành ĐKKD.
1.2.

Đăng ký kinh doanh
1.2.1. Khái niệm và bản chất


2 Xem Điều 57 Luật Hiến pháp Việt Nam 1992, Điều 50 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 …

Nguyễn Hải Thanh

3


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

ĐKKD là một thuật ngữ pháp lý nhưng trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau
của nền kinh tế thì thuật ngữ ĐKKD cũng được hiểu và thể hiện khác nhau. Cụ thể, trong
cơ chế kế hoạch hóa tập trung, hoạt động ĐKKD được hiểu theo cơ chế “xin – cho” thì
ĐKKD là thủ tục pháp lý bắt buộc đối với việc thành lập doanh nghiệp. Song, với việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, để đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh được ghi
nhận trong Hiến pháp 1992 thì cơ chế “xin – cho” trong hoạt động ĐKKD cũng bị xóa
bỏ. Lúc này, để được thừa nhận tính hợp pháp cho sự tồn tại của doanh nghiệp, các chủ
thể phải làm một thủ tục pháp lý khác để hợp pháp hóa sự ra đời của mình và thuật ngữ
ĐKKD cũng được sử dụng để chỉ thủ tục này.
Như vậy, ĐKKD có thể được hiểu là một thủ tục hành chính nhằm hợp pháp hóa sự ra
đời của chủ thể kinh doanh; thông qua đó, Nhà nước thừa nhận và bảo vệ cho chủ thể
kinh doanh các quyền và lợi ích hợp pháp trong quan hệ kinh doanh và ghi nhận về mặt
pháp lý sự tồn tại độc lập của các chủ thể đó bằng hình thức cấp một loại giấy chứng
nhận về ĐKKD.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy rằng, về bản chất, ĐKKD được xem xét dưới 2
góc độ sau đây:
Thứ nhất, ĐKKD thể hiện hành vi của chủ thể nhằm thực hiện nhu cầu kinh doanh và
muốn xác lập quyền tự do kinh doanh thông qua quy định của pháp luật.
Thứ hai, ĐKKD thể hiện hành vi quản lý Nhà nước của cơ quan có thẩm quyền. Đây là
sự khẳng định của Nhà nước về tư cách pháp lý của chủ thể kinh doanh và thực hiện việc

giám sát đối với hoạt động của các chủ thể này.
1.2.2. Đặc điểm

Từ khái niệm đã nêu trên, ĐKKD có những đặc điểm sau:
a. ĐKKD là một thủ tục hành chính.

Thủ tục hành chính hiểu theo nghĩa chung nhất là trình tự, cách thức thực hiện và
hồ sơ do cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết từng công việc
cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức trong xã hội. Theo quy định của pháp luật hiện
hành thì ĐKKD cũng được thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định. Trình tự, thủ
tục này được áp dụng bắt buộc đối với cả cơ quan ĐKKD – cơ quan hành chính Nhà
Nguyễn Hải Thanh

4


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

nước và cá nhân, tổ chức trong xã hội muốn ĐKKD. Điều này có nghĩa là bất kỳ chủ thể
nào muốn thực hiện ĐKKD thì đều phải tiến hành nộp đầy đủ hồ sơ ĐKKD (bao gồm các
loại giấy tờ được quy định trong từng điều luật) cho cơ quan ĐKKD. Sau một thời gian
cụ thể mà pháp luật đã quy định trong từng trường hợp, trên cơ sở tiến hành xem xét, cơ
quan ĐKKD có thể từ chối hoặc đồng ý cấp giấy chứng nhận về ĐKKD cho chủ thể.
b. Hoạt động ĐKKD được thể hiện dưới hình thức Giấy chứng nhận đăng ký doanh

nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh.
Hoạt động ĐKKD có thể dẫn đến kết quả là cấp cho chủ thể kinh doanh đủ điều
kiện luật định một loại giấy chứng nhận. Đối với doanh nghiệp thì đó là Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, còn đối với hộ kinh doanh thì đó là Giấy chứng nhận đăng ký hộ

kinh doanh. Loại giấy chứng nhận này được xem như là “tấm vé thông hành” để các chủ
thể kinh doanh đủ điều kiện được gia nhập vào nền kinh tế thị trường. Nó gồm những
thông tin cơ bản về chủ thể ĐKKD mà dựa vào đó, Nhà nước và các chủ thể khác muốn
tham gia quan hệ với các chủ thể đã ĐKKD có thể xác định được chủ thể đó có đặc điểm
như thế nào, mức độ tin cậy ra sao… Bên cạnh đó, căn cứ vào hoạt động ĐKKD, Nhà
nước có thể đưa các chủ thể này vào danh sách được áp dụng chế độ quản lý và bảo vệ
theo các quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, loại giấy chứng nhận trên bao gồm các nội dung
quy định tại Điều 25 LDN (đối với doanh nghiệp) và khoản 1 Điều 52 Nghị định
43/2010/NĐ – CP (đối với hộ kinh doanh). Nhìn chung, trong nội dung của giấy chứng
nhận đều có tên, địa chỉ, danh tính người đại diện theo pháp luật , ngành nghề kinh
doanh, vốn và một số nội dung khác của chủ thể kinh doanh. Đặc biệt, thông qua các quy
định có thể thấy pháp luật có những yêu cầu chặt chẽ và khắt khe về việc đặt tên (không
trùng, không gây nhầm lẫn…) 1, điều kiện ngành nghề kinh doanh (không kinh doanh
ngành nghề bị cấm…) 2… bởi những thông tin này giúp chủ thể kinh doanh có được tính
phân biệt và có được một tư cách pháp lý độc lập với những chủ thể kinh doanh khác để
có thể tham gia vào các quan hệ xã hội.
c. ĐKKD chỉ được thực hiện tại những cơ quan ĐKKD có thẩm quyền
1 Xem Điều 31 đến Điều 34 LDN 2005 và Chương III Nghị định 43/2010/NĐ – CP.
2 Xem khoản 1 Điều 24 LDN 2005.

Nguyễn Hải Thanh

5


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

ĐKKD là thủ tục quan trọng đối với hầu hết các chủ thể kinh doanh khi muốn

tham gia vào thị trường. Hiện nay, số lượng chủ thể có nhu cầu ĐKKD có xu hướng ngày
càng gia tăng. Vì vậy, hoạt động này đòi hỏi phải có một cơ quan chuyên môn để quản lý
và Nhà nước đã lập ra các Phòng đăng ký kinh doanh 1 ở mỗi cấp để thực hiện nhiệm vụ
này.
1.2.3. Ý nghĩa

Với vai trò hết sức thiết thực, ĐKKD được xem là một công cụ hữu hiệu phục vụ
cho công tác quản lý Nhà nước. Điều này được thể qua những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, việc ĐKKD cung cấp thông tin cần thiết về chủ thể kinh doanh, một mặt tạo
cơ sở cho công tác quản lý Nhà nước về kinh tế, mặt khác tạo thuận lợi cho các chủ thể
tham gia quan hệ với nhau trên thị trường.
VD: Thông qua hoạt động ĐKKD, Nhà nước nắm được số lượng các loại hình doanh
nghiệp đang hoạt động và các ngành nghề kinh doanh đang được tiến hành. Qua hồ sơ
ĐKKD, thông tin về doanh nghiệp được công bố và quản lý. Điều đó vừa có lợi cho hoạt
động quản lý Nhà nước, vừa có lợi cho doanh nghiệp.
Thứ hai, thông qua công tác ĐKKD, Chính phủ còn có căn cứ khoa học để quản lý và
điều hành nền kinh tế theo yêu cầu đổi mới.
VD: Căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà Sở Kế hoạch và Đầu tư các
tỉnh cấp cho doanh nghiệp, Bộ Khoa học và Đầu tư sẽ tập hợp số lượng các doanh nghiệp
và các ngành nghề mà doanh nghiệp đã đăng ký. Trên cơ sở đó, Chính phủ xây dựng các
chính sách phát triển kinh tế theo từng thời kỳ, từng khu vực và quyết định phát triển
ngành nghề kỹ thuật nào, khu vực kinh tế nào theo yêu cầu phát triển, cân đối tổng thể
nền kinh tế.
Thứ ba, hoạt động ĐKKD cho doanh nghiệp hỗ trợ hoạt động thu thuế, thể hiện cơ chế
một cửa linh hoạt của thủ tục hành chính Nhà nước. Cụ thể theo quy định mới của Nghị
định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD thì khi ĐKKD, doanh nghiệp được cấp một mã số. Mã
số này vừa là mã số ĐKKD vừa là mã số thuế của doanh nghiệp. Mã số doanh nghiệp tồn
tại trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp và không được cấp lại cho đối tượng
1 Xem Điều 9 Nghị định 43/2010/NĐ – CP.


