Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.05 KB, 16 trang )

Mục lục
A. Lời nói đầu.
B. Nội dung.
I. Một số vấn đề cơ bản về pháp luật thuế nhập khẩu.
1, Khái niệm thuế nhập khẩu.
2, Các đặc trưng cơ bản của thuế nhập khẩu.
3, Vai trò của thuế nhập khẩu.
4, Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế nhập khẩu
4.1, Người nộp thuế.
4.2, Người thu thuế.
II, Tình hình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong
thời gian qua:
III, Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập
khẩu ở Việt Nam hiện nay:
1, Những yếu tố chung ảnh hưởng đến chính sách, pháp luật thuế
nhập khẩu.
- Tình hình kinh tế, chính trị trong nước, quốc tế và các chính sách
thương mại của quốc gia
- Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế
2, Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập
khẩu.
2.1, Ý thức chấp hành của chủ thể nộp thuế .
2.2, Trình độ công chức quản lý thuế còn nhiều hạn chế.
2.3, Trong thực thi pháp luật thuế nhập khẩu còn nhiều tiêu cực.
2.4, Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ.
2.5, Hệ thống pháp luật thuế
2.6, Tình trạng khiếu nại tố cáo không được giải quyết thoả đáng.
2.7, Tác động của kinh tế thế giới.
IV. Một số giải pháp nhằm tăng khả năng thực thi pháp luật thuế
nhập khẩu.
1, Về đội ngũ cán bộ hải quan


2, Ý thức của người nộp thuế
3, Về cơ sở vật chất
4, Về thu hồi nợ
5, Về hội nhập kinh tế thế giới
C. Kết luận
Tài liệu tham khảo

1
1
1
1
1
2
2
2
2
3
5
5
5
5
6
6
7
8
9
9
9
9
11

11
12
12
13
13
14
15

1


Đề bài: Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế
nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
Bài làm
A. Lời nói đầu.
Thuế là một trong những công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều hành
và quản lý nền kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Ngày nay
khi xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng, thì việc các
doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu là điều tất yếu. Theo đó, thuế
nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu thuế. Tuy
nhiên, thực tiễn áp dụng luật thuế nhập khẩu trong thời gian qua còn tồn tại, hạn
chế cần khắc phục. Do đặt ra yêu cầu đánh giá những yếu tố nào đã tác động ảnh
hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
B. Nội dung.
I. Một số vấn đề cơ bản về pháp luật thuế nhập khẩu.
1, Khái niệm thuế nhập khẩu.
Thuế nhập khẩu là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào
ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi nhập khẩu
hàng hóa qua biên giới một nước.
Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với một số sắc thuế nội địa nhưng thuế

nhập khẩu đã nhanh chóng khẳng định được vai trò của mình đối với nền kinh tế
quốc gia. Trong cấu trúc hệ thống thuế, thuế nhập khẩu có vai trò, ý nghĩa thiết
thực, không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước hằng năm, mà còn là
công cụ để Nhà nước kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong
nước và thực hiện các mục tiêu đối ngoại.
2, Các đặc trưng cơ bản của thuế nhập khẩu.
Thứ nhất, thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được
phép vận chuyển qua biên giới.
Thứ hai, thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế gián
thu. Nếu người nộp thuế nhập khẩu tự tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu thì khoản
thuế đó có tính chất là thuế trực thu, còn nếu họ bán cho người khác thì có tính
chất là thuế gián thu vì người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một
2


Thứ ba, thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất hàng
hóa trong nước và điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu.
3, Vai trò của thuế nhập khẩu.
- Thứ nhất, thuế nhập khẩu tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Thứ hai, thuế nhập khẩu điều tiết hoạt động kinh tế.
- Thứ ba, thuế nhập khẩu hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội.
4, Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế nhập khẩu
4.1, Người nộp thuế.
Theo quy định tại Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005, người
nộp thuế là tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu theo quy định của Luật thuế
xuất khẩu, nhập khẩu.
Tổ chức, cá nhân là người nộp thuế nhập khẩu khi có hai điều kiện:
- Thứ nhất, là người trực tiếp đứng tên làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa nước
ngoài.
- Thứ hai, hàng hóa do chủ thể đó nhập khẩu với nước ngoài thuộc đối tượng

