Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.06 KB, 12 trang )

Đề 13: Đánh giá tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay. Từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong
lĩnh vực này.
Bài làm
A. Mở đầu.
ở Việt nam hiện nay vấn đề nhận nuôi con nuôi đã trở nên phổ biến và được
nhiều người biết đến. Lý do để nhận nuôi con nuôi thì có rất nhiều lý do có
thể do người nhận nuôi con nuôi không thể có con, hoặc vì yêu quý trẻ em
mà nhận nuôi… Nói chung việc nhận nuôi con nuôi thể hiện tính nhân đạo
giữa con người với con người. Người nhận nuôi con nuôi đã giúp cho đứa bé
ấy có một gia đình, có được tình thương yêu chăm sóc, có được sự giáo dục
tốt nhất giúp cho trẻ phát triển toàn diện hơn.
Việc nuôi con nuôi gồm có hai trường hợp là nuôi con nuôi nói chung và
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Hiện nay các quy định pháp
luật về vấn đề nuôi con nuôi đang rất được quan tâm và chú ý đến.
Thông qua bài tập học kỳ em xin phân tích vấn đề: “Đánh giá tình hình
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra giải
pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.”. Bài làm còn nhiều
thiếu xót, mong thầy cô đánh giá, nhận xét giúp cho em có thể hiểu hơn về
vấn đề này.
Vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
nói riêng là vấn đề nhạy cảm và mang tính nhân đạo. Với mục đích mang lại
cho trẻ em bất hạnh một mái ấm gia đình thay thế, vấn đề này đã được pháp
luật nhiều nước điều chỉnh, ở Việt Nam cũng được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm sâu sắc. Năm 2010 khi luật Nuôi con nuôi ra đời đã mở đường cho
Việt Nam tham gia kí kết Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước. Góp phần hoàn thiện hệ thống pháp


luật về vấn đề nuôi con nuôi nói chúng và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ở nước ta nói riêng. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em chọn nghiên


cứu đề bài : “Đánh giá tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
Nam trong lĩnh vực này”
B.

Giải quyết vấn đề.

I.

Một số vấn đề lý luận chung

1.

Khái niệm

Tại khoản 1 điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ghi nhận khái niệm
nuôi con nuôi như sau: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và
con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”
Từ quy định tại khoản 5 điều 3 Luật Nuôi con nuôi, ta có thể hiểu nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài là:
- Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
- Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ở
nước ngoài
- Việc nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt
Nam
- Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên
hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.
Như vậy, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi có ít
nhất một trong các chủ thể là người nước ngoài hoặc việc nuôi con nuôi
được xác lập ở nước ngoài và theo pháp luật nước ngoài.

2.

Ý nghĩa của chế định nuôi con nuôi

Chế định nuôi con nuôi có ý nghĩa rất quan trọng trong việc điều chỉnh
quan hệ gia đình được hình thành từ việc nuôi con nuôi. Đó là:


- Chế định nuôi con nuôi xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ nuôi con nuôi là quan hệ gia đình, nhằm làm cho các bên nhận thức
rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình khi thiết lập quan hệ nuôi con nuôi.
Từ đó bảo vệ lợi ích của cả hai bên, trước hết là trẻ em được nhận nuôi.
- Đây là cơ sở pháp lý để nhà nước thực hiện kiểm tra, giám sát, điều
chỉnh việc nuôi con nuôi, bảo đảm việc nuôi con nuôi phù hợp với mục đích
xã hội của nó là xuất phát từ lòng nhân đạo, vì quyền và lợi ích tốt nhất cho
đứa trẻ; đồng thời là cơ sở để phát hiện, ngăn chặn, xử lí kịp thời những
hành vi trục lợi, kiếm lời bất chính trong việc lợi dung danh nghĩa nuôi con
nuôi để mua bán, lạm dụng tình dục với trẻ em.
- Chế định nuôi con nuôi được ghi nhận trong pháp luật là cơ sở để giải
quyết các mẫu thuẫn và tranh chấp có thể pháp sinh như: xác định họ tên,
quyền thừa kế của người con nuôi…
II.

Đánh giá tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam

1.

Thời kì trước khi gia nhập Công ước Lahay.

