Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

THỰC TRẠNG VÀ BẤT CẬP, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TAM GIAM TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.03 KB, 19 trang )

MỤC LỤC.
A. NHẬN THỨC CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM.

A.1.Khái niệm biện pháp ngăn chặn.
A.2.Khái niệm biện pháp tam giam
A.3. Mục đích biện pháp tam giam.
B. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH.
B.1. Đối tượng tam giam.
B.2. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam.
B.3 Thẩm quyền ra lệnh tam giam
B.4 Thủ tục tam giam
B.5 Thời hạn tam giam.
C. THỰC TRẠNG VÀ BẤT CẬP, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN TAM GIAM TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH Ở VIỆT NAM
C.1 Thực tiễn việc tam giam trong thời gian qua.
C.2 Bất cập và khó khăn trong tam giam hiện nay.
C.2.1 Vướng mắc thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra.
C.2.2.Vướng mắc về quy định về thẩm quyền áp dụng BPNC trong tạm giam.
C.2.3. Vướng mắc người đề xuất ra lệnh và người phê chuẩn lệnh tam giam.
C.3.Những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tam
giam.
C.4. Nguyên nhân của những khó khăn,bất cập và tồn tại trong thực tiễn áp
dụng biện pháp ngăn chặn tam giam ở nước ta hiện nay
C.4.1. Nguyên nhân liên quan đến công tác xây dựng pháp luật.
C.4.2. Nguyên nhân do ý thức chủ quan của chủ thế áp dụng.
C.4.3. Nguyên nhân khách quan.
D. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN BIỆN PHÁP TẠM GIAM.

A. NHẬN THỨC CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM.
1




A.1.Khái niệm biện pháp ngăn chặn.
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp
dụng đối với bị can, bị cáo, người bị trruy nã hoặc những người chưa bị khởi
tố( trong trường hợp khẩn cấp hoặc quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vu
nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp
luật hoặc có những hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án.
A.2.Khái niệm biện pháp tam giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự do Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm
trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt trên tù
hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc nhất
trong các biện pháp ngăn chặn khác của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng
biên pháp tam giam bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn
chế một số quyền công dân
A.3. Mục đích biện pháp tam giam.
Tam giam được áp dụng với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của
tố tụng hình sự. Vì vây, ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không
để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn
cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng
biện pháp này còn mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố
tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam trong giai đoạn điều tra
tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu
nhập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà
không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc

quản lý giám sát bị can được chặt chẽ; việc tam giam bị cáo sau khi tuyên án
2


nhằm bảo đảm cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được
A.

thuận lợi.
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH.
B.1. Đối tượng tam giam.
Khoản 1, Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Tạm giam có thể được áp
dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng mà Bộ luật
hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có
thể trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp sau phải có ba điều kiện:
- Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo.
- Về tính chất hành vi, tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện phải là tội ít
nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai
năm.
- Có căn cứ để cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn, cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
B.2. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam.
Có căn cứ để cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn, cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn không được quy định trong luật.
Tuy vậy, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã đúc kết những căn cứ chủ yếu
cần phải dựa vào đó để xem xét là: Tình trạng cư trú của bị can, bị cáo (Có nơi

cư trú? Thường trú hay tạm trú? Nếu tạm trú thì dài hạn hay ngắn hạn? Có
3


khai báo với chính quyền hay không? Nơi cư trú có ở quá xa nơi tiến hành các
hoạt động tố tụng hay không?); Tình trạng nghề nghiệp (Có nghề nghiệp
không? Làm việc trong cơ quan, tổ chức hay làm nghề tự do?); Tính chất hành
vi đã thực hiện (cướp, trộm cắp, giết người hay lừa đảo...); Nhân thân (tiền án,
tiền sự, hoàn cảnh gia đình, lịch sử bản thân...); Sự ràng buộc với gia đình, quê
quán, cơ sở làm việc; Mối tương quan về lợi ích giữa việc bỏ trốn với việc
chấp nhận bị xử lý trước pháp luật; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo
như liên hệ với người thân ở xa, mua vé đi xa...
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử.
Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau như tiêu hủy chứng cứ, làm giả hiện trường, thông đồng với nhau về
những lời khai gian dối, mua chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại
hoặc các hình thức khác. Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp
“gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử” nhưng ở mức độ cao hơn
mang tính đối phó lại việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội.
Để nhận định bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và
xem xét đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất
của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo;
Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc
người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn
tội phạm.
BLTTHS quy định một số trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam
Những trường hợp đặc biệt nói trên theo quy định tại khoản 2, Điều 88 gồm:
- Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;


