Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực trạng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.86 KB, 16 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, quan hệ quốc
tế ngày càng được mở rộng, giao lưu giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài ngày càng phát triển, đặc biệt là các quan hệ về hôn nhân và gia đình của
công dân Việt Nam với người nước ngoài. Trong đó, quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài đã và đang trở thành một hiện tượng xã hội thu hút sự quan
tâm của nhiều người. Để có cái nhìn cụ thể hơn, nhóm chúng em sẽ tìm hiểu đề
tài: “Thực trạng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay”.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nuôi con nuôi là việc xác
lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận
làm con nuôi, đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội”. Luật nuôi con nuôi năm
2010 cũng đã giải thích cụ thể tại khoản 1 Điều 3: “Nuôi con nuôi là việc xác lập
quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con
nuôi”. Hai khái niệm trên đây chính là khung pháp lý quan trọng nhằm xác lập
mối quan hệ giữa cha mẹ và con nuôi và là cơ sở để phát sinh quyền và nghĩa vụ
giữa họ với nhau.
1.1.2. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Theo Khoản 5 Điều 3 Luật nuôi con nuôi, nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa
người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với
nhau mà một bên định cư ở nước ngoài. Theo các trường hợp trên, quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài đã được mở rộng, không chỉ là quan hệ nuôi con
nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài mà còn bao gồm quan hệ
1
nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài và quan hệ nuôi
con nuôi giữa người nước ngoài với nhau ở Việt Nam.


1.2. Bản chất và mục đích của việc nuôi con nuôi
1.2.1. Bản chất
a. Bản chất xã hội
Nuôi con nuôi là sự gắn bó tình cảm giữa người nuôi và người được nhận
nuôi trong quan hệ cha mẹ và con, đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi
được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với xã hội.
b. Bản chất pháp lý
Thứ nhất, sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi: người nhận nuôi
chủ động, độc lập về ý chí đơn phương trong nhận nuôi con nuôi. Hậu quả pháp
lí phát sinh khi có người được nhận nuôi phù hợp, được cha mẹ đẻ hoặc người
giám hộ đồng ý và cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
Thứ hai, sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người
được cho làm con nuôi: Hành vi pháp lí đơn phương này có thể do một hoặc hai
chủ thể thực hiện. Hậu quả pháp lí phát sinh khi có sự tiếp nhận của người nhận
nuôi con nuôi và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
Thứ ba, sự thể hiện ý chí của người được nhận làm con nuôi: sự đồng ý của
bản thân người được nhận làm con nuôi được coi là hành vi pháp lí đơn phương,
phát sinh một cách độc lập, vào bất cứ thời điểm nào mà không phụ thuộc vào ý
chí của cha mẹ đẻ, người giám hộ.
Thứ tư, sự thể hiện ý chí của Nhà nước: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chỉ có thể công nhận việc nuôi con nuôi khi các bên đương sự thể hiện rõ ý chí
của mình, đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết của việc nuôi con nuôi.
1.2.2. Mục đích
Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững,
vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi
được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.
1.3. Điều kiện nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
2
1.3.1. Điều kiện với người được nhận làm con nuôi
Những người sau đây có thể được nhận làm con nuôi:

1. Trẻ em dưới 16 tuổi;
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
a. Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b. Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi;
3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả
hai người là vợ chồng;
4. Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác.
1.3.2. Điều kiện với người nhận con nuôi
Để được nhận con nuôi, người nhận con nuôi phải thuộc một trong các đối
tượng sau đây:
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam
nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:
a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
b) Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
c) Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;
d) Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo
khác làm con nuôi;
đ) Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian
ít nhất là 01 năm.
3. Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm
con nuôi.
4. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.
Về điều kiện với người nhận con nuôi, Điều 29 luật nuôi con nuôi quy định:
3
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo

quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14
Luật nuôi con nuôi, bao gồm các điều kiện: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm
việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; có tư cách đạo đức tốt và không
thuộc trường hợp không được nhận con nuôi.
Với công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ
các điều kiện theo quy định tại Điều 14 Luật nuôi con nuôi và pháp luật của
nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú.
1.4. Quan hệ giữa các bên trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.4.1.Quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi
Con nuôi có các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản đối với cha mẹ
nuôi như con đẻ và ngược lại. Tức là giữa cha mẹ nuôi với con nuôi có các
quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ với con đẻ được quy định tại Luật nuôi
con nuôi 2010.
1.4.2.Quan hệ giữa con nuôi với gia đình gốc của mình
Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ
ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định
đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.
2. THỰC TRẠNG NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
2.1.Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam hiện có khoảng 30 triệu trẻ em, trong đó có khoảng 2,5 triệu trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (7,6%), 1,7 triệu thuộc gia đình đói, nghèo,
gần 150 ngàn trẻ em mồ côi (trong đó khoảng 16 ngàn trẻ mồ côi không nơi
nương tựa, 500 ngàn trẻ em tàn tật và 19 ngàn trẻ lang thang). Kể từ khi Việt
Nam thực hiện chính sách đổi mới cùng với xu thế chung, tình hình người nước
4
ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi ngày càng gia tăng. Theo thống
kê chưa đầy đủ, từ năm 1990 đến 5 tháng đầu năm 2004 có 15.427 trẻ em Việt
Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi . Trong số đó, nước nhận trẻ em

Việt Nam làm con nuôi nhiều nhất là Pháp và Mỹ.Việc cho trẻ em Việt Nam làm
con nuôi người nước ngoài đã cơ bản giải quyết được những khó khăn về đời
sống cho một số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đồng thời, đáp ứng
mục tiêu cơ bản của việc nuôi con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Theo thông báo của các địa phương, cả nước có 91/378 cơ sở nuôi dưỡng
có quyền cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Đây là những cơ sở nuôi dưỡng
được thành lập hợp pháp, chủ yếu do Sở Lao động Thương binh và Xã hội quản
lý, là nơi tiếp nhận các dự án hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước
ngoài. Việt Nam là một quốc gia có số lượng trẻ em làm con nuôi của người
nước ngoài khá cao. Số liệu thống kê từ các cơ quan con nuôi ở cấp Trung ương
cho thấy số lượng con nuôi đi từ Việt Nam là tương đối nhiều và nhìn chung
tăng trong những năm gần đây, đặc biệt tăng với những nước có quan hệ gần gũi
và đã ký Thoả thuận song phương với Việt Nam.
Bảng 1: Con nuôi từ Việt Nam đến các nước nhận nuôi từ năm 2002 – 2008
Nước

Năm
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng số
Canada 84 45 6 5 34 54 45 189
Đan Mạch 75 19 13 72 44 51 39 313
Pháp 61 234 363 790 742 268 284 2742
Ailen 81 39 16 92 68 130 181 607
Ý 90 59 6 140 238 263 313 1109
Thuy Điển 86 32 6 80 67 54 45 370
Thụy Sỹ 24 47 31 4 3 5 5 119
Hoa Kỳ 766 382 21 7 163 828 751 2918
Tổng số 1183 857 462 1190 1359 1648 1658 8357
Việc giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi
đã đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của người nhận con nuôi; tăng cường
mối quan hệ gắn bó với Việt Nam; phần nào giảm bớt gánh nặng về kinh tế, nhất

là đối với các gia đình đông con hoặc có con bị khuyết tật.
5
Theo báo cáo chưa đầy đủ, từ 2003 – 6/2008, đã có 69 Văn phòng con nuôi
nước ngoài hỗ trợ nhân đạo cho gần 100 cơ sở nuôi dưỡng với giá trị khoảng
160 tỷ đồng. Riêng 2007 đạt gần 60 tỷ đồng.
Tình hình trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài tăng nhanh
trong một số tỉnh thành lớn. Bảng số liệu dưới đây thể hiện số lượng trẻ em Việt
Nam nhận làm con nuôi người nước ngoài tại một số tỉnh thành trong cả nước,
giai đoạn 1994 – 2000:
Tỉnh thành TP HCM Thái Nguyên Hà Nội Hòa Bình Vũng Tàu Đà Nẵng
Số lượng 3484 624 538 425 368 337
2.2. Công tác thực hiện và triển khai quy định của pháp luật về vấn đề
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Việc thi hành pháp luật trong việc giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con
nuôi người nước ngoài đã được các cơ quan, các cấp, các ngành nhận thức đúng
đắn và thực hiện nghiêm túc. Nhà nước đã ban hành nhiều đạo luật quy định cụ
thể về vấn đề nuôi con nuôi, trong đó có nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Có
thể kể đến: Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật hôn nhân và gia đình về
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi
bổ sung một số điều của nghị định 68/2002; Thông tư 08/2006/TT-BTP hướng
dẫn thực hiện một số quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Luật nuôi
con nuôi năm 2010, Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của
luật nuôi con nuôi Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia Công ước quốc tế về
quyền trẻ em, Công ước Lahay…
Về cơ chế thực hiện, Cục con nuôi quốc tế, với tư cách là Cơ quan trung
ương về con nuôi quốc tế của Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý hoạt động
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cục đã triển khai nhiều hoạt động, giúp Bộ
trưởng Bộ Tư pháp trong công tác quản lý và trực tiếp tham gia vào việc giải
quyết các hồ sơ của người nước ngoài xin nhận trẻ em làm con nuôi.

