Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bình luận các điều kiện chi ngân sách nhà nước (quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.24 KB, 14 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngân sách Nhà nước được coi là “đạo luật ngân sách thường niên” của
quốc gia. Nhìn nhận ngân sách nhà nước dưới phương diện pháp lý thì Ngân
sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà. Ngân sách nhà nước được thiết lập
và thực thi hoàn toàn vì lợi ích chung của toàn thể quốc gia, không phân biệt đối
tượng nào được hưởng thụ, đối tượng nào không. Vì vậy, cần đặt ra vấn đề là
làm thế nào để chi tiêu có hiệu quả, sử dụng hợp lý để tận dụng triệt để các
nguồn thu, tránh lãng phí, thất thoát? Để có cái nhìn tổng quan về vấn đề này, em
chọn đề bài: “Bình luận các điều kiện chi ngân sách nhà nước (quy định pháp
luật và thực tiễn áp dụng)”

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát chung về chi ngân sách nhà nước
1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân sách, là quá trình
phân phối nguồn tiền tệ nằm trong quỹ ngân sách nh ànước để chi dùng vào
những mục đích khác nhau. Nếu hoạt động thu ngân sách nhà nước là nhằm thu
hút các nguồn vốn tiền tệ để hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước thì chi ngân
sách nhà nước chính là chu trình phân phối, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ đã
được tập trung vào quỹ tiền tệ đó. Do hoạt động thu ngân sách nhà nước vừa là
tiền đề, vừa là cơ sở cho việc thực hiện hoạt động chi ngân sách nhà nước nên
phạm vi và quy mô của hoạt động chi ngân sách nhà nước phụ thuộc một phần
vào kết quả của hoạt động thu ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước là phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước theo dự toán ngân sách đã được chủ thể quyền lực quyết định nhằm duy trì
sự hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo đảm nhà nước thực hiện được các
chức năng của mình.
Luật ngân sách nhà nước 2002 cũng đã đưa ra khái niệm chi ngân sách
nhà nước nhưng ở dạng liệt kê, tại Khoản 2 Điều 2. Theo đó, chi ngân sách nhà


nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an

1


ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước; chi viện
trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
2. Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước có các đặc điểm sau:
- Chi ngân sách nhà nước chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo
kế hoạch chi ngân sách cũng như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà
nước quyết định. Điều 15 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền quyết định về tổng số chi, cơ cấu, nội dung, mức động
các khaỏn chi ngân sách nhà nước và quyết định phân bổ ngân sách trung ương.
Điều 25 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 giao cho hội đồng nhân dân các cấp
quyền quyết định dự tóan chi ngân sách địa phương và quyền quyết định phân
bổ ngân sách cấp mình. Mọi hoạt động chi ngân sách phải được thực hiện trên
cơ sở các quyết định của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
- Chi ngân sách nhà nước nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài
chính cho sự vận hành của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho nhà nước thực hiện
được các chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể
quyền lực gồm hai nhóm:
Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát,
thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước. Đó là các cơ quan đại diện cho
nhà nước thực thi quyền hạn có liên quan tới việc xuất quỹ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯớC cho các mục tiêu đã được phê duyệt. Nhóm chủ thể này gồm Bộ tài
chính, Sở tài chính – vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng tài
chính quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành phố, Sở kế hoạch và đầu tư và Kho
bạc nhà nước.

Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước. Đây là nhóm chủ thể được
hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước để trang trải các chi phí trong quá trình
thực hiện hoạt động của mình. Nhóm chủ thể này rất đa dạng nhưng có thể phân
thành ba loại chủ yếu gồm: Các cơ quan nhà nước, kể cả các cơ quan hành chính
thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Các đơn vị, kể cả đơn
vị sự nghiệp có thu. Các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
3. Phân loại chi ngân sách nhà nước
Trong công tác quản lý ngân sách nhà nước, việc phân loại các khoản chi
có ý nghĩa quan trọng. Lựa chọn tiêu chí thích hợp để phân loại các khoản chi
2


ngân sách nhà nước có tác dụng hỗ trợ cho việc phân tích, đánh giá 1 cách chính
xác hiêu quả của từng loại chi, từ đó có thể dưa ra những định hướng những sửa
đổi chính sách chi ngân sách nhà nước một cách hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Theo khoản 2 Điều 2 Luật ngân sách nhà nước 2002, chi ngân sách nhà
nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi
viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Nếu căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động có sử dụng kinh phí ngân sách,
các khoản chi ngân sách nhà nước có thể phân thành chi phát triển; chi quản lý
hành chính; chi quốc phòng an ninh; chi cho giáo dục; chi về y tế.
Nếu căn cứ vào mức độ định kỳ của các khoản chi có thể phân thành hai
nhóm: chi thường xuyên và chi không thường xuyên
- Chi thường xuyên là khoản chi nhằm thực hiện nhiệm vụ thường xuyên
của Nhà nước về quản lý các mặt của đời sống xã hội. Đây là những khoản chi
mang tính ổn định, định kỳ, lặp đi lặp lại và là khoản chi mang tính tiêu dùng, vì
vậy nó không có tính tích lũy. Những khoản chi này gồm: chi cho các hoạt động
sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin, văn học nghệ thuật,

thể dục thể thao, khoa học và công nghệ; chi cho hoạt động của các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế; chi
cho quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội…Chi thường xuyên theo định kỳ
được bố trí kinh phí đều trong năm để chi.
- Chi không thường xuyên là những khoản chi như: chi đầu tư phát triển
kinh tế; chi trả nợ gốc và lãi khoản tiền do Chính phủ vay, chi viện trợ, cho vay
theo quy định của pháp luật, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của trung ương/
cấp tỉnh…
4. Phương thức chi ngân sách nhà nước
Phương thức chi ngân sách nhà nước là cách thức, biện pháp mà nhà
nước sử dụng để chuyển giao nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các đối
tượng sử dụng ngân sách theo đúng yêu cầu định trước.
Cấp phát theo dự toán ( Cấp phát theo hạn mức kinh phí được dự báo)
Đây là phương thức áp dụng với khoản chi mà cơ quan tài chính không
cấp phát trực tiếp. Đối tượng áp dụng phương thức này là đối tượng thường
xuyên sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ được giao.
3


Trình tự thực hiện phương thức này như sau: Cơ quan tài chính ra hạn mức với
từng đơn vị sử dụng ngân sách. Khi có nhu cầu thực tế, đơn vị sử dụng ngân
sách nhà nước phát hành giấy rút dự toán. Kho bạc nhà nước sau khi kiểm tra
điều kiện theo quy định sẽ thực hiện chi trả cho đơn vị sử dụng ngân sách.
Cấp phát theo lệnh chi tiền
Đây là phương thức áp dụng với khoản chi mà cơ quan tài chính cấp phát
trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân sách. Đối tượng của phương thức này là
những đối tượng không có quan hệ thường xuyên với ngân sách nhà nước trong
hoạt động nhận kinh phí hoặc các khoản chi với đặc thù phát sinh một lần. Trình
tự thực hiện như sau: Cơ quan tài chính phát hành lệnh chi tiền yêu cầu Kho bạc
chi trả số tiền cho đơn vị sử dụng ngân sách theo đúng nội dung lệnh chi. Nhận