4


- Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm
tội hoặc cố ý cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
- Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho
rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
B.3 Thẩm quyền ra lệnh tam giam
Khoản 3 điều 88 BLTTHS năm 2003 quy định những người có thẩm quyền ra
lênh bắt bị can, bị cáo để tam giam thì có quyền ra lệnh tam giam.
Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ
luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được
quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày
nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan
đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra
ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
B.4 Thủ tục tam giam
Việc tam giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tam giam phải
ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của người ra lệnh; họ tên địa chỉ người
bị tam giam; lý do tạm giam; thời hạn tam giam và giao cho người tam giam
một bản.
Sau khi ra lệnh tam giam, cơ quan ra lệnh tam giam phải kiểm tra căn cước của
người tam giam nhằm xác đinh đúng đối tượng tạm giam, tránh trường hợp
nhầm lẫn theo như khoản 4 điều 88 BLTTHS : “Cơ quan ra lệnh tạm giam
phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình
người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.”
5



Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tam giam phải thông báo ngay cho người bị tam
giam và cho chình quyền, xã, phường thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người
bị tam giam cư trú hoặc làm việc biết để gia đình họ cũng như các cơ quan tổ
chức biết được sự việc và không tiến hành những thủ tục tìm kiếm không cần
thiết, gây tốn kém.
B.5 Thời hạn tam giam.
Căn cứ Điều 120 và Điều 121 Bộ luật tố tụng Hình sự hiện hành thì thời hạn
tạm giam để điều tra theo từng trường hợp như sau:
1. Thời hạn tạm giam bị can bị giam để điều tra không quá hai tháng đối với
tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng,
không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời
gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ
biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, cơ
quan điều tra phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được qui định như sau:
a. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần
không quá một tháng.
b. Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần
thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng.
c. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần,
lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng.
d. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba
lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
6



C. THỰC TRẠNG VÀ BẤT CẬP, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN TAM GIAM TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH Ở VIỆT NAM
C.1 Thực tiễn việc tam giam trong thời gian qua.
Tạm giam trong thời gian qua có hiệu quả lớn trong việc đấu tranh phòng ngừa
tội phạm. Nhiều vụ án phát hiện nhanh chóng, kịp thời đáp ứng nhiệm vụ giữ
gìn trật tự an toàn xã hội, các quyền và lợi ích nhân dân được tôn trọng bảo vệ.
Thực tiễn đầu năm 2007 số người tam giam là 1261, cuối năm 2007 số người
được giải quyết 944 người (23 người được thay đổi biện pháp ngăn chặn, 1
người bị hủy biện pháp ngăn chặn do được miễn TNHS) số người chết do tam
giam là 3 người, số người còn lại là 314 người. Đầu năm 2008, số người tam
giam là 1223 người cuối năm 2008 số người được giải quyết là 856 người( 28
người được thay đổi biện pháp ngăn chặn, 6 người được hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn do được miễn TNHS) số người chết là 3 người, còn lại 364 người.
Theo báo cáo tổng kết VKSND Hải Dương địa bàn tỉnh 2007, 2008 không để
xảy ra tình trạng tam giam không có lệnh, tạm giam vượt quá thời hạn.
C.2 Bất cập và khó khăn trong tam giam hiện nay.
Vướng mắc tạm giam bị can , bị cáo chưa thành niên khoản 2 điều 303 là đủ
16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm
trọng do vô ý thì không thể áp dụng biện pháp tam giam đối với họ bởi bất kỳ
lý do gì. Theo quy định BLTTHS năm 1999, tội ít nghiêm trọng chiếm tỷ lệ
khá lớn. Bên cạnh đó những người chưa thành niên có độ tuổi đủ 16 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi phạm tội này ngày càng gia tăng. Các tội như cố ý gây thương
tích ( khoản 1 điều 104), Gây rối trật tự công cộng (Khoản 1 điều 245), Trộm
cắp tài sản ( khoản 1 điều 138), Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ( khoản 1 điều
139), Đánh bạc ( khoản 1 điều 248)….. hoặc tội nghiêm trọng do vô ý. Vi
phạm các quy định về điều kiện gia thông đường bộ ( khoản 1 điều 202).