chịu thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật về thuế nhập khẩu.
4.2, Người thu thuế.
Trong lĩnh vực hành thu thuế nhập khẩu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tổ chức việc thu thuế nhập khẩu là Tổng cục Hải quan. Theo Điều 27 Luật thuế
xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005 về trách nhiệm của cơ quan hải quan: “Cơ quan
hải quan có trách nhiệm kiểm tra và thu thuế theo quy định của Luật này và Luật
hải quan”. Ngoài Tổng cục Hải quan chịu trách nhiệm chính còn phối hợp với
một số cơ quan hữu trách khác như Bộ Tài chính, Kho bạc nhà nước, Tổng cục
thuế,…
Theo Điều 11 Luật Hải quan 2001 sửa đổi, bổ sung một số điều năm
2005 cũng đã xác định cụ thể về nhiệm vụ của hải quan : “Hải quan Việt nam có
nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng,
chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện
pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý Nhà nước về hải

3


quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh
và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.”
II, Tình hình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian
qua:
Sáng 29.12, tại Hà Nội, Tổng cục thuế đã tổ chức Hội nghị Tổng kết công
tác thuế năm 2010, triển khai nhiệm vụ biện pháp công tác thuế năm 2011. Năm
2010 và giai đoạn 2006 - 2010, nhiệm vụ thu ngân sách do ngành Thuế quản lý
hoàn thành vượt mục tiêu đã đề ra, tạo nguồn lực để đầu tư phát triển KT - XH.
Cụ thể, thu ngân sách năm 2010 do ngành Thuế quản lý ước đạt 400.800 tỷ
đồng, vượt 11% so với dự toán pháp lệnh, tăng 21,4% so với cùng kỳ.
Về công tác thu thuế xuất nhập khẩu, Hải quan Hà Nội đã tổ chức thực

hiện các biện pháp đôn đốc, thu đòi, xử lý nợ đọng thuế và tập trung giải quyết
các vướng mắc tồn tại, không để phát sinh nợ mới. Đồng thời, rà soát, sửa đổi bổ
sung 5 lần danh mục hàng trọng điểm cho phù hợp với thực tế quản lý trên địa
bàn; Triển khai dự án hiện đại hoá thu nộp ngân sách nhà nước qua ngân hàng
thương mại tại 9 chi cục trên địa bàn Hà Nội. Kết quả tính đến ngày 31/12/2010,
số thuế Cục Hải quan Hà Nội thu nộp ngân sách đạt 16.465,4 tỷ đồng, đạt
159,9% chỉ tiêu giao.
Về công tác kiểm soát hải quan, đã tăng cường công tác điều tra, nghiên
cứu nắm tình hình đối với địa bàn, tuyến trọng điểm. Thường xuyên phối hợp,
trao đổi, thu thập thông tin với các chi cục, cục hải quan các tỉnh, lực lượng cảnh
sát kinh tế, biên phòng, quản lý thị trường… trong công tác điều tra cơ bản, đấu
tranh chống buôn lậu. Trong năm 2010, Cục đã thụ lý 971 vụ vi phạm hành
chính về hải quan do các Chi cục chuyển về; đã xử lý theo thẩm quyền, tham
mưu cho lãnh đạo Cục ra quyết định xử phạt 72 vụ, tổng số tiền phạt thu nộp
ngân sách là 2,16 tỷ đồng. Năm 2010, công tác kiểm tra sau thông quan cũng đã
đi vào chiều sâu và đạt được kết quả cao. Qua kiểm tra sau thông quan đã thu
thập, cập nhật thông tin đánh giá được sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp,
nhờ đó, doanh nghiệp tuân thủ tốt hơn, tạo môi trường bình đẳng, lành mạnh
trong hoạt động thương mại; phối hợp cung cấp thông tin về doanh nghiệp, mặt