được lệnh chi tiền, Kho bạc xuất quỹ thanh toán cho đơn vị sử dụng ngân sách
nhà nước theo yêu cầu của cơ quan tài chính.
II. Điều kiện chi ngân sách nhà nước hiện hành
Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện được
quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Ngân sách nhà nước 2002 và Điều 51 Nghị
định 60/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2003 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luật Ngân sách nhà nước
1. Khoản chi phải có trong dự toán ngân sách được giao.
Lập dự toán ngân sách nhà nước là quá trình xây dựng và quyết định dự
toán thu, chi ngân sách của nhà nước trong thời hạn 1 năm. Dự toán ngân sách
rất quan trọng, là tài liệu khá phức tạp, bảo đảm tính thống nhất, toàn diện và
tính cân đối, trong đó các khoản chi là mục tiêu phải thực hiện, các khoản thu là
phương tiện để thực hiện các mục tiêu đó. Việc pháp luật quy định các khoản chi
ngân sách nhà nước muốn được thanh toán, chi trả phải có trong dự toán ngân
sách được giao là bởi vì mọi nhu cầu chi dự kiến cho năm kế hoạch phải được
xác định trong dự toán kinh phí từ cơ sở thông qua các bước xét duyệt của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền từ thấp đến cao. Hàng năm, các cơ quan đơn vị có
sử dụng ngân sách nhà nước phải lập dự toán trình các cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Dự toán ngân sách nhà nước của cả nước được Chính phủ tổng hợp trình
Quốc hội quyết định. Quốc hội tiến hành phân bổ dự toán ngân sách trung ương;
Hội đồng nhân dân các cấp phân bổ dự toán ngân sách của cấp mình. Quyết định
cuối cùng cho dự toán chi ngân sách nhà nước thuộc về Quốc hội. Chỉ sau khi dự

4


toán chi đã được Quốc hội xét duyệt và thông qua mới trở thành căn cứ chính
thức để phân bổ số chi cho mỗi ngành, mỗi cấp.
Việc quy định này tạo ra tính công khai cho việc thực hiện chi ngân sách,
bởi tất cả đã có trong bản dự toán ngân sách được giao, tránh xảy ra những việc

khoản chi bất minh, chi không rõ mục đích, chi quá gây ra những thất thoát lớn.
Tuy nhiên, nếu chỉ theo như đúng các khoản được chi trong dự toán được giao
thì có khi lại gây ra những thiếu xót bởi không thể dự liệu đc hết trước mọi vấn
đề có thể xảy ra bởi chính vì vậy mà nhà làm luật đã dự liệu thêm một số ngoại
lệ được quy định tại Điều 52, Điều 59 Luật Ngân sách nhà nước 2002 và Điều
45 Nghị định 60/2003/NĐ-CP
Một là trường hợp đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương án
phân bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thì cơ
quan tài chính các cấp được phép tạm cấp kinh phí cho các nhu cầu không thể trì
hoãn được như: “Chi lương và các khoản có tính chất tiền lương; chi nghiệp vụ
phí và công vụ phí; một số khoản chi cần thiết để bảo đảm hoạt động của bộ
máy, trừ các khoản mua sắm trang thiết bị; chi cho dự án chuyển tiếp thuộc các
chương trình quốc gia; chi bổ sung cân đối cho ngân sách nhà nước” cho tới khi
dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách được quyết định. Mức tạm
cấp hàng tháng tối đa không quá mức chi bình quân 01 tháng của năm trước.
Đây có thể coi là phương án bổ sung mà luật đưa ra cho các chủ thể sử dụng
ngân sách áp dụng, tạo sự linh hoạt trong hoạt động của các chủ thể đó khi chưa
có dự toán ngân sách, đảm bảo ứng phó kịp thời với các trường hợp xảy ra ngoài
dự kiến, đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên các chủ
thể được tạm cấp kinh phí phải đảm bảo hoàn trả ngay khi dự toán ngân sách và
phân bổ ngân sách được quyết định, nguồn vốn đã được chuyển về. Đây là quy
định thể hiện sự linh hoạt của các nhà làm luật, tạo điều kiện để việc thực hiện
nhiệm vụ của các đối tượng thụ hưởng ngân sách không bị gián đoạn.
Hai là trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nước, có sự thay đổi về
thu chi, khoản chi từ nguồn tăng thu so với dự toán được giao và từ nguồn dự
phòng ngân sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Nguồn tăng thu là
nguồn thu phát sinh tăng thêm, nằm ngoài dự toán ngân sách vì vậy chi từ khoản
này cũng không thể nằm trong dự toán ngân sách. Chi từ nguồn tăng thu ở cấp
ngân sách nào sẽ do cơ quan có thẩm quyền của cấp ngân sách đó quyết định. Số
tăng thu này sẽ được sử dụng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư


5


phát triển, bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách. Còn các
khoản chi từ nguồn dự phòng ngân sách được sử dụng trong trường hợp có nhu
cầu chi đột xuất ngoài dự toán ngân sách. Khoản chi ngoài dự toán này sẽ giúp
giải quyết kịp thời vấn đề phát sinh đột xuất ngoài dự kiến. Trường hợp có nhu
cầu chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không thể trì hoãn được mà dự phòng ngân
sách không đủ đáp ứng, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phải
sắp xếp lại các khoản chi trong dự toán được giao hoặc sử dụng các nguồn dự trữ
để đáp ứng nhu cầu chi đột xuất đó.
Chi ngân sách nhà nước đã có trong dự toán ngân sách được giao là điều
kiện đầu tiên, quan trọng và cơ bản nhất để thực hiện chi ngân sách nhà nước.
2. Chi ngân sách nhà nước đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định
Nhà nước ban hành các chế độ, định mức về chi ngân sách, tạo cơ sở để
quản lý chi ngân sách, tạo cơ sở để quản lý chi ngân sách một cách khoa học và
thống nhất. Có hai loại định mức chi ngân sách nhà nước:
- Định mức phân bổ ngân sách: Đây là căn cứ để xây dựng và phân bổ
ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, cơ quan khác
ở trung ương và các địa phương.
- Định mức chi tiêu: Định mức chi tiêu là những chế độ, tiêu chuẩn làm
căn cứ để thực hiện chi tiêu và kiểm soát chi tiêu ngân sách.
Việc chi theo định mức, chế độ, tiêu chuẩn tạo ra sự công bằng, chống
thất thoát lãng phí, tạo ra tính cụ thể trong khoản chi có định lượng rõ ràng; hạn
chế việc chi quá mức rồi lại xin cấp trên; tăng cường tính tự chủ và năng động
trong việc thực hiện khoản chi. Nhưng việc quy định định mức cho các khoản
chi ngân sách cũng có thể làm giảm tính chủ động của các đơn vị sử dụng ngân
sách; hơn nữa có thể làm xuất hiện tình trạng các đơn vị sử dụng ngân sách chi

cho hết số ngân sách đã được phân bổ, không quan tâm đến hiệu quả của khoản
chi đó. Thêm vào đó việc xác định các đinh mức tiêu chuẩn, chế độ sao cho phù
hợp là một vấn đề cần phải được quan tâm theo dõi và có những thay đổi sao cho
phù hợp với từng giai đoạn, thời kì nhất định.
3. Chỉ chi ngân sách nhà nước các khoản đã được thủ trưởng đơn vị sử
dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi
Đối với những khoản chi ngân sách do cơ quan tài chính cấp phát trực
tiếp thì quyết định chi là “lệnh chi tiền” của cơ quan tài chính. Đối với các khoản
6