7



Tuy nhiên theo khoản 2 điều 303 BLTTHS năm 2003 cơ quan thẩm quyền
được áp dụng biện pháp ngăn chặn với bị can, bị cáo thuộc các trường hơp
trên. Thực tế nhiều trường hợp bị can, bị cáo đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
phạm tội ít nghiêm trọng được tại ngoại đã bỏ trốn nhiều lần và bị bắt theo
lệnh truy nã, khi Cơ quan điều tra, Tòa án trao đổi để áp dụng biên pháp ngăn
chặn đối với họ thì Viện kiểm sát không biết làm như thế nào vì theo khoản 2
Điều 303 không có căn cứ để áp dụng biện pháp tam giam.
C.2.1 Vướng mắc thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra.
Theo quy định tại điều 120 BLTTHS thì thời hạn tam giam để điều tra (kể cả
gia hạn) là không quá 3 tháng đối với tội ít nghiêm trọng, 6 tháng đối với tội
nghiêm trọng, 9 tháng đối với tội rất nghiêm trọng, 18 tháng đối với tội đặc
biệt nghiêm trọng. Trong khi đó điều 199 của BLTTHS lại quy định thời gian
để điều tra ( kể ca gia hạn) là 4 tháng đối với tội ít nghiêm trọng, 8 tháng đối
với tội nghiêm trọng, 12 tháng đối với tội rất nghiêm trọng và 16 tháng đối với
tội đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy thời hạn điều tra ( kể cả gia hạn) dài hơn
thời hạn tam giam để điều tra ( kể cả gia hạn). Việc quy định thời gian gia hạn
tam giam để điều tra hạn chế việc lam dụng thời gian gia hạn tạm giam, đồng
thời còn ý nghĩa cho việc đảm bảo cơ quan điều tra cần phải đấy nhanh tiến độ
giải quyết vụ án, nếu không thời hạn tạm giam sẽ hết mặc dù thòi hạn điều tra
vẫn còn. Tuy nhiên trên thực tiễn trong nhiều vụ án khi hết thời hạn tam giam (
kể cả gia hạn) mà Cơ quan điều tra vẫn chưa hoàn thành việc điều tra do tính
chất của vụ án không thể trả tự do cho bị can. Nhưng nếu trả tự do cho bị can,
bị can có thể trốn tiếp tục phạm tội gây cản trở cho việc điều tra. Trong trường
hợp này Cơ quan điều tra phải giải quyết như thế nào? Theo quy định của pháp
luật thì Cơ quan điều tra phải trả tự do cho bị can, bị cáo, nếu cần thì chỉ áp
dụng BPNC khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm
bảo. Liệu như vậy có đảm bảo được rằng bị can, bị cáo không gây thêm tội,
hoặc sẽ không trốn đi gây cản trở cho công việc điều tra??
8



C.2.2.Vướng mắc về quy định về thẩm quyền áp dụng BPNC trong tạm
giam.
Theo khoản 3 điều 88 của BLTTHS quy định: “Những người có thẩm quyền ra
lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm
giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều
80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị
xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát
phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát
phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê
chuẩn.” dẫn chiếu sang quy định tại khoản 1 điều 80 ở giai đoạn điều tra. Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp có quyền gia lệnh tam giam,
tuy nhiên lệnh tam giam đó phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành.
Ngoài ra trong quá trình điều tra việc quyết đinh, hủy bỏ, thay thế BPNC tạm
giam. Quyết định việc gia hạn tam giam cũng đều thuộc thẩm quyền của VKS,
cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị. Như vậy việc quy đinh cơ quan điều tra
có thẩm quyền áp dụng BPNC trong giai đoạn điều tra chỉ mang tính hình
thức, còn thực tế việc áp dụng thay thế, hủy bỏ, áp dụng BPNC tam gia do
VKS quyết định.
C.2.3. Vướng mắc người đề xuất ra lệnh và người phê chuẩn lệnh tam
giam.
Như ta thấy quan hệ giữa Thủ trưởng Cơ quan điều tra và điều tra viên là quan
hệ chỉ huy, phục tùng. Sau khi khởi tố vụ án, Thủ trưởng có quan điều tra có
thể trực tiếp tiến hành điều tra hoặc quyết định phân công cho điều tra viên
điều tra vụ án. Khi được phân công điều tra, điều tra viên có quyền tiến hành
các biện pháp điều tra do BLTTHS quy định còn việc áp dụng biện pháp tạm
giam điều tra viên chỉ có quyền đề xuất. Thủ trưởng cơ quan điều tra ký lênh
tam giam và VKS phê chuẩn. Như vậy khi nếu như tam giam trái pháp luật thì
9