Nguyễn Hải Thanh

6


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

nộp thuế khác. Khi doanh nghiệp không còn tồn tại thì mã số doanh nghiệp chấm dứt
hiệu lực và không được sử dụng lại. Mã số doanh nghiệp được lưu trên Hệ thống ĐKKD
quốc gia và được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Mã số doanh nghiệp
được dùng để kê khai nộp thuế cho tất cả các loại thuế, kể cả doanh nghiệp kinh doanh
nhiều ngành nghề khác nhau hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các địa bàn khác
nhau.1 Dựa vào mã số này, công tác thu thuế không chỉ được tiến hành theo đúng ngành
nghề nghề doanh mà còn giúp cho cơ quan thuế các cấp tiến hành thu thuế được thuận
tiện, chính xác hơn và hạn chế được tình trạng bỏ sót và thất thu thuế.
Thứ tư, hoạt động ĐKKD giúp Nhà nước thiết lập trật tự kỷ cương trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Bởi vì ĐKKD vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh.
Pháp luật chỉ thừa nhận sự tồn tại của chủ thể kinh doanh khi chủ thể này đã ĐKKD. Tuy
nhiên, khi tiến hành hoạt động kinh doanh, chủ thể kinh doanh phải tự chịu trách nhiệm
về hoạt động của mình và pháp luật không bảo hộ điều này. Chủ thể kinh doanh có thể bị
tước giấy chứng nhận về ĐKKD, tức bị tước đi quyền ĐKKD nếu vi phạm pháp luật khi
tiến hành hoạt động kinh doanh. Do vậy, chế định ĐKKD có tác dụng phần nào sàng lọc
các quan hệ kinh doanh, hạn chế những tranh chấp và vi phạm có thể xảy ra do tình trạng
kinh doanh tràn lan, do không ĐKKD hoặc kinh doanh sai chức năng.
2. Cơ quan quản lý ĐKKD ở Việt Nam

Pháp luật về ĐKKD được thực hiện bởi những cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, để
tổ chức quản lý hoạt động ĐKKD, Nhà nước không chỉ quy định trình tự, thủ tục ĐKKD
mà còn quy định cụ thể về cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể đối với các cơ

quan này. Mục đích trước hết là nhằm bảo đảm việc tổ chức, quản lý ĐKKD có hiệu quả
và sau nữa là để duy trì sự thống nhất mô hình tổ chức và chức năng quản lý ĐKKD trên
phạm vi toàn quốc, tránh sự tùy tiện như địa phương tự đề ra một hình thức tổ chức cơ
quan ĐKKD... Để đáp ứng được các yêu cầu trên, trong việc quản lý ĐKKD, Chính phủ
thực hiện sự phân cấp quản lý cho nhiều cơ quan khác nhau nhằm quản lý đồng bộ hoạt
động ĐKKD trong mọi lĩnh vực trên cả nước.
2.1.

Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ĐKKD
2.1.1. Cơ quan ĐKKD

1 Xem Điều 8 Nghị định 43/2010/NĐ – CP.

Nguyễn Hải Thanh

7


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

Cơ quan ĐKKD là cơ quan giữ vai trò trung tâm trong hoạt động quản lý ĐKKD
của Nhà nước còn các cơ quan liên quan khác đóng vai trò phối hợp quản lý. Theo Điều 9
Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD thì cơ quan ĐKKD được tổ chức ở hai cấp là cấp
tỉnh và cấp huyện. Cụ thể như sau:
-

Cơ quan ĐKKD cấp tỉnh là Phòng ĐKKD thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư (điểm a
khoản 1) có trách nhiệm xem xét và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
cho các loại hình doanh nghiệp1.


-

Cơ quan ĐKKD cấp huyện là Phòng ĐKKD thuộc UBND cấp huyện (điểm b
khoản 1) có nhiệm vụ tiếp nhận đơn ĐKKD và cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ
kinh doanh cho các hộ kinh doanh trên địa bàn2.
2.1.2. Cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư

Trước khi Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD ra đời, trong các trường hợp
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đầu tư 2005 thì nhà đầu tư chỉ cần được cấp Giấy
chứng nhận đầu tư là đã có thể tiến hành hoạt động kinh doanh bởi giấy này cũng đồng
thời là giấy chứng nhận về ĐKKD. Hiện nay, mặc dù Nghị định 43 đã có hiệu lực nhưng
theo quy định tại khoản 4 Điều 6 của Nghị định này thì giá trị của Giấy chứng nhận đầu
tư không bị thay đổi do Nhà nước không bắt buộc các chủ thể được cấp các loại giấy
chứng nhận về ĐKKD trước khi Nghị định này có hiệu lực phải thực hiện chuyển đổi
sang các loại giấy chứng nhận mới.
2.2.

Cơ quan quản lý Nhà nước về ĐKKD khác

Nếu như việc tổng hợp quá trình kiểm tra, đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ ĐKKD
và cấp giấy chứng nhận cho chủ thể kinh doanh được thực hiện tại các cơ quan chuyên
trách nhằm đáp ứng được việc theo dõi, cung cấp thông tin, đảm bảo sự quản lý của Nhà
nước thì quá trình diễn ra việc kiểm tra, đánh giá ấy (VD: kiểm tra, đánh giá về các điều
kiện kinh doanh, vốn pháp định, tính hợp lệ của hồ sơ giấy tờ để làm căn cứ quyết định
cấp hay từ chối cấp giấy chứng nhận cho các chủ thể kinh doanh) phải được thực hiện tại
các cơ quan chuyên môn, quản lý ngành, lĩnh vực cụ thể để đảm bảo tính phù hợp và hiệu
1 Xem Điều 10 Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD.
2 Xem Điều 11 Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD.


Nguyễn Hải Thanh

8


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

quả. Cụ thể gồm các cơ quan sau: cơ quan cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh,
cơ quan ngân hàng xác định vốn và các cơ quan quản lý ngành, quản lý địa phương
(UBND) tham gia thẩm định, đánh giá tác động, ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh, dự
án đến ngành và địa phương. Các cơ quan này có nhiệm vụ phối hợp với nhau và với các
cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (hộ kinh doanh) để
đảm bảo việc quản lý ĐKKD được hiệu quả.
2.3.