6
Hầu hết các tỉnh, thành phố đều đã có cơ sở nuôi dưỡng để có thể đảm
nhiệm việc nuôi dưỡng chăm sóc trẻ em và là cơ sở để thực hiện việc giới thiệu
trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Cụ thể, hiện nay cả nước có 120 trung tâm
bảo trợ xã hội do ngành Lao động, Thương binh – Xã hội quản lý. Hiện cả nước
có 91/378 cơ sở nuôi dưỡng có quyền cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài.
Nhà nước cho phép các tổ chức con nuôi nước ngoài được hoạt động tại
Việt Nam; góp phần giải quyết cho người nước ngoài nhận con nuôi và phần nào
hạn chế được tình trạng môi giới trung gian, bất hợp pháp. Việc thực hiện các dự
án hỗ trợ nhân đạo từ hoạt động hợp tác nuôi con nuôi quốc tế tạo điều kiện cho
cơ sở nuôi dưỡng trở nên khang trang hơn, điều kiện chăm sóc trẻ em tốt hơn.
3. ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT THỰC TRẠNG NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
3.1.Thành tựu
3.1.1. Về mặt xã hội
a. Tìm được mái ấm gia đình, đem lại hạnh phúc cho trẻ em và gia đình nhận
con nuôi
Trong 5 năm qua đã có trên 6.000 trẻ em tìm được mái ấm gia đình thay thế,
theo cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa Việt Nam và nước nhận. Điều này góp phần
đem lại hạnh phúc cho trẻ em và các gia đình cha mẹ nuôi. Đây là việc làm nhân
đạo, góp phần tăng cường sự hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước; thiết
lập mối quan hệ thân thiện. Nhiều trẻ em khuyết tật, tàn tật, mắc bệnh hiểm
nghèo được các tổ chức đưa ra nước ngoài chữa trị và được giải quyết cho làm
con nuôi. Điều đó góp phần giảm bớt chi phí, thời gian và thể hiện sự cải cách
đáng kể các thủ tục hành chính.
b. Đời sống của trẻ em tại nhiều cơ sở nuôi dưỡng được cải thiện
Các dự án hỗ trợ nhân đạo quốc tế đã tạo điều kiện cho nhiều cơ sở nuôi
dưỡng trở nên khang trang; điều kiện chăm sóc trẻ em tốt hơn. Mức hỗ trợ nuôi
dưỡng nhiều nơi đạt khoảng 1 triệu đồng/1 trẻ/tháng. Nhiều cơ sở có hệ thống
7

cung cấp nước sạch, trẻ được ăn uống đầy đủ hơn, có tiện nghi cần thiết để chăm
sóc trẻ sơ sinh. Số lượng các cháu bị bệnh hay chết do điều kiện vệ sinh không
tốt hay bệnh tật đã giảm hẳn. Trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng và ngoài cộng
đồng được khám chữa bệnh miễn phí, được cung cấp thuốc chữa bệnh. Nhiều trẻ
tàn tật được cung cấp xe lăn, các dụng cụ thiết yếu cho trẻ tàn tật, trẻ bị bệnh tim
được can thiệp kịp thời, chăm sóc tốt.
c. Nâng cao nhận thức của xã hội, thể hiện sự quan tâm, nhân đạo; đảm bảo
quyền và lợi ích của trẻ em
Nhận thức về vấn đề nuôi con nuôi, trong đó có nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài đã dần hoàn thiện theo hướng tích cực. Các cá nhân và tổ chức ở
trong và ngoài nước thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn, có biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cũng như nhận trẻ em Việt Nam làm
con nuôi. Đời sống vật chất, tinh thần của các trẻ em này được cải thiện và đảm
bảo, mang lại hạnh phúc cho cả trẻ em và gia đình nhận nuôi.
3.1.2. Về quy định của pháp luật và công tác triển khai thực hiện
a. Cơ chế giải quyết và thực hiện vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài được
kiện toàn và cụ thể, minh bạch hơn trước đây
Thứ nhất, quy định rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quản lý
việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương
binh - Xã hội, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao… Việc theo dõi, quản lý vấn đề con
nuôi quốc tế được giao cho một cơ quan đầu mối là Cục con nuôi của Bộ Tư pháp.
Thứ hai, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương với nhau và
với cơ quan trung ương đã được kiện toàn. Ở địa phương là sự phối họp liên
ngành giữa các cơ quan: Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội, Công an,
Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh. Đồng thời, cơ chế phối hợp giữa địa phương
và trung ương (thông qua đầu mối là Cục Con nuôi) đã thúc đẩy công tác quản
lý và điều hành thống nhất giữa trung ương và địa phương, nhằm tháo gỡ kịp
thời các vướng mắc.
8
Thứ ba, đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi người nước ngoài được quy