ở đây ai chịu trách nhiêm. Điều tra viên, Thủ trưởng Cơ quan điều tra? Hay
VKS. Khi mà điều tra viên đề xuất, Thủ trưởng cơ quan điều tra ký còn VKS
phê chuẩn. Mức độ sai phạm của người bị bắt trước khi có sự phê chuẩn được
đánh giá ra sao? Trên thực tế lênh tam giam cần phải có sự phê chuẩn của VKS
thường được phê chuẩn cùng ngày ra lệnh, nhưng vẫn có những trường hợp
phê chuẩn sau ngày bắt bị can, bị cáo để tam giam. Theo quy định tại khoản 3
điều 88 BLTTHS trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tam giam,
đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến tam giam, VKS phải ra
lệnh quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Trong thưc tế có những vụ
án đơn giản, tài liệu không nhiều thì VKS có thể xem xét phê chuẩn ngay trong
ngày. Song thực tế cũng có những vụ án phức tạp nhiều tài liệu đòi hỏi VKS
phải có thời gian nghiên cứu, xem xét có phê chuẩn hay không. Ngoài ra
không loại trừ VKS vì lý do nào đó chậm trễ trong việc phê chuẩn dẫn đến bị
can trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn trong công tác điều tra. Trong
trường hợp đó VKS có chịu trách nhiệm về việc phê chuẩn chậm trễ không?
Nếu có thì đó là trách nhiệm gì?
C.3.Những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tam
giam.
- Tình trạng tam giam quá thời hạn.
Trong thực tế do nhiều vụ án do tình tiết phức tạp và có nhiều bị can thường
thời hạn tam giam quá hạn trong giai đoạn điều tra. Điều đó ảnh hưởng đến
quyền lợi của người bị tam giam, mất lòng tin của công dân vào cơ quan có
thẩm quyền trong TTHS nói chung và việc tam giam nói chung.
-

Vi phạm chế độ tam giam.

Do điều kiện tam giam nhiều nơi còn trật hẹp, tình hình tội phạm gia tăng,

thực tế vẫn còn xảy ra tình trạng vi phạm về diện tích tối thiểu cho người bị

10


tam giam, công tác quản lý trại tam giam còn chưa tốt nên vẫn cón xảy ra tình
trạng đánh nhau và bỏ trốn trại.
Hiện tượng cán bộ trại giam và cán bộ điều tra có những hành động như đánh
đập, ép cung đối với bị can bị tam giam là một trong những vấn đề gây bức
xúc trong nhân dân hiện nay, có rất nhiều trường hợp người bị tam giam đã
chết trong trại giam mà nguyên nhân chết có liên quan đến vấn đề đánh đập,
tra tấn là vẫn tồn tại.
-

Vi phạm về đối tượng áp dụng BPNC tam giam

Như tam giam đối với phụ nữ có thai, hay người bị bệnh năng măc dù không
thuộc trường hợp đặc biệt theo quy định khoản 2 điều 88BLTTHS nhưng
những đối tượng này vẫn bị cơ quan tố tụng hình sự áp dụng BPNC tam giam.
C.4. Nguyên nhân của những khó khăn,bất cập và tồn tại trong thực tiễn áp
dụng biện pháp ngăn chặn tam giam ở nước ta hiện nay
C.4.1. Nguyên nhân liên quan đến công tác xây dựng pháp luật.
Quy định về thời hạn tam giam vẫn chưa có sự thống nhất với thời hạn tam
giam để điều tra do vậy trong nhiều trường hợp thời hạn tam giam đã hết
nhưng do tính chất phức tạp của vụ án mà cơ quan điều tra vẫn chưa tìm ra
được trong khi thời hạn điều tra vẫn còn dẫn đến khó khăn cho công tác điều
tra và sẽ khó khăn hơn nữa trong quá trình xét xử và thi hành án sau này:
Về đối tượng bị áp dụng biên pháp tam giam quy định là những bị can, bị cáo (
điều 88 BLTTHS) nhưng thực tế những đối tượng không phải là bị can, bị cáo
nhưng vẫn phải áp dụng BPNC tạm giam đó là những đối tượng đã bị tòa án

tuyên phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình đã hết thời hạn tam giam và
chưa được thi hành ngay thì phải tạm giam để chờ thi hành án ( điều 288, điều
243 BLTTHS).
C.4.2. Nguyên nhân do ý thức chủ quan của chủ thế áp dụng.
11