Nhận xét
2.3.1. Ưu điểm

Nhìn vào các quy định của pháp luật hiện hành về cơ cấu tổ chức và hoạt động của
các cơ quan quản lý Nhà nước về ĐKKD thì ta có thể dễ dàng nhận thấy những ưu điểm
sau đây của LDN 2005:
Thứ nhất, quản lý Nhà nước về ĐKKD là cách thức mà Nhà nước tổ chức cho công dân
thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình đã được Hiến pháp ghi nhận. Do vậy, với tư
cách là nội dung cơ bản của chính sách và công cụ quản lý kinh tế, pháp luật đã quy định
rõ giới hạn quản lý Nhà nước để không làm tổn hại đến quyền tự do kinh doanh. Cụ thể
là trong các cơ quan quản lý Nhà nước về ĐKKD thì cơ quan ĐKKD có vai trò quan
trọng nhất và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động quản lý Nhà nước về
ĐKKD nên để tránh hiện tượng tùy tiện, không thống nhất, Nhà nước đã quy định rõ
chức năng và nhiệm vụ của cơ quan ĐKKD. Khi thực hiện ĐKKD cho các chủ thể kinh

doanh, cơ quan này chỉ được thực hiện theo thẩm quyền những nội dung mà pháp luật đã
quy định. Mọi quyết định không dựa trên cơ sở pháp luật hay vượt quá thẩm quyền đều bị
coi là vi phạm pháp luật và cần bị xử lý. Điều này đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh có
thể yên tâm thực hiện quyền ĐKKD của mình, hạn chế được một số tình trạng lạm quyền
gây khó dễ của các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, bên cạnh việc trao quyền cho cơ quan ĐKKD, pháp luật hiện hành còn quy định
trách nhiệm thực hiện sự phối hợp trong quản lý của cơ quan ĐKKD với các cơ quan
khác có liên quan. Điều này thể hiện tính kiềm chế đối trọng – một tính chất khá đặc
trưng trong tổ chức Bộ máy Nhà nước ở Việt Nam nhằm mục đích kiểm soát lẫn nhau,
nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý Nhà nước.

Nguyễn Hải Thanh

9


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

Thứ ba, nếu như trước đây, ĐKKD mặc dù là quyền của công dân nhưng muốn thực
hiện, công dân phải được sự cho phép của các cơ quan quản lý Nhà nước về ĐKKD thì
hiện nay, trong hoạt động quản lý Nhà nước về ĐKKD, pháp luật không chỉ quy định khá
cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước về ĐKKD trong việc hướng dẫn
người ĐKKD về việc làm các thủ tục, hồ sơ ĐKKD, mà còn trao cho chủ thể kinh doanh
quyền chủ động tự lựa chọn, quyết định và tự chịu trách nhiệm về nội dung ĐKKD. Như
vậy, các quy định của LDN 2005 đã thể hiện được nguyên tắc của Hiến pháp 1992 rằng
quyền tự do kinh doanh được Nhà nước bảo đảm bằng một nền hành chính mang tính
chất phục vụ chứ không phải là sự ban phát của cơ chế xin – cho như trước đây nữa.
2.3.2. Hạn chế


Bên cạnh những ưu điểm trên, các quy định của LDN 2005 về cơ quan quản lý
Nhà nước về ĐKKD vẫn còn những hạn chế nhất định. Cụ thể là:
Thứ nhất, nhìn chung, pháp luật Việt Nam không có một chế định riêng về quản lý Nhà
nước về ĐKKD mà được lồng vào các điều luật cụ thể. Bên cạnh đó, pháp luật chỉ đặt ra
các quy định chung áp dụng thống nhất trên toàn quốc (các Bộ, ngành trung ương cũng
như địa phương đều không có quyền ban hành các quy định riêng về ĐKKD áp dụng
riêng cho ngành, địa phương mình). Mặc dù điều này nhằm mục đích áp dụng pháp luật
thống nhất, hạn chế tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn luật song có vẻ như sự thống nhất
này có phần hơi áp đặt và cứng nhắc. Bởi mỗi địa phương đều có một nền kinh tế xã hội
đặc trưng, có nơi phát triển ở trình độ cao, có nơi lại chưa được phát triển so với các vùng
khác. Thêm vào đó, mỗi một ngành lại có những nét đặc thù riêng. Nếu áp dụng chung
một quy định cho tất cả những trường hợp đó thì có thể dẫn đến sự không công bằng khi
thực hiện quyền tự do kinh doanh trong một số trường hợp. VD: Tỉnh A là tỉnh kém phát
triển nhất nước, tỉnh B là tỉnh phát triển mạnh nhất nước. Trong trường hợp doanh nghiệp
X muốn ĐKKD tại tỉnh A và doanh nghiệp Y muốn ĐKKD tại tỉnh B thì cả 2 doanh
nghiệp này đều phải đáp ứng những điều kiện như nhau. Xét một cách tổng quát thì điều
kiện đó có thể dễ dàng được đáp ứng tại tỉnh B nhưng lại khó đáp ứng trong điều kiện ở
tỉnh A và do vậy sự bất lợi rõ ràng là đối với doanh nghiệp X.
Thứ hai, trong quá trình hoạt động, sự quản lý Nhà nước đối với các chủ thể kinh doanh
sau khi ĐKKD chủ yếu được thực hiện thông qua chế độ kế toán thống kê và báo cáo tài
chính hằng năm của chủ thể kinh doanh. Như vậy đối với giai đoạn hoạt động của chủ thể
Nguyễn Hải Thanh

10


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

kinh doanh sau ĐKKD chưa được các cơ quan quản lý Nhà nước giám sát chặt chẽ. Điều

này đã vô tình tạo ra một kẽ hở pháp luật, dẫn đến nhiều vi phạm của các chủ thể kinh
doanh. VD: Ông A tiến hành ĐKKD ngành X, được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp trong phạm vi ngành X nhưng sau đó lại kinh doanh thêm ngành Y mà không tiến
hành bổ sung ĐKKD…
Thứ ba, quản lý Nhà nước về ĐKKD hiện nay được thực hiện bởi nhiều cơ quan khác
nhau, quản lý nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặc dù cơ quan có vai trò chính là cơ quan
ĐKKD và việc phân chia thẩm quyền cũng có những lợi ích nhất định, song điều này
cũng làm cho bộ máy quản lý trở nên cồng kềnh, phức tạp. Hơn nữa, việc phân chia thẩm
quyền đôi lúc sẽ gây ra tình trạng chồng chéo thẩm quyền, công dân khó xác định được
mình phải làm việc với cơ quan nào để ĐKKD hay những khó khăn phát sinh trong quản
lý hồ sơ ĐKKD.
3. Thủ tục ĐKKD

ĐKKD là một thủ tục hành chính mà ở đó nhà đầu tư công khai hóa sự ra đời của
mình còn Nhà nước thì thừa nhận tư cách pháp lý đồng thời cam kết bảo hộ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Do đó, ĐKKD là một công việc không chỉ cần thiết đối với Nhà
nước mà còn mang lại lợi ích và có vai trò quan trọng đối với chính bản thân nhà đầu tư.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc ĐKKD, chế độ ĐKKD đã được thiết lập từ rất sớm.
Trải qua những thay đổi về cơ cấu kinh tế và chính trị của đất nước, chế độ ĐKKD ngày
một cải thiện hơn về quy trình, thủ tục nhằm đảm bảo lợi ích cũng quyền tự do kinh
doanh cho các chủ thể muốn gia nhập vào nền kinh tế thị trường một cách hợp pháp. Tiếp
thu nền tảng đó, LDN 2005 và mới đây nhất là Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD so
với các văn bản luật trước đây đã có những thay đổi tích cực về thủ tục ĐKKD.
3.1.

Trình tự ĐKKD

Theo pháp luật hiện hành, trình tự thủ tục ĐKKD đối với mọi chủ thể đều được
thực hiện theo quy định tại Điều 15 LDN 2005 và Nghị định số 43/2010/NĐ – CP về
ĐKKD. Về cơ bản, trình tự ĐKKD gồm những bước sau:


Nguyễn Hải Thanh

11


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”
1.