4


hàng, thủ đoạn gian lận để khâu thông quan kiểm tra ngay, phát hiện sớm không
để gian lận tràn lan khó thu khi phát hiện.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại, hạn chế như việc xây dựng dự toán chưa sát
với thực tế nguồn thu phát sinh, việc phân tích dự báo chưa kịp thời; tình trạng
thất thu thuế ở một số khoản thu, sắc thuế vẫn còn, thậm chí khá phổ biến, nhất
là những đô thị, thành phố lớn...
Về nhiệm vụ công tác thuế năm 2011, toàn ngành phấn đấu hoàn thành

vượt mức ít nhất 5% nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2011 đã được QH,
Chính phủ và Bộ Tài chính giao là 451.300 tỷ đồng; triển khai thực hiện tốt Nghị
định 51/CP về hóa đơn, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất phát triển, phòng
chống hiệu quả những vi phạm gây thất thu ngân sách; đẩy mạnh tiến trình cải
cách hiện đại hóa hệ thống thuế, tiếp tục rà soát, cải cách thủ tục hành chính
thuế...
Thuế nhập khẩu ở nước ta đóng vai trò quan trọng trong việc thu ngân
sách quốc gia (chiếm khoảng 30% tổng thu ngân sách). Điển hình trong giai
đoạn 2001 - 2005, ngành hải quan luôn đạt và vượt chỉ tiêu thu ngân sách, góp
phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách của Bộ Tài chính. Số thu năm
sau luôn cao hơn số thu năm trước, cụ thể: năm 2001 đạt 29.381 tỷ đồng, năm
2002 đạt 36.784 tỷ đồng, năm 2003 đạt 39.178 tỷ đồng, năm 2004 đạt 46.017 tỷ
đồng, năm 2005 đạt 52.000 tỷ đồng và năm 2006 đạt khoảng 58.000 tỷ đồng (tốc
độ tăng thu bình quân hàng năm 15%). Đây là một nỗ lực rất lớn của ngành hải
quan trong bối cảnh chúng ta đang thực hiện cắt giảm thuế quan theo các cam
kết quốc tế (như cắt giảm thuế theo lộ trình thực hiện CEPT trong ASEAN, các
hiệp định song phương và gia nhập WTO). Thuế nhập khẩu là loại thuế có liên
quan đến yếu tố nước ngoài, đồng thời ảnh hưởng lớn đến vấn đề tự do hóa
thương mại. Vì thế bất kỳ một quốc gia nào chấp nhận con đường hội nhập đều
phải chấp nhận ràng buộc với các cam kết quốc tế, mà nội dung chủ yếu của các
cam kết đó là dỡ bỏ hàng rào thương mại, đặc biệt là hàng rào thuế nhập khẩu.
Trong những năm qua, cùng với việc sửa đổi, bổ sung và ban hành, áp
dụng mới các sắc thuế nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước, pháp luật về thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng đã từng bước
5


được xây dựng và hoàn thiện. Với vị trí, vai trò quan trọng, việc phân tích, đánh
giá các yếu tố tác động đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu là rất cần
thiết.

III, Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập
khẩu ở Việt Nam hiện nay:
1, Những yếu tố chung ảnh hưởng đến chính sách, pháp luật thuế nhập
khẩu.
- Tình hình kinh tế, chính trị trong nước, quốc tế và các chính sách thương
mại của quốc gia
Đây là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách thuế nhập
khẩu và nội dung pháp luật thực định về thuế nhập khẩu trong từng giai đoạn.
Các chính sách và pháp luật về thuế nhập khẩu cũng chỉ là tấm gương phản chiếu
thực trạng tình hình kinh tế và xã hội trong nước và quốc tế. Xuất phát từ nhu
cầu đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích chung của từng quốc gia với lợi ích riêng
của từng doanh nghiệp, từng cá nhân và hộ gia đình, chính sách thuế nhập khẩu
trong từng thời kỳ có thể sẽ được xây dựng và thực hiện theo hướng thiên về
mục tiêu bảo hộ; mục tiêu tăng thu ngân sách hay mục tiêu tự do hóa thương
mại…
- Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế
Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng quan trọng
đến nội dung, chính sách thuế xuất nhập khẩu của quốc gia trong từng giai đoạn
cụ thể.
Đối với Việt Nam, Nhà nước ta quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng
về hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực hội nhập để hoàn thiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đảm bảo tối đa hóa lợi ích từ các
công cụ thuế, tối thiểu hóa các chi phí trong quá trình hội nhập, đồng thời phù
hợp với thông lệ quốc tế.
Những thay đổi lớn trong chính sách thuế nhập khẩu bắt đầu từ năm 1998
với cam kết giảm thuế theo quy định của AFTA, tiếp đó là những các cam kết
giảm thuế theo hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ và Hiệp định WTO.
Những cam kết về thuế quan mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc sẽ tham gia ký
6