Thực tiễn áp dụng BPNC tạm giam cho thấy rằng tình hình vi phạm pháp luật
từ phía cơ quan có thẩm quyền trong thời gian qua vẫn con diễn ra nhiều. Có
những trường hợp tam giam không đúng đối tượng, không đúng thủ tục, sai
thẩm quyền; hay những trường hợp tam giam đã quá hạn nhưng cơ quan có
thẩm quyền vẫn không trả tự do cho bị can, bị cáo. Nhận thức của một số cơ
quan, đơn vị và những người có trách nhiệm, quyền hạn trong việc áp dụng
BPNC tạm giam còn hạn chế, chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của
pháp luật tố tụng trong quá trình áp dụng BPNC tam giam như thủ tục áp
dụng, căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng. Có những nơi đặc biệt là vùng sâu,
vùng xa trình độ của cán bộ làm công tác này còn hạn chế về chuyên môn và
hiểu biết và pháp luật còn hạn chế cũng là nguyên nhân dẫn đến việc xâm
phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do của công dân. Nhiều
trường hợp thì do là nể nang, sợ trả thù hoặc đã nhận hối lộ nên người có thẩm
quyền cũng đã “ lờ” đi các quy định của pháp luật tố tụng mà tạm giam những
người không phải là đối tượng bị tam giam, trả tự do cho những đối tượng theo
quy định của pháp luật tố tụng là phải tam giam
C.4.3. Nguyên nhân khách quan.
Những nguyên nhân khách quan ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng nói chung và BPNC tạm giam nói riêng bao gồm điều
kiện phương tiện, trang thiết bị thiếu thốn, xuống cấp trầm trọng, kinh phí để
sữa chữa, xây dưng còn rất hạn hẹp nên vấn đề sinh hoạt của người tạm giam
còn gặp nhiều khó khăn.
D.


Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện biện pháp ngăn chặn tam
giam.

-

Sửa đổi, bổ sung trong quy định của BLTTHS hiện hành chưa có quy định

về khái niệm tam giam. Theo tôi để cho rõ ràng chúng ta nên thêm khái niệm
tam giam vào BLTTHS.
12


-

Vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm gia theo BLTTHS nên quy

định các mức thời hạn phê chuẩn của VKS theo từng loại vụ án đơn gian, phức
tạp, kể từ khi nhận được công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án.
Khoản 3 điều 88 BLTTHS. Có thể thấy rằng nếu vụ án phức tạp số lượng tài
liệu lớn VKS cần thêm thời gian để xem xét và phê chuẩn để tránh tình trạng
bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ gây khó khăn cho việc điều tra.
- Việc bắt người bị cáo tại phiên tòa cần có quy định theo hướng phải có lệnh
tam giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không thể tiếp
tục tạm giam bị cáo do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa được
đem ra thi hành, trừ trường hợp bản án được đem ra thi hành ngay theo quy
định tại Khoản 2, Điều 255 BLTTHS. Đồng thời theo quy định tại khoản 3
điều 243 BLTTHS thì : “ Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm có
quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn .”
Quy định này áp dụng cho Tòa án cấp phúc thẩm còn nội dung và vi áp dụng