Chủ thể kinh doanh nộp đầy đủ hồ sơ ĐKKD tại cơ quan ĐKKD (đối với doanh
nghiệp thì có thể nộp hồ sơ qua mạng điện tử bằng cách thực hiện đăng ký thông
qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia).1

2.

Cơ quan ĐKKD tiếp nhận hồ sơ ĐKKD vào trao giấy Biên nhận về việc nhận hồ
sơ cho người nộp hồ sơ.

3.

Cơ quan ĐKKD tiến hành xem xét tính hợp lệ của hồ sơ ĐKKD. Đối với doanh
nghiệp, Phòng ĐKKD cấp tỉnh sẽ tiến hành nhập dữ liệu trong hồ sơ của doanh
nghiệp vào Hệ thống thông tin doanh nghiệp quốc gia.2

4.

Sau thời hạn 5 ngày3 kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan ĐKKD tiến hành cấp giấy
chứng nhận phù hợp cho từng loại chủ thể kinh doanh sau khi đã thu phí ĐKKD
hoặc chủ thể ĐKKD có thể nhận giấy chứng nhận và trả phí ĐKKD thông qua

dịch vụ chuyển phát.4
3.2.

Hồ sơ ĐKKD

Hồ sơ ĐKKD bao gồm các loại giấy tờ cần thiết, làm căn cứ để cơ quan ĐKKD
tiến hành cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đăng ký hộ
kinh doanh . Theo quy định của LDN 2005 và Nghị định số 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD
thì nhìn chung, hồ sơ ĐKKD gồm những loại giấy tờ sau đây:
1.

Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu.

2.

Đối với doanh nghiệp: Dự thảo điều lệ công ty, danh sách thành viên cùng bản sao
giấy tờ tùy thân của thành viên công ty (chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc
chứng thực cá nhân hợp pháp khác…), văn bản xác nhận vốn, các yêu cầu khác
tùy vào loại hình của từng doanh nghiệp. Đối với hộ kinh doanh: bản sao chứng
minh nhân dân của cá nhân hoặc người đại diện hộ gia đình.

3.

Chứng chỉ hành nghề hợp lệ.

1 Xem Điều 27 Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD.
2 Xem khoản 4 Điều 25 và Điều 26 Nghị định 43/2010/NĐ – CP.
3 Xem Điều 28 và khoản 2 Điều 52 Nghị định 43/2010/NĐ – CP.
4 Xem khoản 2 Điều 29 Nghị định 43/2010/NĐ – CP.


Nguyễn Hải Thanh

12


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”
3.3.

Nhận xét
3.3.1. Ưu điểm

Như vậy, so với LDN 1999 và các luật trước, pháp luật hiện hành về trình tự
ĐKKD đã có điểm mới sau đây:
Thứ nhất, LDN 2005 đã khẳng định được bản chất của hoạt động ĐKKD là nhà đầu tư
“đi thực hiện quyền ĐKKD” chứ không phải đi xin một đặc ân từ phía cơ quan Nhà
nước. Điều này có nghĩa là nếu chủ thể kinh doanh có đủ điều kiện và hồ sơ hợp lệ thì
Nhà nước có nghĩa vụ phải cấp giấy chứng nhận hợp lệ cho họ (chứ không phải là quyền
cho phép). Thể hiện tư tưởng này, LDN 2005 đã đổi cụm từ “Đơn ĐKKD” trong LDN
1999 thành “Giấy đề nghị ĐKKD”. Việc thay đổi này thể hiện được “quyền tự do kinh
doanh” của các chủ thể trong xã hội và xác định rõ hơn, đúng hơn về nhiệm vụ chính của
cơ quan Nhà nước là phục vụ nhân dân.
Thứ hai, đối với vấn đề ĐKKD cho doanh nghiệp, trước đây nội dung ĐKKD được quy
định trong LDN 1999 còn nghèo nàn, thể hiện ở chỗ trong hồ sơ ĐKKD chỉ ghi nhận một
số thông tin ngắn gọn và có tính chất ban đầu, còn các thông tin khác phát sinh trong quá
trình hoạt động của doanh nghiệp sau khi đã được đăng ký thì hầu như không có hoặc có
nhưng không đủ, không cập nhật. Nhược điểm này đã làm suy giảm rất nhiều tác dụng
của công tác ĐKKD nói chung và hồ sơ ĐKKD nói riêng với tư cách là nguồn thông tin
cơ bản về doanh nghiệp. Đến LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn mới nhất hiện nay thì
nhược điểm này đã được khắc phục. Thông tin về doanh nghiệp ghi nhận trong hồ sơ

ĐKKD đầy đủ, chi tiết hơn và được cập nhật sau khi doanh nghiệp đã tiến hành ĐKKD.
Thứ ba, thời hạn xem xét hồ sơ để cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (giấy
chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh) đã được rút ngắn lại. Cụ thể là thời hạn cấp giấy
chứng nhận đăng ký cho doanh nghiệp là 5 ngày, ngắn hơn 10 ngày so với quy định của
các văn bản luật trước đây. Cách quy định giúp hạn chế được thời gian “chết”, giúp thủ
tục ĐKKD được tiến hành nhanh hơn và tiết kiệm phần nào cho ngân sách Nhà nước.
Thứ tư, trước đây, LDN 1999 chỉ quy định hồ sơ ĐKKD chung cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp, trong khi đó mỗi loại hình doanh nghiệp lại có những đặc trưng riêng, yêu
cầu chủ thể phải cung cấp thông tin phù hợp. Điều này khiến cho quy định về hồ sơ
ĐKKD trong LDN 1999 không rõ ràng, gây khó khăn cho các chủ thể kinh doanh khi
Nguyễn Hải Thanh

13


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

tiến hành ĐKKD và gây khó khăn trong công tác quản lý doanh nghiệp của Nhà nước (vì
thông tin được cung cấp trong hồ sơ ĐKKD không có tính phân biệt cao). Khắc phục
nhước điểm này, LDN 2005 đã quy định rõ ràng về hồ sơ ĐKKD cho từng loại doanh
nghiệp1. Đặc biệt Nghị định 43/2010/NĐ – CP còn thể hiện tính cụ thể hơn khi liệt kê chi
tiết các loại giấy tờ cho từng trường hợp, có hẳn một điều dành cho loại giấy tờ chứng
thực cá nhân cần thiết trong hồ sơ ĐKKD (Điều 24) và mở rộng thêm việc hướng dẫn nội
dung hồ sơ ĐKKD trong trường hợp chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp. 2 Điều này
thể hiện tính rõ ràng, cụ thể của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các chủ thể khi
ĐKKD và công tác ĐKKD của Nhà nước.
Thứ năm, trước quá trình cải cách, việc ĐKKD phải trải qua những thủ tục khá phức tạp,
rườm rà, tốn thời gian như nộp đơn xin, chứng minh vốn, nhiều giấy tờ đi kèm thì hiện
này với trình tự thủ tục quy định chi tiết, cụ thể, rõ ràng và khá gọn nhẹ, LDN 2005 đã

loại bỏ được tính rườm rà của quy trình ĐKKD theo pháp luật trước đây như không cần
phải chứng minh vốn, không cần nộp đơn xin… Đến Nghị định 43/2010/NĐ – CP thì quy
trình ĐKKD đã được rút gọn và đơn giản hóa đến mức thay vì đến trực tiếp cơ quan hành
chính Nhà nước để thực hiện thủ tục ĐKKD thì doanh nghiệp được cho phép có thể nộp
hồ sơ ĐKKD qua mạng điện tử. Hồ sơ này có giá trị pháp lý như hồ sơ nộp bằng bản
giấy.Đồng thời, doanh nghiệp có thể lựa chọn đến cơ quan ĐKKD nhận trực tiếp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc đăng ký và trả phí để nhận giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp qua dịch vụ chuyển phát. Như vậy, quy định mới này đã giảm thiểu
được các thủ tục hành chính vẫn có phần “khó làm” với doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp
tiết kiệm được tối đa thời gian và giúp cơ quan ĐKKD hạn chế được tình trạng quá tải
khi doanh nghiệp đến cơ quan ĐKKD nhiều, phân loại và tiến hành nhập thông tin nhanh.
Cách làm này khá phổ biến ở các nước phát triển bởi nó giúp hạn chế được tình trạng
tham nhũng, nhận hối lộ và làm việc kém hiệu quả ở các cơ quan hành chính Nhà nước.
Vì vậy, việc áp dụng này là phù hợp với xu thế phát triển chung hiện nay, thể hiện được
tính khoa học và hiện đại trong công tác quản lý hành chính Nhà nước.
3.3.2. Hạn chế