kết thể hiện mức độ hội nhập của quốc gia. Các cam kết này là cơ sở để điều
chỉnh các quan hệ kinh tế tài chính trong nước với nước ngoài và giữ vai trò chi
phối đối với nội dung các quy định của pháp luật. Do đó, khi tham gia cần phải
có kế hoạch cụ thể, xây dựng lộ trình cắt giảm phù hợp.
2, Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu.
2.1, Ý thức chấp hành của chủ thể nộp thuế .
Nộp thuế là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật, tuy
nhiên, do các lợi ích nhận được của nhà nước thường không cụ thể, nên thay vì
hợp tác, nhiều chủ thể nộp thuế sử dụng nhiều thủ đoạn để làm giảm số thuế phải
nộp thậm chí vi phạm pháp luật. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
việc thực thi Luật thuế nhập khẩu, biểu hiện cụ thể như
Về giá tính thuế nhập khẩu: Khai báo không trung thực giá tính thuế nhập
khẩu mà khai giá nhập khẩu thấp hơn; về chất lượng hàng những chủ thể nộp
thuế thường khai chất lượng hàng thấp hơn so với thực tế nhằm trốn thuế nhập
khẩu; Khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo,…
Về thuế suất, biểu hiện bằng các hành vi gian lận giấy chứng nhận xuất xứ
hàng hóa, khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về
thuế đối với các nước mà Việt Nam cam kết giảm thuế; Khai báo gian dối về tên
hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn,…
Cùng với đó, là các khoản nợ thuế. Các khoản nợ này chủ yếu là do Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có hiệu lực thi hành trước 1/1/2006 cho phép DN
được nợ thuế mà không ràng buộc điều kiện phải là DN chấp hành tốt pháp luật
thuế; một số DN lợi dụng chính sách ân hạn thuế của Nhà nước để chây ỳ nợ
thuế, không nộp thuế đúng hạn, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể (khi cơ quan hải
quan đi xác minh những đối tượng này để thu đòi nợ thuế thì phát hiện tình
trạng người đứng tên chủ DN là người được thuê mượn tên, không phải là người
đầu tư vốn nên không có năng lực về tài chính, kinh tế, thậm chí nhiều người

7



không có nhà cửa, tài sản, hoặc là chủ doanh nghiệp nhưng cố tình lẩn trốn
pháp luật) dẫn đến cơ quan hải quan không thu hồi được nợ thuế.
2.2, Trình độ công chức quản lý thuế còn nhiều hạn chế.
Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật thuế có nhiều thay đổi căn
bản, bên cạnh đó, những thủ đoạn gian lận thuế ngày càng tinh vi hơn đã gây khó
khăn không nhỏ cho công tác quản lý thuế.
Mặc dù hầu hết công chức quản lý thuế đều ý thức được việc trau dồi, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng mức độ không đồng đều. Nhiều địa
phương, trình độ học vấn của công chức quản lý thuế chưa đáp ứng được yêu cầu
công tác, nên khi thực hiện công tác áp dụng pháp luật còn nhiều lúng túng, làm
sai hoặc sợ làm sai dẫn đến chậm trễ trong việc ra quyết định. Ngoài ra còn tình
trạng sách nhiễu, gây khó khăn nhiều trường hợp, đáng lẽ có thể giải quyết ngay,
nhưng vẫn cẩn thận kiểm tra, gây ách tắc, chậm trễ, ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một số biểu hiện có thể kể đến như:
- Xác định sai số tiền thuế
Việc xác định số tiền thuế có thể do cơ quan hải quan trực tiếp hoặc kiểm
tra việc tự xác định chủ thể nộp thuế. Do thuế nhập khẩu có nhiều biểu thuế suất
khác nhau và thường xuyên thay đổi, nên cơ quan thuế rất dễ mắc sai lầm. Cụ thể
như: áp dụng sai mã hàng hoá dẫn đến áp dụng thuế suất không đúng; không xác
định chính xác xuất xứ hàng hoá để áp dụng theo biểu thuế suất phù hợp; không
kiểm tra tính chân thực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà áp dụng
ngay các phương pháp xác định trị giá hải quan khác,…
- Quyết định miễn thuế, giảm thuế
Những hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế hoặc hoàn thuế bị cơ quan thuế
xử lý một cách chậm trễ. Một số cán bộ còn đòi hỏi những điều kiện về giấy tờ,
hồ sơ, sổ sách vượt ra ngoài những yêu cầu của pháp luật. Những yêu cầu quá