khác với sơ thẩm. Cụ thể, nếu ở cấp sơ thẩm việc bắt bị cáo tại phiên tòa chủ
được tiến hành khi có căn cứ cho thấy : “ bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục
phạm tội” thì ở cấp phúc thẩm chỉ cần bị cáo bị tuyên phạt tù thì Hội đồng xét
xử phải bắt tam giam, trừ trường hợp quy định tại Điều 261 BLTTHS ”. Trên
thực tế, không phải bắt bị cáo ngay tại phiên tòa cũng thuân lợi như luật định.
Ví như trường hợp đối với bị cáo tại ngoại thì hầu hết khi họ đến phiên tòa đều
có nhân thân đi cùng, nếu bắt ngay bị cáo tại phiên tòa thì không tránh khỏi
thân nhân của họ kêu khóc, chửi bới, gây mất trật tự tại phiên tòa, ảnh hưởng
đến quá trình làm việc của Hội đồng xét xử. Như vậy, cần có các quy định
hướng dẫn cụ thể trường hợp này để tránh những tình huống đáng tiếc xảy ra
cũng đảm bảo hoạt động bình thường của cơ quan xét xử.
- Về vấn đề trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và người phê chuẩn
lệnh tam giam. Qua thực tiễn áp dụng BPNC tạm giam có nhiều ý kiến cho
rằng nên mở rộng thêm thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm
13


phán trực tiếp thụ lí vụ án được quyền án dụng BPNC tam giam. Bởi vì, hiện
nay có tình trạng một người đề xuất, một người quyết định còn ai chịu trách
nhiệm về việc oan sai. Nhưng theo tôi không nên mở rộng thẩm quyền của
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán vì trình độ của họ cũng có nhiều hạn
chế bởi nhiều lý do nên theo tôi nếu tạm giam trái pháp luật thì Điều tra viên
phải chịu trách nhiệm của người đề xuất, Thủ trưởng Cơ quan điều tra viên
phải chịu trách nhiệm của người ra lệnh còn khi tạm giam được VKS phê
chuẩn thì người đã phê chuẩn phải chịu trách nhiêm của ngườn phê chuẩn.
Một số kiến nghị khác
Thứ nhất, nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của các chủ
thể có thẩm quyền áp dụng biên pháp ngăn chặn tam giam.
Đối với Cơ quan điều tra: Cần năng cao chất lượng đội ngũ Điều tra viên,
thường xuyên mở các lớp huấn luyện nhằm nâng cao ý thức pháp luật, trình độ

nghiệp vụ cho Điều tra viên. Thực tế, Điều tra viên là tiến hành tố tụng hình sự
trực tiếp điều tra vụ án, lập hồ sơ vụ án, đề xuất Thủ trưởng Cơ quan điều tra
ra lệnh tạm giam. Đặc biệt trong tình hình tội phạm ngày càng tinh vi với
nhiều thủ đoạn khác nhau càng đòi hỏi trình độ chuyên môn của điều tra viên
ngày càng được nâng cao. Trước khi áp dụng BPNC tạm giam, Cơ quan điều
tra cần cân nhắc đến sự cần thiết của việc áp dụng biện pháp này. Quán triệt
quan điểm chỉ đạo của Đảng là xác định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp
dụng BPNC tạm giam đối với một số tội phạm.
Đối với VKS: Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát hoạt động tố tụng nói
chung trong đó có việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nên vai trò của
VKS có ỹ nghĩa quan trọng trong quá trình áp dụng BPNC này. Vì thế, yêu cầu
đặt ra với VKS là kiểm soát chặt chẽ việc phê chuẩn lệnh tam giam, đảm bảo
không gây ảnh hưởng quyền lợi của người bị tam giam. Muốn vậy, trước tiên
VKS phải kiện toàn đội ngũ Kiểm sát viên đồng thời tăng cường hơn nữa viêc
14


kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của các CQTTHS nhằm đảm
bảo một cách tốt nhất nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như bảo vệ
được quyền lợi chính đáng của công dân, kịp thời phát hiện và xử lý những
trường hợp cố tình vi phạm các quy định của pháp luật về tam gia như ép
cung, mớm cung, tra tấn người bị tam giam.
Đối với Tòa án: Cần thường xuyên tiến hành việc tập huấn nghiệp vụ cho các
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn tam giam. Cần phải có văn bản hướng dẫn chi tiết các trường
hợp áp dụng, thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của Chánh án,
Phó chánh án và của Hội đồng xét xử cũng như về thời hạn tạm giam trong
từng giai đoạn của quá trình xét xử.
Thứ hai, tăng cường hoàn thiện cơ sở vật chất, nâng cao chất lương cuộc sống
cho người bị tam giam.