định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ hơn. Cơ quan có thẩm quyền tăng cường kiểm
tra chặt chẽ đối với hồ sơ của trẻ em, dần tạo ra sự minh bạch hơn về nguồn gốc
trẻ em. Điều này góp phần hạn chế các hành vi làm sai lệch nguồn gốc trẻ em,
góp phần bảo vệ tốt hơn quyền của trẻ em. Các thông tin về trẻ em được theo
dõi, quản lý khá thống nhất từ địa phương đến trung ương.
Thứ tư, công tác xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định
hướng dẫn giải quyết việc nuôi con nuôi quốc tế đã được Bộ Tư pháp và các Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh đặc biệt quan tâm. Cụ thể, Luật nuôi con nuôi 2010 ra đời
đã quy định cụ thể về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó
còn có các Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi.
b. Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài
được cải tiến
Chương 3 Luật nuôi con nuôi 2010 đã quy định cụ thể về trình tự, thủ tục,
điều kiện giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Thời hạn giải
quyết việc nuôi con nuôi quốc tế cũng như thời gian xử lý ở từng khâu của các
cơ quan liên quan được quy định rõ ràng, hợp lý hơn; các giấy tờ được thiết kế
theo mẫu dễ dàng cho việc thực hiện. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước được
quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn ở từng khâu trong toàn bộ quá trình xử lý hồ sơ
của người xin con nuôi và hồ sơ của trẻ em.
c. Công tác kiểm tra, thanh tra được tăng cường
Công tác kiểm tra, thanh tra được đặc biệt quan tâm; Luật nuôi con nuôi đã
quy định cụ thể vấn đề này trong chương 4 (Trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước về nuôi con nuôi). Điều này góp phần uốn nắn kịp thời những lệch lạc, xử
lý các vi phạm, nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần trách nhiệm của những
người hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Hàng năm, Bộ Tư pháp
đều phối hợp cùng các cơ quan khác ở trung ương tiến hành kiểm tra tình hình
nuôi con nuôi quốc tế ở các địa phương và kiểm tra định kì các văn phòng nuôi
con nuôi nước ngoài. Nội dung các cuộc kiểm tra khá toàn diện, đặc biệt về việc
9
xác minh nguồn gốc trẻ em; việc bảo đảm các thủ tục, hồ sơ, giấy tờ; việc sử

dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo.
d. Vai trò quan trọng của Cục nuôi con nuôi được nâng cao
Cục nuôi con nuôi ra đời đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đó là góp
phần hạn chế hiện tượng tiêu cực, buông lỏng quản lý ở địa phương và tăng
cường một cách tối đa sự điều tiết và giám sát của nhà nước đối với quá trình
giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Hạn chế
3.2.1. Về mặt xã hội
a. Làm sai lệch nguồn gốc trẻ em
Tại một số địa phương xuất hiện việc làm sai lệch nguồn gốc của trẻ em để
cho làm con nuôi; ảnh hưởng đến tính trung thực, minh bạch trong hồ sơ giấy tờ,
dẫn đến sự vi phạm quyền của trẻ em, nhất là trẻ sơ sinh. Một số vụ án xảy ra tại
Nam Định và một số địa phương khác trong thời gian gần đây cho thấy tính
phức tạp trong kiểm soát giấy tờ liên quan đến nguồn gốc đích thực của trẻ em.
b. Nhận thức của xã hội còn chưa đúng đắn về việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài
Thực tế vẫn xảy ra tình trạng nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi
nói chung và nuôi con nuôi quốc tế nói riêng; thậm chí còn mơ hồ về tính nhân
đạo, nhân văn, cũng như về các vấn đề pháp lý có liên quan. Quyết định không
được cân nhắc, thiếu chính xác; hành vi thiếu tính nhân đạo hoặc trục lợi sẽ gây
hậu quả khôn lường đối với trẻ em, người xin con nuôi, tổ chức con nuôi mà
thậm chí còn ảnh hưởng đến quan hệ giữa nước cho và nước nhận con nuôi.
Nhận thức không đúng về vấn đề nuôi con nuôi có thể dẫn đến việc làm sai lệch
giấy tờ về nguồn gốc của trẻ; tiếp tay cho những hành vi trục lợi liên quan đến
việc đạo diễn cho trẻ em làm con nuôi, xâm hại đến các quyền và lợi ích cơ bản
của trẻ em, gây ra hậu quả cho xã hội.
c. Việc người nước ngoài xin trẻ em Việt Nam làm con nuôi làm phát sinh một
số vấn đề phức tạp
10
Thông qua hiệp hội nuôi con nuôi và các gia đình xin con nuôi Việt Nam, nhiều

gia đình nước ngoài khác cũng muốn đến Việt Nam để xin con nuôi. Họ cho rằng,
thủ tục giải quyết nuôi con nuôi ở Việt Nam không mất nhiều thời gian như ở nhiều
nước; cơ quan nhà nước đều bảo đảm sự thuận lợi, an toàn và họ rất có thiện cảm
với trẻ em Việt Nam. Chính điều này đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, như: cò
mồi, môi giới trung gian, trục lợi… gây khó khăn cho hoạt động quản lí.
d. Chưa bảo đảm ưu tiên việc nuôi con nuôi trong nước trước khi cho trẻ em
làm con nuôi ở nước ngoài
Trước khi Luật nuôi con nuôi được ban hành, ở Việt Nam vẫn thiếu các quy
định đảm bảo sự gắn kết giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế
theo hướng ưu tiên nuôi con nuôi trong nước; nuôi con nuôi nước ngoài chỉ được
coi là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm cho trẻ em ở
trong nước. Tuy nhiên, các cơ quan và cơ sở nuôi dưỡng trẻ em chưa thực sự
quan tâm đến việc này, chỉ chú ý vào việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi ở
nước ngoài nếu có hồ sơ mà chưa chú ý đến việc thu xếp mái ấm gia đình cho trẻ
em ở trong nước.
3.2.2. Về quy định của pháp luật và công tác triển khai thực hiện
a. Chưa quản lý chặt chẽ hoạt động của các Văn phòng con nuôi nước ngoài
tại Việt Nam
Hiện tại, trên phạm vi cả nước có 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài được
cấp phép hoạt động, trong đó 42 văn phòng của Hoa Kỳ. Nhiều tổ chức con nuôi
sang Việt Nam mang tính tự phát, không có sự kiểm soát và giới thiệu của cơ
quan trung ương. Việc số đông các tổ chức con nuôi vào Việt Nam hoạt động đã
tạo ra sự cạnh tranh, làm cho tình hình càng trở nên phức tạp, khó kiểm soát.
Pháp luật về nuôi con nuôi, trình tự cấp phép và quản lý tổ chức nuôi con
nuôi của các nước lại rất khác nhau. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan của
nước ta trong việc đánh giá, xem xét cấp phép và quản lý.
b. Thủ tục, trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi còn bất cập
11
Thứ nhất, về thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi: Việc quản lý các dữ liệu
về trẻ em có đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi do cơ sở nuôi dưỡng trực