8



mức này đã cản trở chủ thể nộp thuế thực hiện quyền của mình một cách hợp
pháp, làm giảm tác động tích cực của chính sách ưu đãi thuế.
Ngoài ra, việc vận dụng tại các cơ quan quản lý thuế tại địa phương còn
nhiều lúng túng, việc ra quyết định còn trông chờ hướng dẫn của cấp trên. Nhiều
thắc mắc, kiến nghị của các Cục thuế địa phương thực chất đều đã có các văn
bản, thông tư hướng dẫn thi hành cụ thể.
2.3, Trong thực thi pháp luật thuế nhập khẩu còn nhiều tiêu cực.
Trong ngành Hải quan, công tác quản lý đội ngũ cán bộ để làm sao cán bộ
phải làm hết trách nhiệm của mình mà vẫn giữ được phẩm chất. Bởi vì trong
hoạt động thường ngày, nhiều vấn đề giữa cán bộ hải quan và doanh nghiệp ngẫu
nhiên có sự tương đồng. Một bộ phận cán bộ hải quan ham muốn về vật chất và
một bộ phận doanh nghiệp muốn “lượn lách” để tránh né nghĩa vụ đối với Nhà
nước rất dễ gặp nhau.
Những tiêu cực như vòi vĩnh, gây khó dễ, đưa và nhận hối lộ, cán bộ thuế
thông đồng với chủ thể nộp thuế để gian lận hoặc bằng nhiều hình thức tinh vi
khác vẫn còn xảy ra.
Về cách xử lý chưa thể hiện được thái độ kiên quyết, nhiều khi theo lệ phải
tuần tự đi từ thấp lên cao: khiển trách, cảnh cáo, đến hạ lương rồi mới cách chức
hoặc đưa ra khỏi ngành. Nhiều “công đoạn” phải đi qua nhiều cấp, xử lý theo
thẩm quyền của đơn vị từ dưới lên trên. Quá trình như vậy sẽ hạn chế cho việc
chấn chỉnh những tiêu cực trong ngành Hải quan nói riêng và kể cả các ngành
khác.
Những hành vi này đã làm thất thoát ngân sách nhà nước, phát sinh nhiều
vấn đề về dẫn khiếu kiện, tố cáo; làm ảnh hưởng niềm tin của người dân vào
ngành Hải quan cũng như các cơ quan có thẩm quyền.
Trong thời gian vừa qua, công tác phòng và chống tham nhũng được đẩy
mạnh, phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng đã phát hiện và xử lý