1 Từ Điều 16 đến Điều 19 LDN 2005.
2 Từ Điều 19 đến Điều 24 Nghị định 43/2010/NĐ –CP về ĐKKD.

Nguyễn Hải Thanh

14


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

Bên cạnh những ưu điểm trên, trình tự thủ tục ĐKKD vẫn còn tồn tại những hạn
chế sau đây:

Thứ nhất, khi đăng ký doanh nghiệp hay ĐKKD đối với những ngành nghề đòi hỏi phải
có vốn pháp định thì người đề nghị đều phải chứng minh năng lực tài chính của mình
hoặc của tổ chức mình, thậm chí phải hai lần chứng minh (trường hợp ĐKKD sau khi
đăng ký doanh nghiệp). Đây là quy định nhằm mục đích hạn chế tình trạng kinh doanh
tràn lan của một số ngành nghề trọng yếu hoặc có tính nhạy cảm. Điều này đòi hỏi doanh
nghiệp phải có văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong hồ sơ ĐKKD. Tuy nhiên pháp luật hiện hành chỉ quy định chung chung mà không
nêu rõ đó là cơ quan, tổ chức nào, hình thức xác nhận ra sao. Trên thực tế, việc này
thường do Ngân hàng thực hiện trên cơ sở một khoản tiền nhà đầu tư gửi vào. Do đó,
việc xác nhận vốn pháp định như hiện nay còn mang tính hình thức, gây khó khăn cho
doanh nghiệp, hơn nữa các cơ quan quản lý cũng khó mà kiểm soát được chất lượng của
các văn bản xác nhận.
Thứ hai, trong hồ sơ ĐKKD của doanh nghiệp đòi hỏi chứng chỉ hành nghề của Giám
đốc (Tổng giám đốc) và các cá nhân khác của doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật
hiện hành thì một số ngành nghề yêu cầu giám đốc (hoặc người đứng đầu cơ sở kinh
doanh) phải có chứng chỉ hành nghề; ngành nghề khác thì chỉ yêu cầu chứng chỉ của
người trực tiếp hoặc phụ trách hoạt động đó. Quy định này không phù hợp với thực tế,
bởi Giám đốc là người quản lý chung, điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của
doanh nghiệp. Đối với hoạt động chuyên môn, doanh nghiệp có thể đi thuê nhân viên
quản lý có đủ trình độ phụ trách và quản lý lĩnh vực kinh doanh tương ứng. Mặt khác,
trong trường hợp công ty kinh doanh nhiều lĩnh vực thì một Giám đốc không thể có nhiều
chứng chỉ hành nghề. Việc yêu cầu này chỉ có ý nghĩa về mặt hình thức vì trên thực tế,
khi thành lập doanh nghiệp hoặc bổ sung ngành nghề kinh doanh theo quy định phải có
chứng chỉ hành nghề, đa số chủ sở hữu “mượn” chứng chỉ để hợp pháp hóa về mặt thủ
tục. Ngoài ra, những cá nhân có chứng chỉ hành nghề xét về mặt pháp lý chỉ là người lao
động của doanh nghiệp, hợp đồng lao động với doanh nghiệp có thể chấm dứt bất kỳ lúc
nào, cơ quan đăng ký kinh doanh không thể kiểm soát được.
Thứ ba, đối với vấn đề về giấy phép kinh doanh các ngành nghề có điều kiện cũng còn
tồn tại khá nhiều bất cập. Trên thực tế, trong những năm qua đã có hàng loạt các loại giấy
Nguyễn Hải Thanh


15


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

phép được ban hành cho các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện nhưng lại không có
văn bản cụ thể nào quy định chi tiết yêu cầu của từng loại giấy phép đối với ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện, thậm chí cũng không có thống kê chính xác nào về các loại giấy
phép và điều kiện kinh doanh đang có hiệu lực ở nước ta. Điều này khiến cho một số loại
giấy phép không cần thiết xuất hiện ngày càng nhiều, làm tăng chi phí giao dịch, tăng
thêm cơ hội cho những người có liên quan sách nhiễu, gây phiền hà cho chủ thể ĐKKD.
Ngoài ra, đối với các giấy phép đang có hiệu lực thì chưa được các cơ quan quản lý Nhà
nước tiến hành nghiên cứu, phân loại, đánh giá một cách có hệ thống.
4. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh

doanh
4.1.

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
4.1.1. Khái niệm và đặc điểm

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là hình thức biểu hiện của hoạt động
ĐKKD của các loại hình doanh nghiệp. Giấy chứng nhận ĐKKD do Phòng ĐKKD cấp
tỉnh cấp cho các doanh nghiệp đủ điều kiện được quy định tại Điều 24 LDN 2005. 1 Theo
quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD thì:
“Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là văn bản hoặc bản điện tử mà cơ quan đăng
ký kinh doanh cấp cho doanh nghiệp ghi lại những thông tin về đăng ký kinh doanh và
đăng ký thuế do doanh nghiệp đăng ký.Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đồng thời

là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đăng ký thuế của doanh
nghiệp.”
4.1.2. Nhận xét

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì so với trước đây, việc cấp giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp đã thể hiện những điểm mới sau:
Thứ nhất, việc cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có sự phối hợp giữa cơ quan
thuế và cơ quan ĐKKD và quản lý chung dưới hình thức là mã số doanh nghiệp. Mã số
1 Xem khoản 1 Điều 29 Nghị định 43/2010/NĐ – CP.

Nguyễn Hải Thanh

16


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

này đồng thời là mã số ĐKKD và mã số thuế của doanh nghiệp. Quy định mới này thể
hiện cơ chế một cửa đối với ĐKKD. Cơ chế này là một biểu hiện của quá trình cải cách
hành chính quốc gia. Ưu điểm lớn nhất dễ nhận thấy nhất chính là sự dễ dàng hơn trong
công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước. Ví dụ như trước đây, khi doanh nghiệp chưa
có một mã số xác định duy nhất, việc trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhiều
khi không thể thực hiện được do sự thiếu chuẩn hóa. Nhưng hiện nay, với việc mỗi doanh
nghiệp đã có một mã số duy nhất (chung cả với mã số thuế) thì việc quản lý dễ dàng hơn
rất nhiều. Đây là cơ sở tạo tiền đề cho việc xây dựng một cơ sở dữ liệu toàn quốc về
ĐKKD để chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý và cung cấp thông tin cho doanh
nghiệp.
Thứ hai, trong các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì điều
kiện về tên của doanh nghiệp đã được điều chỉnh theo hướng chặt chẽ và có tính thiết

thực hơn. Cụ thể trong Nghị định 88/2006/NĐ – CP trước đây quy định tên doanh nghiệp
phải viết bằng tiếng Việt và không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của
doanh nghiệp khác đã đăng ký chỉ trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Do vậy, hiện nay tình trạng nhiều doanh nghiệp ở các tỉnh khác nhau lại có tên trùng
nhau khá phổ biến.Vì vậy, để khắc phục tình trạng trên, Nghị định 43/2010/NĐ – CP đã
quy định cụ thể là không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh
nghiệp khác đã đăng ký trên phạm vi toàn quốc. Điều này nhằm mục đích bảo vệ cho các
doanh nghiệp đã ĐKKD không bị lợi dụng tên tuổi vào những mục đích bất hợp pháp,
làm ảnh hưởng uy tín đến doanh nghiệp đã ĐKKD trước và bảo vệ người tiêu dùng tránh
những chiêu lừa thông qua tên tuổi của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có
thể sử dụng cả các chữ cái F, J, Z, W – vốn không có trong bảng chữ cái tiếng Việt để đặt
tên cho doanh nghiệp. Điều này thể hiện sự mở rộng và nhằm mục đích thực hiện tốt hơn
việc “không đặt tên trùng với các doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc”.
4.2.

Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh
4.2.1. Khái niệm và đặc điểm

Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh là hình thức biểu hiện của hoạt động
ĐKKD của hộ kinh doanh. Theo pháp luật hiện hành thì giấy chứng nhận đăng ký hộ
kinh doanh do Phòng ĐKKD cấp huyện cấp cho các cá nhân hoặc người đại diện có đủ
Nguyễn Hải Thanh

17


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

các điều kiện quy định tại Điều 50 Nghị định 43/2010/NĐ – CP. Mặc dù pháp luật hiện

hành không định nghĩa thế nào là Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh nhưng theo
Điều 51 của Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD thì Giấy chứng nhận đăng ký hộ
kinh doanh có thể hiểu là văn bản mà cơ quan ĐKKD cấp cho hộ kinh doanh ghi lại
những thông tin về ĐKKD dựa trên hồ sơ ĐKKD do người thành lập hộ kinh doanh tự
khai và tự chịu trách nhiệm.
4.2.2. Nhận xét

Vấn đề ĐKKD của hộ kinh doanh được quy định khá đơn giản tại Điều 50, 51 và
52 của Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD. Sự đơn giản này tạo điều kiện thuận lợi
cho các cá nhân, tổ chức tiến hành ĐKKD dưới hình thức hộ kinh doanh và thể hiện sự
tôn trọng quyền tự do kinh doanh của pháp luật Việt Nam. Theo pháp luật hiện hành, hộ
kinh doanh có thể được một trong ba chủ thể sau tạo lập: cá nhân, nhóm cá nhân hoặc hộ
gia đình. Trước đây, Nghị định 88/2006/NĐ – CP quy định khá chung chung về trường
hợp hộ kinh doanh do nhóm cá nhân làm chủ. Theo Thông tư 03/2006/TT – BKH hướng
dẫn Nghị định này thì cá nhân ĐKKD dưới hình thức hộ kinh doanh đại diện cho nhóm
cá nhân phải cam kết rằng bản thân và các cá nhân tham gia góp vốn không thuộc đối
tượng pháp luật cấm kinh doanh. Quy định này xem người ĐKKD cho nhóm cá nhân
nhân là đại diện đương nhiên của toàn nhóm, trong khi không quan tâm gì đến sự thỏa
thuận trong nhóm, bởi quy định của pháp luật về hồ sơ ĐKKD không yêu cầu gì liên
quan tới các thành viên nhóm ngoài lời cam kết như trên. Khi có tranh chấp, các bên có
thể tự do chứng minh bằng các bằng chứng khác với lời cam kết nêu trên và vì vậy làm
cho người đại diện vô tình bị “bất công”. Đến Nghị định 43/2010/NĐ – CP thay thế cho
Nghị định 88 trên thì vấn đề này đã được khắc phục bằng việc khi nộp giấy đề nghị đăng
ký hộ kinh doanh thì phải nộp kèm theo Biên bản họp nhóm cá nhân về việc thành lập hộ
kinh doanh. Điều này nhằm mục đích xác minh sự thỏa thuận của các thành viên trong
nhóm, đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên. Tuy nhiên, quy định hiện hành cũng có một
số điểm chưa rõ ràng về vấn đề đăng ký hộ kinh doanh mà điển hình nhất là về điều kiện
thành lập hộ kinh doanh. Như đã biết, điều kiện thành lập hộ kinh doanh luôn được đặt ra
với cá nhân kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh. Theo quy định tại Điều 52 Nghị
định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD thì trước hết, cá nhân thành lập và đăng ký hộ kinh

doanh phải là công dân Việt Nam và không thuộc diện pháp luật cấm kinh doanh. Tiếp
đó các cá nhân và thành viên trong hộ gia đình thuộc điều kiện thứ nhất sẽ chỉ được
Nguyễn Hải Thanh

18


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

ĐKKD một hộ kinh doanh trong phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, quy định này chưa rõ
ràng vì chỉ quy định quyền được ĐKKD một hộ kinh doanh chứ không nói rõ nếu vừa
góp vốn cho hộ kinh doanh này vừa tự mình ĐKKD hộ kinh doanh khác có bị coi là vi
phạm điều kiện thứ hai hay không. Do vậy, nếu xảy ra trường hợp ông B góp vốn cùng
ông A thành lập hộ kinh doanh do ông A đăng ký sau đó lại xin ĐKKD hộ kinh doanh
của mình thì cơ quan quản lý phải giải thích rất lòng vòng để có thể xử lý được.

Nguyễn Hải Thanh

19


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

CHƯƠNG II
THỰC TIỄN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
TẠI TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

1. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh BRVT


BRVT nằm ở miền Đông Nam bộ, tiếp giáp tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, với TP Hồ
Chí Minh ở phía Tây, với tỉnh Bình Thuận ở phái Đông còn phía Nam giáp biển Đông.
Tỉnh có hơn 1 triệu dân, trong đó dân số thành thị chiếm gần 50% dân số toàn tỉnh. Tỉnh
có 8 đơn vị hành chính gồm: TP Vũng Tàu, Thị xã Bà Rịa, 5 huyện trên đất liền gồm:
Long Điền, Tân Thành, Châu Đức, Xuyên Mộc, Đất Đỏ và huyện Côn Đảo. Hiện nay,
các trung tâm hành chính của tỉnh đã được chuyển về Thị xã Bà Rịa.
BRVT thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hoạt động kinh tế của Tỉnh trước
hết phải nói về tiềm năng dầu khí. Trên thềm lục địa Đông Nam Bộ tỉ lệ các mũi khoan
thăm dò, tìm kiếm gặp dầu khí khá cao, tại đây đã phát hiện các mỏ dầu có giá trị thương
mại lớn như: Bạch Hổ (lớn nhất Việt Nam), Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông. Đương nhiên
xuất khẩu dầu đóng góp một phần quan trọng trong GDP của Bà Rịa-Vũng Tàu. Ngoài
lĩnh vực khai thác dầu khí, BRVT còn là một trong những trung tâm năng lượng, công
nghiệp nặng, du lịch, cảng biển của cả nước. Trung tâm điện lực Phú Mỹ và Nhà máy
điện Bà Rịa chiếm 40% tổng công suất điện năng của cả nước. Công nghiệp nặng có: sản
xuất urê, polyetylen, clinker, thép (hiện tại tỉnh có hàng chục nhà máy lớn đang hoạt
động gồm VinaKyoei, Pomina, Thép miền Nam (South Steel), Bluescopes, Thép Việt,
Thép Tấm ( Flat Steel). Về lĩnh vực cảng biển: kể từ khi chính phủ có chủ trương di dời
các cảng tại nội ô Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu trở thành trung tâm cảng
biển chính của khu vực Đông Nam bộ. Các cảng lớn tập trung chủ yếu trên sông Thị Vải.
Cảng Sài Gòn và Nhà máy Ba Son đang di dời và xây dựng cảng biển lớn tại đây. Về lĩnh
vực du lịch, tỉnh này là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước. Trong
thời gian qua, chính phủ đã cấp phép và một số dự án du lịch lớn như: Saigon Atlantis
(300 triệu USD), Công viên giải trí Bàu Trũng và Bể cá ngầm Nghinh Phong (500 triệu
USD), công viên bách thú Safari Xuyên Mộc (200 triệu USD)...
Nguyễn Hải Thanh