Từ cuối năm 1986, trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta thực hiện

đường lối mới, mở cửa các quan hệ dân sự giữa công dân Việt Nam với
nhau và với người nước ngoài ngày càng phát triển. Sau hơn 2 thập kỷ cùng
sự phát triển của xã hội trong xu hướng toàn cầu hóa, đến nay kinh tế xã hội
Việt Nam đã hòa mình với thế giới, kéo theo đó các quan hệ pháp luật cũng
được mở rộng, các quan hệ về hôn nhân gia đình cũng theo đó mà phát triển
trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên thời kỳ
đầu, trong một thời gian dài pháp luật chưa có quy định nên việc quản lý và
giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài gặp nhiều
khó khăn, mỗi địa phương vận dụng và giải quyết theo một cách khác nhau.
Ngày 02/12/1992 Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua pháp lệnh Hôn
nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Ngày


30/11/1994 Chính phủ ban hành Nghị định số 184/CP quy định về thủ tục
kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân
Việt Nam và người nước ngoài. Đó là những thay đổi quan trọng, tạo cơ sở
pháp lý cho việc giải quyết những vấn đề liên quan, đặc biệt là lĩnh vực cho
người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Tuy nhiên trong
quá trình thực thi cũng làm xuất hiện những tồn tại và yếu điểm.
Từ năm 1993 đến năm 2000 có khoảng gần 12000 trẻ em Việt Nam
được cho làm con nuôi người nước ngoài, nhưng Việt Nam chưa hề tham gia
một điều ước quốc tế nào trong lĩnh vực nuôi con nuôi, nên Việt Nam chưa
có một cơ sở pháp lý quốc tế nào để bảo vệ các đối tượng liên quan trong
hoạt động này.
Vấn đề nuôi con nuôi ở Việt Nam được quy định rải rác trong nhiều văn
bản pháp luật, từ đạo luật có giá trị cao nhất là Hiến pháp năm 1992 đến
BLDS 2005, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, các văn bản dưới Luật
như Nghị định và Thông tư.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dành cả một chương XI quy
định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó điều

105 điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Ngày 10/7/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn Nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Nghị định này đã có những thay
đổi căn bản về nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết cho người nước ngoài
nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. So với Nghị định 184/CP, nghị định 68
đã có nhiều điểm mới về nguyên tắc giái quyết việc nuôi con nuôi; đối tượng
trẻ em được cho làm con nuôi; hoạt động của tổ chức nuôi con nuôi nước
ngoài tại Việt Nam; thành lập cục nuôi con nuôi quốc tế trực thuộc Bộ Tư
pháp; trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ. Tuy nhiên trong quá trình thực thi


Nghị định 68 vẫn bộc lộ những vướng mắc cần giải quyết. Do vậy, để cải
tiến một số trình tự, thủ tục theo hướng minh bạch, công khai, thong thoáng,
dễ dàng cho người xin con nuôi nhằm tiến gần hơn với các yêu cầu và đòi
hỏi của Công ước Lahay mà nước ta đang chuẩn bị tham dự, Chính phủ đã
ban hành nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị
định 68. Sự bổ sung này là bước đệm quan trọng để Việt Nam chuẩn bị cho
việc ban hành Luật nuôi con nuôi. Lần sửa đổi này cũng đã đề cập đến một
số nội dung quan trọng và về cơ bản khắc phục được những hạn chế của
nghị định 68 như: mở rộng đối tượng xin trẻ em Việt Nam làm con nuôi
cũng như đối tượng trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi; hồ sơ của
người xin nhận con nuôi và hồ sơ của trẻ em cho làm con nuôi. Để hướng
dẫn nghị định 68 và 69, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư
07/2002/TT-BTP và thong tư 08/2006/TT-BTP.
Ngày 01/02/2000 nước ta ký hiệp định hợp tác nuôi con nuôi với Cộng
hòa Pháp. Đây là điều ước quốc tế song phương đầu tiên trong lĩnh vực nuôi
con nuôi mà Việt Nam kí kết với các nước. Đây là mốc quan trọng trong
việc hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam và Pháp, mở đầu cho thời kì Việt
Nam tích cực đàm phán ký kết các hiệp định hợp tác nuôi con nuôi với các

nước khác nhằm thực hiện việc hợp tác quốc tế sâu rộng trong lĩnh vực này.
Sau Pháp, đến nay Việt Nam đã kí 16 hiệp định với các quốc gia và vũng
lãnh thổ như: Đan Mạch (26/5/2003), Italia (13/6/2003), Ailen (23/9/2003),
Thụy Điển (04/02/2004), Hoa Kỳ (21/6/2005)…Nhưng đến nay, hiệp định
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, Ai Len, Thụy Điển đã hết hiệu lực. Vấn đề hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được đề
cập trong các hiệp định tương trợ tư pháp và hiệp định lãnh sự. Chúng ta đã
kí 18 hiệp định tương trợ tư pháp với 15 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã kí 17
hiệp định lãnh sự.


Việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trên cơ sở các hiệp định song
phương đã đảm bảo trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi hết sức
chặt chẽ; đồng thời tạo ra cơ chế tương thích với yêu cầu của Công ước
Lahay, rút ngắn sự khác biệt trong pháp luật Việt Nam với pháp luật các
nước, tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam.
2.

Từ năm 2010 đến nay (Sau khi gia nhập Công ước Lahay)

Năm 2010 là một mốc đánh dấu bước tiến quan trọng trong lĩnh vực
nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng của
Việt Nam. Luật nuôi con nuôi được thông qua ngày 17/6/2010 có hiệu lực
thi hành từ 01/01/2011 gồm 5 chương và 52 điều. Luật nuôi con nuôi được
xây dựng trên quan điểm bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật nhà nước vê công tác bảo vệ trẻ em. Lần đầu tiên,
pháp luật nước ta đã điều chỉnh thống nhất vấn đề nuôi con nuôi trong nước
và có yếu tố nước ngoài trong một luật, trong đó biện pháp bảo đảm tăng
cường giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong nước. Để hướng dẫn luật

nuôi con nuôi, Chính phủ ban hành nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày
21/03/2011 và có hiệu lực thi hành từ ngày 08/5/2011.
Ngày 07/12/2010 Việt Nam ký kết gia nhập công ước Lahay đánh dấu
một bước tiến quan trọng trong việc từng bước hội nhập vào khuôn khổ hợp
tác đa phương về tư pháp quốc tế mà trước hết là việc thực hiện Công ước
về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam bắt đầu từ những năm
70 với số lượng ít trong những năm 80 và bắt đầu tăng trở lại vào những
năm 90. Từ năm 2003, số trẻ em làm con nuôi người nước ngoài tăng lên so
với cuối thời kì những năm 90, đầu năm 2000. Năm 2003 có 800 trường
hợp, năm 2004 có 550 trường hợp, năm 2005 có 1.250 trường hợp, năm


2006 có 1.550 trường hợp, năm 2007 có 2000 trường hợp, năm 008 có 1200
trường hợp, năm 2009 có 1064 trường hợp và 7 tháng đầu năm 2010 có 674
trường hợp trẻ em được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài (Nguồn:
Cục con nuôi)
Qua báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ở
nước ngoài và kết quả khảo sát nhiều nước nhận trẻ em Việt Nam làm con
nuôi, trực tiếp thăm hàng trăm gia đình và gặp mặt hàng ngàn trẻ em đều
thấy con nuôi Việt Nam hội nhập nhanh với môi trường nước nhận và được
chăm sóc chu đáo. Cùng với đó, trẻ em khuyết tật, tàn tật, bị bệnh hiểm
nghèo, được các tổ chức con nuôi đưa ra nước ngoài chữa trị và sau đó được
giải quyết cho làm con nuôi (thong qua thủ tục tại Đại sứ quán Việt Nam ở
nước sở tại). Điều đó không những đã góp phần giảm bớt chi phí, thời gian
cho đương sự mà còn thể hiện sự cải cách đáng kể các thủ tục hành chính
trong lĩnh vực này.
Tuy đã đạt thành công nhất định nhưng thực tiễn giải quyết nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam vẫn thể hiện những bất cập
- Một số cơ quan Nhà nước còn nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi

con nuôi, thậm chí còn mơ hồ về tính nhân đạo, nhân văn của lĩnh vực con
nuôi quốc tế, cũng như vấn đề pháp lý có liên quan vẫn còn tồn tại.
- Tồn tại những hành vi làm sai lệch nguồn gốc trẻ em. Nguyên nhân
xảy ra tình trạng này là do sự buông lỏng quản lý ở các cơ sở nuôi dưỡng,
chạy theo lợi ích vật chất kinh tế trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi,
hay có sự cơ cấu giữa cơ sở nuôi dưỡng và những kẻ môi giới bất hợp pháp
bên ngoài để đưa trẻ em từ các nơi khác về cơ sở nuôi dưỡng và hợp thức
hóa bằng hồ sơ trẻ em bị bỏ rơi để cho làm con nuôi nước ngoài.
- Thực tiễn giải quyết nuôi con nuôi quốc tế vẫn chưa bảo đảm ưu tiên
việc nuôi con nuôi trong nước trước khi cho trẻ em làm con nuôi ở nước