tiếp thực hiện và gửi về Bộ Tư pháp. Nhưng trên thực tế, đó mới chỉ là sự cung
cấp danh sách về số lượng và họ tên trẻ em, chưa kèm theo hồ sơ đầy đủ để bảo
đảm trẻ em đã có đủ điều kiện để cho làm con nuôi. Hơn nữa, hoạt động này
cũng chỉ là hình thức để thông báo, bởi các cơ sở đã phối hợp với các tổ chức
con nuôi nước ngoài giới thiệu trẻ em cho các gia đình xin nhận con nuôi.
Thứ hai, việc kiểm tra hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi cũng
chỉ được thực hiện có tính hình thức: Nhiều địa phương giao trách nhiệm chuẩn
bị hồ sơ trẻ em cho cơ sở nuôi dưỡng và chuyển cho Sở Tư pháp kiểm tra nhưng
cũng chỉ về hình thức rồi gửi Cục Con nuôi. Một số địa phương chuyển hồ sơ
của trẻ em cho cơ quan Công an tỉnh xác minh nhưng cũng chỉ cho ý kiến dưới
góc độ an ninh, chưa chú ý đến việc xác minh làm rõ về nguồn gốc thực tế. Sau
khi có ý kiến của cơ quan Công an, thì Sở Tư pháp chuyển hồ sơ cho Cục Con
nuôi. Vì vậy, nếu xảy ra sai sót về hồ sơ của trẻ em, thì không cơ quan nào chịu
trách nhiệm hoàn toàn, mà có sự liên đới.
c. Thiếu sự đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan
Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết hồ sơ nuôi con
nuôi thiếu đồng bộ. Đó là sự hạn chế trong phối hợp giữa các cơ quan thuộc
chính quyền địa phương. Có nơi, chính quyền địa phương còn thông đồng với
trung gian, môi giới trong việc thu gom trẻ em, làm sai lệch hồ sơ của trẻ em để
trục lợi. Ở trung ương, thiếu sự hợp tác thường xuyên và chặt chẽ giữa Bộ Tư
pháp và Bộ Lao động, Thương binh – Xã hội trong việc chỉ đạo vấn đề liên quan
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế.
d. Thiếu sự minh bạch trong việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân
đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài
Các khoản hỗ trợ nhân đạo phần lớn do cơ sở nuôi dưỡng tiếp nhận, quản lý,
sử dụng và có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền của địa phương. Tuy
nhiên, cơ chế tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ này khá lỏng lẻo.
12
Các báo cáo của cơ sở nuôi dưỡng về việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo
này chưa đầy đủ và chính xác. Công tác quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài

trong công tác hỗ trợ nhân đạo cũng còn nhiều hạn chế. Cần tạo ra sự minh bạch
hoá trong vấn đề này để bảo đảm việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo đúng
mục đích vì lợi ích của trẻ em
e. Công tác báo cáo chưa thực hiện nghiêm túc, gây khó khăn trong việc
thống kê, hoạch định chính sách. Công tác kiểm tra, thanh tra chưa thường
xuyên, đồng bộ.
f. Tình trạng ứ đọng hồ sơ xin con nuôi và quá tải trẻ em tại các trung tâm
bảo trợ xã hội địa phương
Nhiều trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ xã hội địa phương đang ở tình trạng quá
tải, gặp nhiều khó khăn trong việc đón nhận và chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em.
Trong khi đó, rất nhiều hồ sơ của người nước ngoài xin nhận con nuôi lại đang ứ
đọng. Chính điều này đã làm chậm cơ hội có mái ấm gia đình của nhiều trẻ em
bất hạnh trong khi hiện tại chúng ta không có đủ điều kiện và khả năng tạo dựng
cho các em cuộc sống ổn định trong nước.
g. Hạn chế về cơ sở vật chất tại cơ sở nuôi dưỡng
Hiện nay, phần lớn các cơ sở nuôi dưỡng trẻ đều gặp khó khăn về cơ sở vật
chất, cán bộ, kinh phí nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ. Vì vậy, việc tiếp nhận trẻ bị
bỏ rơi vào các trung tâm này còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ yêu cầu. Hơn nữa,
các cháu được nuôi dưỡng tại các trung tâm này hoặc là có sức khỏe yếu, hoặc bị
tàn tật, một số trẻ có sức khỏe bình thường thì không đủ điều kiện về mặt thủ tục
pháp lý để cho làm con nuôi người nước ngoài. Bên cạnh đó, có rất nhiều gia
đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, có nguyện vọng cho con làm con nuôi
nước ngoài nhưng không thể được giải quyết và các trung tâm bảo trợ xã hội
cũng không tiếp nhận những đối tượng này.
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC VÀ HOÀN THIỆN
4.1. Các giải pháp tổ chức – kỹ thuật
13
Cần có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của
Việt Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của nước
ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu rõ các quy định pháp luật của các nước về các