20



Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

Theo một số báo cáo thì tốc độ tăng trưởng của tỉnh BRVT bình quân trong giai đoạn
2006 – 2010 đạt 17,78%. Công nghiệp - xây dựng chiếm 64,3% (giảm 0,26% so với năm
2005); thương mại – dịch vụ giảm từ 31,2% (tăng 3,48% so với năm 2005), nông nghiệp
chiếm 4,5% (giảm 3,22% so với năm 2005). GDP bình quân đầu người năm 2010 không
tính dầu thô và khí đốt ước đạt 5.872 đô la Mỹ (tăng 2,28 lần so với năm 2005) 1. Đến
năm 2011, trên địa bàn tỉnh có 295 dự án nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư
đăng ký gần 28,1 tỷ USD. Trong đó, có 118 dự án trong KCN với tổng vốn đầu tư hơn
11,14 tỷ USD và 177 dự án ngoài KCN với tổng vốn đầu tư gần 17 tỷ USD. Vốn đầu tư
thực hiện đến nay đạt gần 6,43 tỷ USD, chiếm 22,9 % trong tổng vốn đăng ký đầu tư.
Trong những năm gần đây tỉnh luôn đứng trong tốp những địa phương thu hút nhiều vốn
đầu tư nước ngoài nhất tại Việt Nam.
2. Thực trạng ĐKKD ở tỉnh BRVT
2.1.

Hoạt động ĐKKD trên địa bàn tỉnh BRVT kể từ khi LDN 2005 và Nghị
định 43/2010/NĐ – CP ra đời

Theo báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh BRVT, khu vực kinh tế tư nhân đã
tăng lên mạnh mẽ. Năm 2007 (tức hơn 1 năm sau khi LDN 2005 có hiệu lực), toàn tỉnh
có 2135 doanh nghiệp ĐKKD và gần 1000 trong số đó là doanh nghiệp tư nhân. Tổng số
vốn đăng ký là hơn 4569 tỷ VNĐ. Năm 2009 có 3057 doanh nghiệp ĐKKD, tổng số vốn
đăng ký là 6054 tỷ VNĐ. Đến năm 2011, toàn tỉnh có 4327 doanh nghiệp ĐKKD, trong
đó hơn ½ tổng số là doanh nghiệp tư nhân với tổng số vốn đăng ký lúc này đã lên gần
9000 tỷ VNĐ. Số doanh nghiệp phần lớn tập trung vào các ngành du lịch, nuôi trông thủy
hải sản, thương mại và xây dựng. Chỉ tính riêng trong năm 2011, tỉnh đã cấp giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp cho 1532 doanh nghiệp trên địa bàn, cấp giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động cho 277 chi nhánh và 41 văn phòng đại diện; trong đó, xét riêng trên

địa bàn TP Vũng Tàu, con số doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp trong năm qua là gần 1000 doanh nghiệp. Như vậy, qua những số liệu trên có thể
nhận thấy đôi điều như sau:

1 Xem bài viết “Tri thức hóa giai cấp công nhân, góp phần xây dựng Bà Rịa – Vũng Tàu trở thành tỉnh công nghiệp
cảng biển theo hướng hiện đại” (Thuận Hữu)

Nguyễn Hải Thanh

21


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

Thứ nhất, hoạt động thành lập doanh nghiệp và ĐKKD trên địa bàn tỉnh tập trung chủ
yếu ở TP Vũng Tàu (chiếm tỷ trọng từ 60% đến 70%). Điều đó cho thấy rằng các tiềm
năng kinh tế tại các địa bàn trong phạm vi tỉnh BRVT có sự chênh lệch nhau, một số nơi
chưa được chú trọng đầu tư cũng như chưa có các biện pháp khuyến khích đầu tư hữu
hiệu.
Thứ hai, căn cứ vào các số liệu của Phòng ĐKKD tỉnh thì có thể thấy số vốn đăng ký
tăng dần qua các năm. Tuy nhiên, số vốn trên thực tế của các doanh nghiệp thường không
sát với số vốn mà các doanh nghiệp đã đăng ký và thường có 2 xu hướng sau:
Một là hầu hết các doanh nghiệp còn có khả năng về vốn cao hơn so với vốn đã đăng ký
nhưng họ sợ nếu đăng ký số lượng vốn lớn sẽ ảnh hưởng đến việc bị đánh thuế cao.
Hai là cũng có một số doanh nghiệp khai khống số vốn thực tế kinh doanh lớn hơn số
vốn đăng ký ban đầu để khuếch trương tiềm lực kinh tế của doanh nghiệp khi tham gia ký
kết hợp đồng với đối tác, đấu thầu…Và hiển nhiên, thực tế khi tiến hành hậu kiểm, nguồn
vốn của doanh nghiệp không đủ căn cứ để chứng minh được như vậy.
Thứ ba, căn cứ vào số doanh nghiệp tăng lên qua các năm cho thấy LDN 2005 và các

văn bản hiện hành (đặc biệt là Nghị định 43/2010/NĐ – CP) đã thực sự “cởi trói” cho các
doanh nghiệp trong quy trình và thủ tục ĐKKD. Chính sự đơn giản, linh hoạt của hoạt
động ĐKKD hiện nay là nhân tố khuyến khích thúc đẩy sự tham gia của các loại hình
doanh nghiệp và sự nâng cao vốn để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh.
Bên cạnh đó, cũng theo báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh BRVT thì kể từ
sau khi LDN 2005 chính thức có hiệu lực thì số doanh nghiệp rời thương trường cũng có
dấu hiệu tăng lên. Cụ thể, năm 2005, số doanh nghiệp giải thể là 48. Năm 2007 số doanh
nghiệp giải thể và phá sản là 95 doanh nghiệp (tăng gần gấp đôi), đến năm 2011 thì con
số này là 167 doanh nghiệp (tăng 248%). Trên thực tế, con số doanh nghiệp bị phá sản,
giải thể có thể lớn hơn con số đã công bố bởi vẫn có không ít doanh nghiệp đã lâm vào
tình trạng phá sản nhưng không làm thủ tục nên chỉ thuộc diện tạm dừng kinh doanh.
Điều này có thể được lý giải như sau:
Thứ nhất, một số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ do đầu tư vào sản xuất ít mà chỉ tập
trung vào thương mại và dịch vụ. Bên cạnh đó, Ngân hàng ngày càng đưa ra những điều
Nguyễn Hải Thanh

22


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

kiện cho vay ngặt nghèo hơn nên đã dần thu hẹp phạm vi tiếp cận sự giúp đỡ từ “tín
dụng” của các doanh nghiệp.
Thứ hai, một số doanh nghiệp có năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh kém (không
có kinh nghiệm, chất lượng dịch vụ, sản phẩm thấp…) nên bị “đào thải” ra khỏi thị
trường.
Thứ ba, LDN 2005 và các văn bản mới ra đời tuy “cởi trói” cho các doanh nghiệp trong
quá trình ĐKKD và tiến hành kinh doanh nhưng chế độ hậu kiểm và các điều kiện có tính
thực tiễn cao. Cơ quan quản lý Nhà nước bắt đầu tiến hành kiểm soát chặt hoạt động kinh

doanh trên thị trường nên những doanh nghiệp nào lợi dụng kẽ hở của LDN 1999 và các
văn bản trước đây để thành lập doanh nghiệp trái pháp luật và không tiến hành khắc phục
trong thời hạn luật định thì đều bị xử lý, tước giấy phép kinh doanh và giấy ĐKKD.
2.2.