ngoài. Hiện nay, quy định này chưa được đảm bảo thực thi nghiêm túc ở
nước ta. Nhiều nơi chỉ thực hiện các quy định này một cách hình thức, chiếu
lệ, không đảm bảo đich thực của việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ
em.
- Hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam chưa
được quản lý chặt chẽ. Trong thực tiễn, cả tổ chức con nuôi nước ngoài và
các cơ sở nuôi dưỡng đều chưa thực hiện báo cáo đầy đủ chính xác về các
khoản hỗ trợ nhân đạo cho Bộ Tư pháp. Điều này gây nhiều khó khăn cho
việc quản lý, thống kê, theo dõi các khoản hỗ trợ nhân đạo và giám sát việc
sử dụng các khoản đó. Thêm vào đó, hoạt động thanh kiểm tra tài chính còn
rất yếu chưa được quan tâm đúng mức ở nhiều địa phương.
- Thủ tục, trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi còn nhiều bất cập: Thủ
tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi chỉ là sự cung cấp danh sách về số lượng
và họ tên của trẻ em, chưa kèm theo hồ sơ đầy đủ để để đảm bảo trẻ em có
điều kiện cho làm con nuôi. Và việc kiểm tra hồ sơ của trẻ em được giới
thiệu làm con nuôi cũng chỉ được thực hiện có tính hình thức, chưa chú ý
đến việc xác minh làm rõ về nguồn gốc thực tế của trẻ em.
- Có sự thiếu đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên

quan. Ở các cơ quan thuộc chính quyền địa phương, sự phối hợp giữa các cơ
quan còn hạn chế. Ở các cơ quan cấp tỉnh, nhiều nơi chưa ban hành quy chế
phối hợp giữa các cơ quant ư pháp, công an, lao động thương binh và xã hội
hoặc tuy có ban hành nhưng chỉ mang tính hình thức. Ở cấp trung ương còn
thiếu sự hợp tác thường xuyên và chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp và Bộ
LĐTBXH trong việc chỉ đọa các vấn đề liên quan đến chức năng của cả hai
bộ trong lĩnh vực con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Khi gia nhập Công ước Lahay, Việt Nam có những thuận lợi và thách
thức nhất định. Việt Nam học hỏi và tham khảo kinh nghiệm của các quốc


gia thành viên, hoàn thiện khung pháp lý theo chuẩn mực quốc tế, khẳng
định được vị thế của mình trong mối quan hệ hợp tác đa phương trên lĩnh
vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, mở rộng địa bàn và cho phép mở
rộng các đối tượng người nước ngoài được nhận trẻ em Việt Nam làm con
nuôi, không phải kí kết các điều ước quốc tế song phương với các nước
thành viên khác như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian, công sức cho
cơ quan nhà nước. Đồng thời Việt Nam cũng phải chịu những sức ép và
thách thức để có thể thực hiện đầy đủ và nghiêm túc nghĩa vụ thành viên.
III. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.

Tăng cường vai trò của cơ quan trung ương

Cơ quan con nuôi Trung ương cần được củng cố, tăng cường cả về số
lượng và chất lượng để có thể đảm nhiệm được những nghĩa vụ lớn lao khi
nước ta tham gia công ước Lahay. Cần tăng them thẩm quyền cho Cục con
nuôi để cơ quan này có thẩm quyền cần thiết thực hiện một cách có hiệu quả
chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, mà trước hết cần

phân định rõ thẩm quyền quyết định việc cho trẻ em làm con nuôi nước
ngoài giữa cục con nuôi và UBND cấp tỉnh.
2.

Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước

Nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành ở trung ương và
địa phương từ công tác hoạch định và thực thi chính sách pháp luật về nuôi
con nuôi, đến việc xử lý từng vị việc cụ thể. Cần quy định rõ trách nhiệm cụ
thể của từng cơ quan đối với từng khâu trong toàn bộ quy trình giải quyết,
qua đó cũng xác định được rõ hơn sự phối hợp giữa các ngành là để xử lý
vấn đề gì?
3.

Tăng cường sự phối hợp và thực thi pháp luật của các cơ quan và

tổ chức địa phương.


UBND tỉnh và các cơ quan có thẩm quyền khác cần quản lý chặt chẽ
các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em để đảm bảo các cơ sở nuôi dưỡng phải có đủ
điều kiện tiếp nhận, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em theo quy định của pháp
luật. Đồng thời các cơ quan có thẩm quyền phải kiên quyết đóng cửa các cơ
sở nuôi dưỡng không đủ điều kiện hoặc chỉ thành lập để nhằm mục đich thu
gom trẻ em làm con nuôi người nước ngoài.
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan và các cơ sở nuôi
dưỡng ở địa phương để đảm bảo sự chính xác hồ sơ của trẻ, không tạo kẽ hở
cho cơ sở nuôi dưỡng vượt ra ngoài vùng quản lý.
4.


Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra

Việc kiểm tra, thanh tra cần đi sâu vào những vấn đề rất chuyên môn
như lĩnh vực tài chính nhân đạo, nguồn gốc trẻ, nhất là trẻ em bị bỏ rơi, trách
nhiệm của cơ sở nuôi dưỡng trong khâu nuôi dưỡng và cho trẻ làm con nuôi
nước ngoài, khâu phối hợp với các cơ quan chức năng địa phương. Tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, ngăn chặn kịp thời những
hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Công tác
thanh tra, kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên, định kì và có trọng
tâm, tránh hình thức, đối phó.
5.

Tăng cường hiệu quả việc bảo vệ con nuôi

Quyền lợi của trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi là vấn đề càn được
quan tâm hàng đầu. Quyền lợi này phải được chú ý ở các khía cạnh là: lựa
chọn giải pháp có lợi nhất cho trẻ em (như ưu tiên nuôi con nuôi trong
nước…); thẩm định nghiêm ngặt hồ sơ để đảm bảo tìm được cho trẻ một gia
đình tốt và phù hợp nhất; bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi lợi dụng sơ hở
của pháp luật để thực hiện buôn bán trẻ em trá hình; đặc biệt bảo vệ trẻ em
qua việc theo dõi tình hình hòa nhập, điều kiện phát triển của trẻ em từ sau
khi được cho làm con nuôi.


Pháp luật nên quy định những biện pháp để đảm bảo người nhận nuôi
thực hiện những nghĩa vụ mà họ đã cam kết trước khi nhận con nuôi. Cần
quy định rõ về thời gian thử thách cho việc nuôi con nuôi, để trong trường
hợp cần thiết phải áp dụng biện pháp cho trẻ em hồi hường nếu mục đích
của việc nuôi con nuôi là đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ không đạt được.
Việt Nam sẽ có cơ quan để giải quyết việc tiếp nhận trở lại đối với trường

hợp này. Có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý việc cho nhận
con nuôi ở Việt Nam với một cơ quan tương ứng của nước nhận hoặc thành
lập một cơ quan giám sát của Việt Nam về nuôi con nuôi ở nước nhận (có
thể thuộc cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở đó) để có thể theo dõi tình hình và
điều kiện sống của trẻ em khi được nhận nuôi. Ngoài ra, cần có những
đường dây nóng cho trẻ em được nhận làm con nuôi, để các em có thể chủ
động liên lạc khi các em bị xâm hại hoặc không được quan tâm chăm sóc,
bảo vệ quyền lợi chính đáng.
C.

Kết luận.

Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định pháp lý
quan trọng trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia. Việc nghiên cứu để đưa ra
những quy định chặt chẽ hơn cho vấn đề này sẽ giúp ta bảo vệ được quyền
của những trẻ em được nhận làm con nuôi. Ngoài ra, những quy định hợp lý,
những thủ tục chặt chẽ những cũng nhanh gọn, dễ dàng sẽ giúp cho việc
nhận nuôi con nuôi trở nên dễ dàng hơn giúp cho nhiều trẻ em tìm được
những ngôi nhà thân yêu của mình, giúp chúng có một cuộc sống tốt đep.
Mặc dù pháp luật Việt nam hiện nay có được những thành quả nhất
định về vấn đề này nhưng cũng chưa phải là hoàn toàn không có điểm bất
cập nào vì vậy em mong những nhà làm luật có thể ngiên cứu và đưa ra
những quy định chặt chẽ hơn, những thủ tục nhanh gọn, đễ dàng những vẫn
đảm bảo tính hợp pháp bảo vệ được quyền lợi của trẻ em.


1.

Phạm Thùy Dương – Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu


tố nước ngoài thực trạng và hướng hoàn thiện – Luận văn thạc sỹ luật học 2006
2.

Nguyễn Hà Liên – Việt Nam với công ước Lahay 1993 về bảo vệ

quyền trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước – Khóa
luận tốt nghiệp – 2011
3.

giáo trình tư pháp quốc tế. Trường đại học luật Hà nội. HN – 2009.

4.

thông tư số 08/2006/TT-BTP NGÀY 8/12/2006 hướng dẫn thực

hiện về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
5.

nghị định 19.2011.ND – CP quy định chi tiết thi hành một số điều

của luật nuôi con nuôi.
6.



×