chi cơ quan tài chính không cấp phát trực tiếp thì khi có nhu cầu chi, đơn vị sử
dụng ngân sách lập và gửi Kho bạc nhà nước giấy rút dự toán ngân sách nhà
nước cùng với quyết định chi do thủ trưởng đơn vị ký. Khoản chi được thủ
trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi.
Điều này có nghĩa, chỉ người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy
quyền mới được phép quyết định chi
Thủ trưởng đơn vị là người đứng đầu một cơ quan; là người điều hành,
nắm rõ mọi vấn đề cần thiết cái gì cần phải chi và chi như thế nào cho hợp lí phù
hợp với định mức, tiêu chuẩn, chế độ. Quy định này sẽ góp phần tăng cường hơn
tính sáng tạo, tự chủ và có trách nhiệm trong việc sử dụng ngân sách nhà nước
bởi trách nhiệm pháp lý được đặt vào một cá nhân cụ thể.
Tuy nhiên nếu như thủ thưởng cơ quan hay người được ủy quyền thực
hiện chi mà kém năng lực hay chi một cách sai phạm thì sẽ có những hậu quả
lớn có xử lí cũng chưa chắc phục hồi lại được hay thu về được số tiền thất thoát,
việc này đòi hỏi phải có những cơ chế giám sát việc chi này sao cho hiệu quả và
hữu ích nhất và thủ trưởng hay người được ủy quyền đòi hỏi phải có năng lực
làm việc tốt. Vai trò của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách trong quá trình chi
ngân sách là hết sức quan trọng.
Trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách được quy định tại

khoản 4 Điều 52 Nghị định 60/2003/NĐ-CP.
“a) Quyết định chi đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức và trong phạm vi
dự toán được cấp có thẩm quyền giao;
b) Quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước theo đúng chế độ,
tiêu chuẩn, định mức; đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả. Trường hợp vi
phạm, tuỳ theo tính chất và mức độ, sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”
Ngoài ra, Điều 73 Luật Ngân sách nhà nước còn quy định thêm trách
nhiệm của cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách: “nếu gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”
Có thể thấy khi đáp ứng đủ với 3 điều kiện trên, việc chi ngân sách nhà
nước sẽ dễ dàng được thực hiện. Các điều kiện này cũng có sự phân tầng về cả
thẩm quyền. Điều kiện thứ nhất là điều kiện ở cấp cao nhất, khi quy định khoản
chi dự định thực hiện phải nằm trong dự toán ngân sách được thông qua bởi
Quốc hội và Hội đồng nhân dân với dự toán ngân sách ở địa phương. Điều kiện
7


thứ hai là khoản chi phải phù hợp với định mức, tiêu chuẩn, chế độ do các cơ
quan, người chuyên trách có thẩm quyền quyết định. Thứ ba là điều kiện quy
định ở cấp thụ hưởng ngân sách là có quyết định chi của thủ trưởng đơn vị sử
dụng ngân sách- người trực tiếp quản lý đơn vị, nắm rõ các nhu cầu chi tiêu của
đơn vị. Việc quy định những điều kiện này đảm bảo được sự liên kết từ cấp cao
nhất đến thấp nhất, đồng thời lại có sự phân công rõ ràng không có sự chồng
chéo với nhau
4. Các điều kiện cụ thể khác.
a) Khoản 4 Điều 51 NĐ 60/2003/NĐ-CP
“Trường hợp sử dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước để đầu tư xây
dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc
khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì trước khi khoản chi được thực

hiện, còn phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp
luật”
Đây chính là khoản chi hành chính đảm bảo cho hoạt động thường xuyên
của bộ máy nhà nước. Quy định này đảm bảo chi hoạt động chi trong lĩnh vực
này là chi đúng, chi đủ, tổ chức đấu thầu hoặc định giá tài sản với mục đích xác
định giá trị thực sự của tài sản, từ đó thực hiện khoản chi hợp pháp,đúng đắn và
minh bạch để tránh trường hợp giá cả báo cáo không rõ ràng mơ hồ tạo ra sự thất
thoát .
b) Khoản 5 Điều 51 NĐ 60/2003/NĐ-CP
“Các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong năm để
chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm
như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính
chất không thờng xuyên khác phải thực hiện theo dự toán quý được đơn vị dự
toán cấp I giao cùng với giao dự toán năm”
Quy định này đưa ra nhằm đảm bảo thêm tính rõ ràng và phù hợp với dự
toán năm của những khoản chi không mang tính chất thường xuyên đối với các
đơn vị dự toán cấp dưới. Đối với những khoản chi có tính chất thường xuyên thì
quy định này đảm bảo cho thực hiện chi một cách đủ và đều nhất.
Hiện nay chi ngân sách nhà nước đã từng bước được cơ cấu lại theo
hướng thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng cho đầu tư cho phát
triển xã hội và cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo,