Thực hiện quản lý Nhà nước về ĐKKD tại tỉnh BRVT
2.2.1. Sơ lược tổ chức hệ thống ĐKKD ở tỉnh BRVT

Về công tác ĐKKD của tỉnh BRVT được thực hiện theo Nghị định 43/2010/NĐ –
CP của Chính phủ về ĐKKD đã thành lập Phòng ĐKKD cấp tỉnh (thuộc Sở Kế hoạch và
Đầu tư tỉnh BRVT). Các phòng ĐKKD cấp huyện nằm trong phòng Kế hoạch – Tài
chính do Chủ tịch UBND thành phố Vũng Tàu và UBND các huyện của tỉnh phụ trách ký
Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh.
Phòng ĐKKD cấp tỉnh có 7 người: Trưởng phòng, Phó trưởng phòng và chuyên
viên. Trình độ văn hóa đều 100% là đại học và đáp ứng đủ các quy định cụ thể về điều
kiện, yêu cầu về trình độ, tiêu chuẩn của từng chức danh theo quy định của Nhà nước.
Phòng ĐKKD cấp tỉnh được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng được nhu cầu giải
quyết công việc.
Phòng ĐKKD cấp huyện có từ 2 đến 3 người, hầu hết đều là kiêm nhiệm. Trình độ
văn hóa chỉ đạt 80% là đại học. Phương tiện kỹ thuật ở một số huyện còn nhiều thiếu kém
nên việc giải quyết ĐKKD còn gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Phòng ĐKKD nằm trong biên chế hành chính của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh BRVT. Về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Phòng ĐKKD được quy định chi tiết trong
Nguyễn Hải Thanh

23


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”


quy chế làm việc. Nhìn chung, quy chế này được xây dựng và phát triển dựa trên các quy
định của pháp luật hiện hành về ĐKKD.

2.2.2. Hoạt động ĐKKD tại Phòng ĐKKD thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư

tỉnh BRVT.
Hình thức làm việc: Về trình tự, thủ tục ĐKKD, phòng ĐKKD của tỉnh thực hiện
theo Nghị định 43/2010/NĐ – CP về ĐKKD. Ngoài ra, tỉnh không có quy định thêm bất
cứ một thủ tục hau giấy tờ nào khác. Sau khi cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một
cửa, UBND tỉnh BRVT đã triển khai cơ chế “Một cửa liên thông” theo tinh thần của
Nghị định 43 quy định trách nhiệm của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục thuế, và Công an
tỉnh cùng phối hợp để thực hiện giải quyết thủ tục thành lập doanh nghiệp và cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Với cơ chế
này, thời gian thực hiện tất cả các thủ tục ĐKKD tại Phòng ĐKKD tỉnh chỉ mất 6 ngày,
hai lần đi lại (nộp hồ sơ và nhận kết quả), chỉ kê khai một lần và đến một nơi duy nhất là
“Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả” tại Sở Kế hoạch và Đầu tư của tỉnh. So với trước đây
thì hoạt động cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Phòng ĐKKD tỉnh đã trở
nên nhẹ nhàng hơn.
Phương thức làm việc: Phòng ĐKKD tỉnh hỗ trợ thông tin cho người muốn
ĐKKD khi họ trực tiếp đến Phòng ĐKKD tỉnh làm thủ tục đăng ký. Tại đây, các cán bộ
làm công tác ĐKKD tiến hành giải thích cho các đối tượng muốn ĐKKD về sự khác nhau
giữa các loại hình doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ của các thành viên khi tham gia
thành lập doanh nghiệp, những điều kiện khi tiến hành kinh doanh một số ngành, nghề có
điều kiện…và khi đăng ký thành lập doanh nghiệp thì trực tiếp hướng dẫn, cung cấp miễn
phí các tờ khai. Đối với vấn đề quản lý việc đặt tên của doanh nghiệp, Phòng ĐKKD của
tỉnh sau khi tiếp nhận hồ sơ sẽ kiểm tra tên của doanh nghiệp thông qua Cổng thông tin
đăng ký doanh nghiệp. Với cách làm này, Phòng ĐKKD tỉnh tiết kiệm được thời gian xử
lý hồ sơ của doanh nghiệp so với trước đây mà kết quả thì chính xác hơn rất nhiều.
2.2.3. Hoạt động hỗ trợ thực hiện pháp luật về ĐKKD tại tỉnh BRVT


Nguyễn Hải Thanh

24


Tiểu luận tốt nghiệp:“Hoạt động đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành & Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

Để công tác quản lý Nhà nước về ĐKKD được thực hiện hiệu quả, các cơ quan
quản lý Nhà nước tỉnh BRVT đã thực hiện khá nhiều hoạt động hỗ trợ thiết thực nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trên địa bàn tiến hành ĐKKD. Cụ thể là:
-

-

-

Thường xuyên mở lớp khởi sự doanh nghiệp, tuyên truyền luật doanh nghiệp,
hướng dẫn thủ tục, nghiệp vụ kinh doanh do Trung tâm Tư vấn Doanh nghiệp
thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh phối hợp với UBND các cấp. Cho đến nay đã tổ
chức được 4 lớp tập huấn về Luật doanh nghiệp, 17 lớp khởi sự doanh nghiệp và
quản trị kinh doanh, 2 lớp đào tạo nghề và tư vấn ngắn hạn cho 50 doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh đã chủ trì phối hợp
với Trường Chính Trị tỉnh BRVT, Ban Tổ chức cán bộ - Lao động tỉnh tổ chức
lớp học và cấp chứng chỉ cho nhiều học viên về khóa học thành lập doanh nghiệp;
phối hợp với Liên minh Hợp tác xã tỉnh tổ chức bồi dưỡng ngắn hạn cho chủ
doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh, Ban chủ nhiệm Hợp tác xã. Kết quả đạt được là
số lượng các nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư các tỉnh ngoài xin đầu tư tại tỉnh
đã tăng dần qua các năm.

Do nhận thức và đánh giá đúng vai trò, vị trí của doanh nghiệp và hộ kinh doanh
trong phát triển kinh tế - xã hội nên lãnh đạo các ngành, các cấp của tỉnh BRVT đã
ban hành nhiều biện pháp hỗ trợ, chính sách ưu đãi đầu tư, trình tự, thủ tục đầu tư,
bồi thường…tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư theo hướng đơn giản hóa
thủ tục hành chính và khuyến khích kinh tế trên địa bàn phát triển.
Hằng năm, tỉnh BRVT đều tổ chức các cuộc gặp mặt đối thoại trực tiếp để lãnh
đạo tỉnh, cơ quan quản lý ngành và các doanh nghiệp trên địa bàn trao đổi những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi LDN 2005 và các chính sách tỉnh.
2.3.

Hậu kiểm đối với hoạt động của doanh nghiệp sau khi ĐKKD

Đây là một hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp sau khi
ĐKKD của các cơ quan Nhà nước. Thông qua chế độ hậu kiểm, cơ quan Nhà nước có thể
phát hiện được những hành vi vi phạm trong quá trình thực hiện ĐKKD như: kinh doanh
ngành nghề không đúng với phạm vi được cấp trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp, kinh doanh thêm ngành nghề mới mà không tiến hành bổ sung trong Giấy chứng
nhận doanh nghiệp, không tiến hành hoạt động kinh doanh đã đăng ký sau khi được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp… Trong nhiều năm qua, Sở Kế hoạch và Đầu tư
Nguyễn Hải Thanh

25


×