Nghị định 89/CP ngày 07/11/1998 về quy chế tạm giữ đã phát huy tốt tác
dụng, chế độ tạm giam đã thực hiện khá tốt ở nhiều địa phương. Tuy nhiên,
trên thực tế tình hình vi phạm trong thực hiện chế độ tạm giam còn xảy ra khá
nhiều. Do số lượng người bị tam giam quá lơn, vượt quá khả năng của các trại
giam không đảm bảo diện tích cho người bị tam giam thường xuyên xảy ra,
nhiều khi số người tam giam trong các trại giam gấp 2 đến 3 lần so với thiết
kế. Trại giam của công an thành phố Hà Nội ( Hỏa Lò cũ) có thiết phép chứa
tối đa 800 người nhưng thường xuyên phải đến 1800 đến 2000 người, trại
giam thành phố Hồ Chí Minh bình quân mỗi người chỉ có 1.42m vuông, có
những nơi quá tải như trại giam của Công an thành phố Hải Phòng có lúc binh
quân mỗi người chỉ có 0.5 m vuông.
Có thể thấy tình trạng quá tải, xuống cấp trầm trọng ở các trại giam nên chính
là nguyên nhân của tình trạng gây gổ đánh nhau dẫn đến chết người trong các
trại giam, vi phạm kỉ luật buồng giam hay bỏ trốn tập thể của các đối tượng bị
15


tam giam khiến cho công tác quản lý giam giữ của các trại tam giam gặp nhiều
khó khăn. Mặt khác, chế độ tam giam không phải là chế độ chấp hành phạt tù
bởi người bị tam giam là những người chưa có tội, chưa bị tước đi các quyền
công dân cơ bản và đươc pháp luật bảo hộ.
Trong quá trình giam giữ họ phải được đảm bảo các nhu cầu tối thiểu về ăn
mặc, ở. Do đó, vấn đề hoàn thiện cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng sinh hoạt
cho người tam giam một nhu cầu thiết yếu. Để giải quyết tình trạng trên, chúng
tôi kiến nghị các cơ quan chức năng tăng cường đầu tư kinh phí để xây dựng
mới hoặc cái tạo các nhà tạm giam, đặc biệt là ở các “điểm nóng” và tình trạng
quá tải xảy ra các vi phạm về chế độ giam giữ. Có như vậy việc quản lý, giám
sát người bị tam giam mới được chặt chẽ và điều kiện sinh hoạt của bị can, bị
cáo trong những nơi này mới được cải thiện.
Vừa rồi là bài tập về tam giam trong quy định của pháp luật hiện hành ở Việt

Nam tôi có nêu ra một số bất cập xong kiến thức còn hạn chế chưa nêu hết
những bất cập cũng như phương hướng hoàn thiện mong nhận sự đóng góp
của thầy, cô về bài tập này.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
-

Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
Giáo trình tố tụng hình sự Việt Nam
Khóa luận tốt nghiệp: Một số quy định về biện pháp ngăn chặn tạm
giam trong luật tố tụng Việt Nam ( Vũ Đình Hiểu)

MỤC LỤC.
C. NHẬN THỨC CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM.

A.1.Khái niệm biện pháp ngăn chặn.
A.2.Khái niệm biện pháp tam giam
A.3. Mục đích biện pháp tam giam.
D. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH.
B.1. Đối tượng tam giam.
B.2. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam.
B.3 Thẩm quyền ra lệnh tam giam
B.4 Thủ tục tam giam
B.5 Thời hạn tam giam.

17



C. THỰC TRẠNG VÀ BẤT CẬP, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN TAM GIAM TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH Ở VIỆT NAM
C.1 Thực tiễn việc tam giam trong thời gian qua.
C.2 Bất cập và khó khăn trong tam giam hiện nay.
C.2.1 Vướng mắc thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra.
C.2.2.Vướng mắc về quy định về thẩm quyền áp dụng BPNC trong tạm giam.
C.2.3. Vướng mắc người đề xuất ra lệnh và người phê chuẩn lệnh tam giam.
C.3.Những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tam
giam.
C.4. Nguyên nhân của những khó khăn,bất cập và tồn tại trong thực tiễn áp
dụng biện pháp ngăn chặn tam giam ở nước ta hiện nay
C.4.1. Nguyên nhân liên quan đến công tác xây dựng pháp luật.
C.4.2. Nguyên nhân do ý thức chủ quan của chủ thế áp dụng.
C.4.3. Nguyên nhân khách quan.
D. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN BIỆN PHÁP TẠM GIAM.

18



×