giấy tờ có trong hồ sơ của người xin nhận con nuôi để có các quy định phù hợp
và chặt chẽ hơn. Xem xét, bổ sung quy định đối với các nước mà khi cơ quan có
thẩm quyền cấp Giấy phép nuôi con nuôi có kèm theo các giấy tờ của người xin
nhận con nuôi đầy đủ.
Nhà nước cần chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
làm công tác thụ lý và giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nhà
nước cần xem xét để sớm thành lập thêm các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, đồng thời
hỗ trợ kinh phí, tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho các trung tâm nuôi dưỡng
trẻ mồ côi.
Cần tăng thêm thẩm quyền cho Cục Con nuôi quốc tế để cơ quan này có đủ
thẩm quyền thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực nuôi con
nuôi quốc tế, mà trước hết cần phải phân định rõ thẩm quyền quyết định cho trẻ
em làm con nuôi người nước ngoài giữa Cục Con nuôi quốc tế và UBND cấp
tỉnh. Có thể phân định thêm chức năng quyết định việc cho trẻ em Việt Nam làm
con nuôi người nước ngoài cho Cục Con nuôi quốc tế.
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến vấn
đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài để làm cho pháp luật Việt Nam hài hoà với
thông lệ quốc tế. Cần mở rộng đối tượng trẻ được xin đích danh từ gia đình nhằm
đáp ứng được nguyện vọng của cả người cho và người nhận con nuôi.
Ngoài ra, Nhà nước cần đề ra quy chế hoạt động chung cho các tổ chức
nuôi con nuôi, trên cơ sở đó các tổ chức này sẽ đề ra cho mình một quy chế phù
hợp với quy chế chung nhằm thống nhất quản lý và hướng các tổ chức này hoạt
động theo đúng pháp luật, tránh được tình trạng hoạt động cạnh tranh không
lành mạnh giữa tổ chức con nuôi nước ngoài của các quốc gia, gây tiêu cực,
phản tác dụng trong thực tế.
14
4.3. Các giải pháp khác
Tăng cường tổ chức hội nghị trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương làm
tốt công tác giải quyết cho người nước ngoài nhận nuôi con nuôi Việt Nam.

Các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường kiểm tra, thực hiện đúng các
quy định về việc xác định nguồn gốc của trẻ em, nhất là trẻ bị bỏ rơi, chống mọi
biểu hiện làm sai lệch nguồn gốc trẻ em, ngăn ngừa sự cấu kết, tiếp tay với
những người môi giới bất hợp pháp để đưa trẻ em có nguồn gốc không rõ ràng
vào cơ sở nuôi dưỡng để cho làm con nuôi người nước ngoài.
Mở rộng việc kí kết hiệp định song phương về hợp tác nuôi con nuôi với
các nước để có cơ chế hợp tác quốc tế nhằm bảo vệ trẻ em Việt Nam được làm
con nuôi, tránh cho trẻ em Việt Nam mọi rủi ro không đáng có khi làm con nuôi
ở nước ngoài và tạo điều kiện cho công dân các nước được nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi.
Nhà nước cần xem xét để sớm thành lập thêm các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em,
đồng thời hỗ trợ kinh phí, tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho các trung tâm
nuôi dưỡng trẻ mồ côi suy dinh dưỡng để các trung tâm này có đủ điều kiện tiếp
nhận trẻ vào trung tâm, đảm bảo “đầu ra” cho công tác giải quyết cho người
nước ngoài nhận con nuôi.
KẾT LUẬN
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định quan trọng trong pháp
luật hôn nhân và gia đình, không chỉ trong pháp luật quốc gia mà có trong pháp
luật quốc tế. Trong thời gian qua,Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong
việc giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, vẫn còn
xuất hiện những bất cập, những hạn chế cần phải xử lí, loại bỏ. Hoàn thiện và
kiện toàn về quy định pháp luật, về công tác tổ chức thực hiện đang là một điểm
nóng cần lưu tâm nhằm giải quyết triệt để những hạn chế này.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam, Nxb. CAND, 2011;
2. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000;
3. Luật nuôi con nuôi năm 2010;

4. Nghị định 19/2011/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật
Nuôi con nuôi năm 2000;
5. Nguyễn Thanh Huyền, Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
theo quy định của pháp luật Việt Nam: Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2010;
6. Phạm Thùy Dương, Pháp luật Viêt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài – thực trạng và phương hướng hoàn thiện: Luận văn thạc sĩ Luật
học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2011;
7. Nguyên Bình Nhưỡng, Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bài viết trên trang báo của Sở Tư pháp Hà
Nội, 26/07/2011;
8. Các trang web:



16

×