8


phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực quản
lý, đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và đạt hiệu quả cao.
III. Thực trạng chi ngân sách nhà nước những năm qua
1. Những kết quả đạt được
Việc thực hiện chi ngân sách nhà nước có tuân thủ một cách nghiêm ngặt

các điều kiện luật định trong hoạt động chi ngân sách nhà nước hay không nó sẽ
trực tiếp ảnh hưởng trực tiếp đến quỹ ngân sách…
Theo nhận định của Bộ Tài chính khi đánh giá về tình hình thực hiện thu,
chi ngân sách nhà nước trong 6 tháng đầu năm 2011, kết quả chi ngân sách nhà
nước 6 tháng đầu năm 2011 đã đạt nhiều kết quả khả quan.
Chi ngân sách nhà nước 6 tháng ước đạt 355.600 tỷ đồng. Tổng chi
ngân sách tháng 6 ước đạt 53.570 tỷ đồng; lũy kế chi 6 tháng đầu năm ước
355.600 tỷ đồng, đạt 49,0% dự toán.
Chi đầu tư phát triển: ước đạt 77.467 tỷ đồng, bằng 51,0% dự toán.
Trong đó, ngân sách nhà nước đã thực hiện cấp bù lãi suất tín dụng nhà nước
cho Ngân hàng Phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 53,3% dự toán;
cấp chuyển vốn cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, cho vay
hộ đồng bào nghèo vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 57,3% dự toán; chi bổ
sung dự trữ quốc gia đạt 62,5% dự toán... góp phần quan trọng thực hiện mục
tiêu đảm bảo an sinh xã hội.
Riêng đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản, ngân sách nhà nước đã chuyển
cấp phát và ứng chi theo chế độ cho các dự án đạt 50,8% dự toán; vốn thực giải
ngân đến các chủ đầu tư ước đạt 44% dự toán. Trong đó: vốn do ngân sách trung
ương quản lý đạt khoảng 39% dự toán, vốn do địa phương quản lý đạt khoảng
45% dự toán.
Chi trả nợ và viện trợ: ước đạt 45.900 tỷ đồng, bằng 53,4% dự toán,đảm
bảo thực hiện các nghĩa vụ nợ đến hạn, không để tác động xấu đến kinh tế vĩ mô.
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý
hành chính (bao gồm cả chi điều chỉnh tiền lương): ước đạt 232.233 tỷ đồng,
bằng 49,5% dự toán; đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ theo dự toán được giao và
tiến độ thực hiện, đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chính trị (kinh phí cho công tác
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp

9



nhiệm kỳ 2011-2016... ) và các nhu cầu phát sinh về đảm bảo an ninh - quốc
phòng, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh...
Có thể thấy, trong 6 tháng đầu 2011, ngân sách nhà nước đã đảm bảo
kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã bố trí dự toán đầu năm và các
nhiệm vụ phát sinh trong quá trình điều hành, như: thực hiện việc chi trả tiền
lương, lương hưu và trợ cấp xã hội theo mức tiền lương tối thiểu mới 830.000
đồng/người/tháng từ ngày 1/5/2011; trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức,
viên chức, lực lượng vũ trang, người hưởng lương hưu có mức lương thấp, người
hưởng trợ cấp ưu đãi người có công và hộ nghèo đời sống khó khăn; nâng mức
tiền ăn cho chiến sỹ lực lượng vũ trang, nâng mức cho học sinh sinh viên vay để
học tập; hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo (30.000 đồng/hộ/tháng)... Bên cạnh đó,
xuất dự trữ quốc gia để cứu trợ, cứu đói kịp thời cho nhân dân trong vùng bị khó
khăn do thiên tai gần 56.200 tấn gạo và xuất cấp các vật tư, thiết bị thiết yếu với
tổng giá trị khoảng 512 tỷ đồng.
Bội chi ngân sách ở mức thấp.Bội chi ngân sách nhà nước tháng 6 ước
6.830 tỷ đồng; lũy kế 6 tháng ước 27.780 tỷ đồng, bằng 23% mức bội chi cả năm
Quốc hội quyết định Đây là tín hiệu khả quan để kết quả bội chi cả năm thấp hơn
dự toán và tạo điều kiện để giảm tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP theo Nghị
quyết của Chính phủ.
2. Những điểm còn hạn chế
Mặc dù đã có nhiều sự nỗ lực từ các cơ quan có thẩm quyền trong việc
đôn đốc, kiểm soát các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước nhưng trên thực tế
vẫn tồn tại các điểm bất cập mà nổi bật là tình trạng thất thoát và bội chi ngân
sách nhà nước.
Việc chấp hành pháp luật ngân sách nhà nước không nghiêm gây thất
thoát, gian lận. Mức bội chi cao, chưa đạt được mức 5% như đã duy trì được
nhiều năm, là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát.
Ủy ban Tài chính- ngân sách Quốc hội cũng nhận định, Chính phủ đã
kiên quyết trong quản lý ngân sách nhà nước, hạn chế thất thoát lãng phí nhưng

việc quản lý chi theo dự toán chưa được coi trọng. Đặc biệt việc triển khai và
giải ngân vốn đầu tư phát triển chậm, nhất là vốn trái phiếu chính phủ, xử lý nợ
xây dựng cơ bản vẫn chậm.
Chế độ tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước còn thiếu, chưa
tương xứng với tình trạng thực tế, gây khó khăn trong việc cấp phát, kiểm tra,
10


kiểm soát trong chi ngân sách nhà nước. Ví dụ: Quốc hội phân bổ 2% tổng chi
ngân sách cho lĩnh vực khoa học – công nghệ nhằm đẩy mạnh nghiên cứu và áp
dụng thành tựu khoa học vào phát triển kinh tế, xã hội là quá ít. Hơn nữa thủ tục
pháp luật rườm rà khiến cho ngân sách dành cho khoa học – công nghệ không
dùng được hết.
Ủy ban Tài chính - Ngân sách nhận định, tình trạng sử dụng số vượt thu,
nguồn dự phòng, chi tạm ứng, cho vay sai chế độ, chi vượt dự toán, vượt chế độ
định mức, nhất là số chi chuyển nguồn ngân sách lớn, tiếp tục diễn ra trong nhiều
năm vẫn chậm được khắc phục, là “sự lãng phí lớn với ngân sách nhà nước”.
3. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, sự tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng ngân sách với các
điều kiện chi là chưa cao. Các đơn vị sử dụng ngân sách khi nhận được nguồn
kinh phí thường không quan tâm đúng mức đến thực tiễn nhiệm vụ được giao và
luôn tìm cách để nâng cao dự toán để có thể sử dụng kinh phí một cách thoải
mái. Tồn tại tình trạng đơn vị sử dụng ngân sách và cơ quan tài chính, giữa cấp
dưới và cấp trên thỏa thuận một mức chi mà cả hai bên cùng chấp nhận, không
quan tâm nó có phù hợp với định mức, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội hay
không. Cá biệt cũng có những trường hợp lợi dụng khai khống hồ sơ, chứng từ
chi ngân sách.
Thứ hai, nguyên tắc lập dự toán từ dưới lên không được đảm bảo. Để có
một bản dự toán trình lên Quốc hội, quá trình lập dự toán phải đi từ dưới lên, từ
đơn vị dự toán nhỏ nhất. Nhiều khi dự toán chi ngân sách trên địa bàn là do Sở