9


nhiều hành vi tiêu cực, tham nhũng. Nhưng qua đó, ta cũng thấy hiện tượng này
còn khá phổ biến, với thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn.
2.4, Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ.
Hiện nay, việc triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho ngành thuế
nhìn chung còn chậm và chưa đồng đều, cùng với hạn chế trong công tác đào tạo
công chức quản lý thuế và chủ thể nộp thuế về các kỹ năng cần thiết để sử dụng
công nghệ thông tin, nên đã hạn chế đáng kể đến hiệu quả áp dụng pháp luật.
2.5, Hệ thống pháp luật thuế
Nếu pháp luật phù hợp với thực tiễn kinh tế xã hội và có tính định hướng,
thì sẽ góp phần phát triển kinh tế xã hội và ngược lại, nếu pháp luật bất cập thì sẽ
kìm hãm sự phát triển. Hệ thống pháp luật thuế của nước ta hiện nay đang trong
giai đoạn hoàn thiện nên không tránh khỏi những bất cập. Hiện nay, hệ thống
pháp luật thuế còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo và không hợp lý, nên
khi áp dụng vào thực tiễn sẽ gặp khó khăn, không hiệu quả.
2.6, Tình trạng khiếu nại tố cáo không được giải quyết thoả đáng.
Khiếu nại, tố cáo là quyền của cá nhân, tổ chức, bên cạnh những trường
hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo thoả đáng được thực hiện nhanh chóng, đúng
pháp luật, cũng vẫn còn xảy ra tình trạng khiếu nại tố cáo không được giải quyết
đúng thời hạn, vòng vo làm ảnh hưởng về thời gian lẫ tiền bạc của cá nhân, tổ
chức khiếu nại, tố cáo.
2.7, Tác động của kinh tế thế giới.
Đúng một ngày sau khi Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150
của tổ chức WTO, ngày 8/11/2006 Bộ Tài chính đã công bố một số nội dung các
cam kết về thuế.

10



Theo đó nhiều người đã đặt vấn đề: nguồn thu ngân sách sẽ bị ảnh hưởng
khi thực hiện việc cắt giảm thuế nhập khẩu, và có giải pháp nào để đảm bảo
nguồn thu không thiếu hụt.
Cụ thể một số cam kết về thuế quan của Việt Nam trong WTO như:
- Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành
gồm 10.600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi
23% so với mức bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4%
xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện sau 5-7 năm;
- Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế khoảng 3.800
dòng thuế (chiếm 35,5% dòng của Biểu); ràng buộc ở mức thuế hiện hành
khoảng 3.700 dòng (34,5% số dòng); ràng buộc ở mức thuế trần, cao hơn mức
hiện hành với khoảng 3.170 dòng thuế (30 số dòng), chủ yếu là với nhóm hàng
xăng dầu, kim loại, hóa chất, một số phương tiện vận tải; Một số mặt hàng có
thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm ngay khi gia nhập;…
Ngoài ra trong khu vực, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã có Quyết định số
09/2006/QĐ-BTC ban hành Danh mục hàng hoá và mức thuế suất thuế nhập
khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu
đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN, giai đoạn 2006 2013.
Theo đó, từ nay đến 2013, gần 10.000 dòng thuế nhập khẩu sẽ có mức
thuế suất nhập khẩu 0-5%. Đa số các loại sản phẩm này đều đã được giảm thuế
xuống 0-5% từ đầu năm 2006. Một số sản phẩm lúa gạo và thực phẩm đang chịu
mức thuế cao cũng sẽ nhanh chóng giảm xuống 5%...Thuế nhập khẩu đối với
toàn bộ các sản phẩm sẽ tiếp tục được xóa bỏ vào năm 2010 đối với 6 nước sáng
lập và vào năm 2015 đối với 4 nước thành viên mới bao gồm Việt Nam, Lào,
Myanmar và Campuchia…
Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết gia nhập WTO sẽ làm ảnh
hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, việc thực hiện các cam
kết này không gây tác động tiêu cực cho nguồn thu ngân sách.
Việc giảm thuế sẽ làm tăng kim ngạch thương mại nói chung, dẫn đến

tăng thu về lượng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, GTGT. Theo đó, tác
11