Tài chính lập thay vì các đơn vị phải lập dự toán và nộp cho Sở. Điều này dẫn
đến dự toán không chính xác, không sát với nhau cầu chi thực tiễn.
Thứ ba, việc phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền mang tính hình thức,
thiếu chi tiết. Việc chấp nhận hay sửa đổi dự toán của Quốc hội có ảnh hưởng
không đời sống kinh tế- xã hội. Tuy nhiên các đại biếu Quốc hội thường có rất ít
thời gian để để xem xét, thảo luận trước khi biểu quyết. Thông thường, Quốc hội
phê chuẩn dự toán ngân sách theo phương thức trọn gói.
Cuối cùng, một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng có sai sót trong điều
kiện chi ngân sách của đơn vị sử dụng ngân sách là việc Kho bạc nhà nước chưa
có chế tài để xử lý vi phạm. Việc xử lý của Kho bạc nhà nước mới chỉ dừng lại ở
mức từ chối thanh toán và trả lại hồ sơ, chứng từ cho đơn vị…

11


IV. Hướng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các điều kiện chi ngân
sách nhà nước
- Xây dựng chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm điều kiện chi ngân
sách nhà nước
- Hoàn thiện pháp luật về quy trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách
nhà nước. Đây là ba khâu quan trọng trong quá trình ngân sách nhà nước.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp lập dự toán ngân sách để
tránh tình trạng thẩm quyền nơi thì thiếu nơi thì chồng chéo.
- Cơ cấu lại các khoản chi ngân sách nhà nước sao cho phù hợp, theo kịp
với tình hình kinh tế - xã hội. Chi ngân sách phải cần được thực hiện theo quan
điểm phải gắn liền với việc xác định đúng đắn cơ cấu chi tối ưu, có tỷ trọng hợp
lý giữa chi đầu tư phát triển với chi thường xuyên, chi trả nợ, chi dự phòng…
- Cần hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi chặt chẽ để các chủ thể sử dụng
ngân sách chấp hành nghiêm túc các điều kiện chi trong hoạt động chi ngân
sách. Có chế tài tương xứng đối với những đơn vị sử dụng ngân sách không chấp

hành tốt các điều kiện chi ngân sách nhà nước theo luật định.
- Những người quyết định chi ngân sách nhà nước đòi hỏi phải có năng
lực nghề nghiệp cao, có trách nhiệm với công việc, trong việc chi phải đảm bảo
tính minh bạch rõ ràng, hóa đơn chứng từ hồ sơ đầy đủ, quyết định chi rõ ràng…
- Nâng cao mức độ tham gia, kiểm tra giám sát của nhân dân đối với hoạt
động chi ngân sách để các đơn vị sử dụng ngân sách có ý thức hơn trong việc sử
dụng nguồn vốn được cấp, đảm bảo đủ các điều kiện chi để chi đúng, chi đủ, chi
hợp pháp.

C. KẾT LUẬN
Chi ngân sách nhà nước là một trong hai bộ phận chủ yếu cấu thành nên.
Việc chi ngân sách có hiệu quả hay không tác động rất lớn đến toàn bộ đời sống
kinh tế - xã hội. Vì thế cần thiết có sự quản lý của Nhà nước trong chi ngân sách.
Sự quản lý đó nói chung là khá chặt chẽ. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế,
bất cấp, đòi hỏi có cả sự hoàn thiện về pháp luật và nâng cao ý thức của những
chủ thể sử dụng ngân sách trong quá trình chi ngân sách nhà nước

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật ngân sách nhà nước.
Nxb. Tư pháp 2005
2. Luật Ngân sách nhà nước 2002
3. Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2003 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành luật ngân sách nhà nước.
4. Bài viết: “Chi ngân sách vẫn nặng xin cho”. Báo Lao Động Online:

5. Bài viết: “6 tháng đầu năm 2011: Thu chi Ngân sách Nhà nước đạt
tiến độ khá so với dự toán.

6. Bài viết: “Ngân sách nhà nước: Thu lỏng lẻo, Chi xông xênh”. Báo
VnEconomy:

13


MỤC LỤC

14



×