động trực tiếp của cắt giảm thuế suất sẽ chỉ làm giảm số thu khoảng 10% tổng số
thu thuế từ hoạt động nhập khẩu. Nếu thực hiện thành công các cam kết trong
WTO sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nguồn thu ngân sách Nhà nước cũng sẽ
tăng lên, do vậy nếu xét trong dài hạn thì sẽ có lợi hơn.
IV. Một số giải pháp nhằm tăng khả năng thực thi pháp luật thuế
nhập khẩu.
1, Về đội ngũ cán bộ hải quan
Một là, xây dựng quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức của Hải
quan. Đó là các quy định về các điều kiện cử cán bộ đi học tập, bồi dưỡng, các
chế độ khuyến khích, hỗ trợ cán bộ công chức tham gia các khoá đào tạo…
Thứ hai là, xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Việc xây
dựng các kế hoạch cần phải bám sát nhu cầu của đội ngũ cán bộ công chức hải
quan dựa trên những kết quả khảo sát thực tế. Ngoài ra các kế hoạch cần xác
định rõ mục tiêu, đối tượng ưu tiên cho từng giai đoạn. Khi các kế hoạch đã
được duyệt, cần tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh để đạt được các mục tiêu đặt ra.
Thứ ba, đối với mỗi cán bộ công chức hải quan, cần xác định tự học là
phẩm chất tối cần thiết, nhất là trong điều kiện xã hội thông tin ngày càng rộng
mở. Cán bộ công chức hải quan phải có tinh thần tự học, tự tìm câu trả lời cho
chính mình, tự khơi dây sự ham hiểu biết, lòng say mê học tập, nỗ lực tự học, tự
nghiên cứu …Trong học tập, bồi dưỡng, từng cán bộ công chức hải quan phải
đặt mục tiêu và thái độ học tập của mình lên hàng đầu.
Ngoài ra, chú trọng đến việc đào tạo và đào tạo lại, quy hoạch, luân
chuyển cán bộ. Việc luân chuyển cán bộ được thực hiện thường xuyên; tạo ra
môi trường bình đẳng, trong sạch trong cán bộ đảng viên, cán bộ công chức có
cơ hội phấn đấu vào vị trí lãnh đạo, quản lý phù hợp với năng lực, phẩm chất và
sở trường của mình.

Theo đó, để từng bước xây dựng, đội ngũ cán bộ hải quan chuyên nghiệp,
vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị; đội ngũ công chức tin

12


học có trình độ chuyên môn sâu đáp ứng cho việc triển khai công tác ứng dụng
tin học trong hoạt động quản lý hải quan điện tử để thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao.
2, Ý thức của người nộp thuế
Cần nhận thức rằng, ý thức chấp hành pháp luật thuế không phải có được
ngay lập tức bằng các mệnh lệnh hành chính. Nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa ở nước ta còn non trẻ, do vậy chưa đủ thời gian để các cá nhân, tổ chức
trong xã hội thật sự quen với những đòi hỏi của nó, trong đó có nghĩa vụ nộp
thuế. Theo đó, ý thức chấp hành pháp luật cần được nâng lên thông qua nhiều
phương thức, trong đó, công tác tuyên truyền phổ biến phải được thực hiện hiệu
quả như sử dụng nhiều kênh thông tin đại chúng như truyền hình, báo viết và
internet.
Mọi người dân có hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc không có hoạt động
sản xuất kinh doanh đều phải có hiểu biết về luật thuế nhập khẩu cũng như các
luật thuế khác. Ngành giáo dục có thể bổ sung một số tiết dạy cơ bản về pháp
luật thuế, để tăng ý thức từ lúc thanh thiếu niên phải có trách nhiệm và nghĩa vụ
đối với đất nước là điều tất yếu và cần thiết trong mỗi người công dân.
3, Về cơ sở vật chất
Việc mở rộng thủ tục hải quan điện tử tới 13 Cục Hải quan tỉnh thành phố
kết hợp với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính (trọng tâm là cải cách thủ tục
hải quan) theo Đề án 30 của Chính phủ đã tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập
khẩu cũng là yếu tố quan trọng góp phần tăng thu thuế.
Đẩy mạnh thực hiện thủ tục hải quan điện tử; phấn đấu đến 30/6/2011 có
15 Cục Hải quan tỉnh, thành phố; đến 31/12/2011 có từ 18-20 Cục Hải quan tỉnh,

thành phố thực hiện thủ tục hải quan điện tử; Đối với 10 Cục Hải quan đã triển
khai thoe QĐ 103/2009/QĐ-TTg phấn đấu đạt 100% Chi Cục, 80% kim ngạch
và tờ khai; 03 Cục Hải quan bắt đầu triển khai đạt 100% Chi Cục, 50% kim
ngạch, tờ khai thực hiện TTHQĐT;

13


Đảm bảo kinh phí và đẩy nhanh tiến độ trang bị cơ sở vật chất, phương
tiện, trang thiết bị hiện đại phục vụ các hoạt động nghiệp vụ và hiện đại hoá hải
quan. Phấn đấu trong năm 2011 công tác chi con người, cho bộ máy hoạt động:
giải ngân đạt 98%; chi cho mua sắm, đầu tư trang thiết bị: Giải ngân đạt 90%.
Đẩy mạnh triển khai công tác hiện đại hoá công tác văn phòng tạo môi
trường làm việc văn minh, hiện đại từng bước xây dựng mô hinh văn phòng
không giấy tờ.
4, Về thu hồi nợ
Để phấn đấu thu hồi nợ cũ, hạn chế phát sinh nợ thuế mới, ngành đã nỗ
lực thực hiện một số giải pháp như: báo cáo Bộ Tài chính kiến nghị Chính phủ,
Quốc hội sửa Luật theo hướng quy định phải là DN chấp hành tốt pháp luật mới
được áp dụng thời hạn nộp thuế; quy định người nộp thuế phải nộp thuế theo
trình tự; áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ đọng thuế…
Bên cạnh đó, cần thường xuyên thực hiện các biện pháp tăng cường và
phát huy sử dụng các công cụ kiểm tra sau thông quan, phân tích phân loại, điều
tra chống buôn lậu để chống gian lận thương mại, chống gian lận, trốn thuế qua
giá, phân loại mã số, áp dụng mức thuế, số lượng. Phân công theo dõi chuyên
quản doanh nghiệp, đề nghị các DN nộp thuế đúng hạn; trực tiếp đến DN đôn
đốc thu hồi nợ, lập biên bản đối chiếu công nợ; Phối hợp với Công an, Viện
Kiểm soát trong công tác thu đòi nợ thuế…
5, Về hội nhập kinh tế thế giới
Việc cắt giảm thuế nhập khẩu, vốn chiếm khoảng trên 22% trong tổng

nguồn thu ngân sách cả nước trong thời gian qua, chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng
đến việc đảm bảo các nhu cầu chi thường xuyên, đầu tư phát triển và trả nợ của
quốc gia. Để bù đắp vào khoản thiếu hụt này, cần tăng các khoản thuế nội địa,
trong đó cần xác định cơ cấu hợp lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu (hiện nay
tỷ trọng thuế gián thu chiếm ưu thế hơn thuế trực thu) tránh ảnh hưởng đến
người dân
14


Cụ thể như, với thuế GTGT: mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp thuế suất;
mở rộng các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, đây là những mặt hàng ít ảnh
hưởng đến đời sống chung của đại đa số nhân dân; có thể tăng Thuế thu nhập cá
nhân đối với người có thu nhập cao hiện nay,...
Ngoài ra, tiếp tục đơn giản hoá thủ tục, các văn bản thuế phải đảm bảo
nguyên tắc, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. Rà soát lại toàn bộ những văn
bản hướng dẫn thi hành luật thuế, nghiên cứu, xem xét làm rõ cách giải thích, từ
ngữ và nội dung của các văn bản.
C. Kết luận
Từ thực tiễn kết hợp với những phân tích ở trên, có thể thấy để việc thực
thi pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng kể cả về
mặt chủ quan lẫn khách quan. Do đó cần nhiều biện pháp đan xem, trong đó tăng
cường giáo dục và nâng cao quản lý của Nhà nước phải đi song song với nhau,
hỗ trợ nhau; từ đó tạo điều kiện cho người dân thực hiện nghĩa vụ của mình với
ngân sách Nhà nước.

15


Tài liệu tham khảo
1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an,

Hà Nội, 2008.
2, Phạm Thị Giang Thu, “Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 3, tháng
3/2008.
3, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
4, Luật thuế TTĐB năm 2008.
5, Luật Hải quan 2001 sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2005
6, Nghị định 87/2010/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
7, Nghị định 40/2007/NĐ-CP về xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu
8,
9,

16



×