Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường cao đẳng kinh tế kỹ thuật hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

VŨ THỊ THU TRANG

KỸ NĂNG TỰ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
HẢI DƢƠNG
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60.31. 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Hoàng Mộc Lan

Hà Nội - 2015

1


LỜI CẢM ƠN!
Sau quá trình học tập, nghiên cứu tại Khoa Tâm lý học Trường Đại học Khoa
học Xã hội & Nhân văn Hà Nội, em đã hoàn thành chương trình học và Luận văn
tốt nghiệp.
Em xin gửi tới toàn thể Ban Giám hiệu; các Phòng, Ban, Khoa; các cán bộ,
giảng viên của Trường lòng biết ơn chân thành!
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới toàn thể cán bộ, giảng viên Khoa Tâm lý đã
tận tình giảng dạy, hỗ trợ chúng em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu!
Để có thể hoàn thành nghiên cứu này, em đã nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn


tận tình, chu đáo của Giảng viên, PGS.TS. Hoàng Mộc Lan – Khoa Tâm lý học
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội. Em xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành, sâu sắc tới cô!
Hà Nội, tháng 6 năm 2015
Học viên

Vũ Thị Thu Trang

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các dữ liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn

Vũ Thị Thu Trang

3


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Đánh giá của sinh viên về mức độ kỹ năng tự lập kế hoạch học tập
Bảng 2: Căn cứ để đăng ký môn học của sinh viên khi lập kế hoạch
Bảng 3: Kỹ năng học tập trên lớp
Bảng 4: Kỹ năng tự học, tự nghiên cứu
Bảng 5: Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập
Bảng 6: Mức độ kỹ năng học tập của sinh viên
Bảng 7: Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập


4


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của Kỹ năng tự quản
lý hoạt động học tập
Biểu đồ 2: Mục đích học tập của sinh viên
Biểu đồ 3: Hành động thực hiện kế hoạch học tập của sinh viên

5


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Đối tuợng nghiên cứu ................................................................................ 2
4. Khách thể nghiên cứu ................................................................................ 2
5. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................ 2
6. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................. 3
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .................................................................... 3
8. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 3
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................... 4
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................. 4
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................ 4
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam .................................................................. 7
1.2. Lý luận về kỹ năng và kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của
sinh viên ........................................................................................................ 9
1.2.1. Lý luận về kỹ năng và khái niệm kỹ năng ...................................... 9

1.2.2. Khái niệm tự quản lý ..................................................................... 18
1.2.3. Khái niệm hoạt động học tập ........................................................ 20
1.3. Khái niệm sinh viên ............................................................................ 23
1.4. Khái niệm kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của sinh viên.... 24
1.4.1. Các mặt biểu hiện của kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của
sinh viên....................................................................................................26
1.2.3. Khái niệm hoạt động học tập ........................................................ 20
1.4.2. Quá trình hình thành và mức độ kỹ năng tự quản lý hoạt động học
tập của sinh viên ...................................................................................... 27
1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập
của sinh viên ................................................................................................ 28
1.5.1. Yếu tố khách quan ......................................................................... 28
1.5.2. Yếu tố chủ quan.............................................................................31

6


Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................. 32
2.1. Nghiên cƣ́u lý luâ ̣n .............................................................................. 32
2.2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ........................................................... 32
2.2.1. Vài nét về Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương ....... 32
2.2.2. Một số đặc điểm khách thể nghiên cứu ........................................ 35
2.3. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u ................................................................... 35
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liê ̣u .................................................. 35
2.3.2. Phương pháp điều tra .................................................................... 36
2.3.3. Phương pháp quan sát ................................................................... 37
2.3.4. Phương pháp thảo luâ ̣n nhóm ....................................................... 38
2.3.5. Phương pháp xử lý số liê ̣u nghiên cứu bằng thống kê toán học và
các thang đánh giá ................................................................................... 38
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 41

3.1. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của kỹ năng tƣ̣ quản lý
hoạt động học tập........................................................................................ 41
3.2. Mƣ́c đô ̣ kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của sinh viên......... 45
3.2.1. Kỹ năng tự lập kế hoạch học tập ..................................................... 45
3.2.2. Kỹ năng học tập trên lớp ............................................................... 51
3.2.3. Kỹ năng tự học, tự nghiên cứu ...................................................... 57
3.2.4. Kỹ năng tự kiể m tra, đánh giá hoa ̣t đô ̣ng ho ̣c tâ ̣p ......................... 64
3.3. So sánh tƣơng quan mức độ kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập
của sinh viên ............................................................................................... 67
3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tự quản lý học tập của sinh viên 69
3.4.1. Các yếu tố chủ quan ...................................................................... 71
3.4.2. Các yếu tố khách quan .................................................................. 75
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................... 76
1. Kết luận................................................................................................... 79
2. Khuyến nghị ........................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... .... 83
PHỤ LỤC

7


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi bước chân vào các trường chuyên nghiệp, mỗi sinh viên phải đặt ra cho
mình một kế hoạch học tập, một sự hướng đích trong thời gian nhất định, thời gian
đó có là 3 năm đối với bậc học cao đẳng hoặc từ 4 đến 6 năm đối với bậc học đại
học. Trong thời gian đó, đa phần các sinh viên sống xa gia đình và bố mẹ, vì thế
việc tự quản lý hoạt động học tập trở nên rất cần thiết. Bởi vì đây chính là giai đoạn
đánh dấu sự trưởng thành ở các em và cũng chính các em là nguồn nhân lực chủ yếu
để đưa đất nước phát triển. Với tốc độ phát triển thông tin như hiện nay đòi hỏi sinh

viên phải có những kỹ năng và phương pháp học tốt để có thể tự học và tự trau dồi
kiến thức cho mình. Khác với cách học ở phổ thông, học tập ở bậc cao đẳng, đại
học đòi hỏi ở sinh viên phải có kỹ năng, phương pháp học tập mới để có tiếp nhận
một lượng kiến thức lớn. Hoạt động học tập của sinh viên là đi sâu, tìm hiểu những
môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể, hoạt động này mang tính độc lập,
tự chủ và tính sáng tạo cao. Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là bản thân họ phải luôn luôn
tích cực và chủ động để có thể hòa nhập và tự hoàn thiện chính bản thân.
Hơn nữa, sinh viên luôn luôn phải tiếp nhận và làm việc với lượng thông tin
lớn và cường độ cao vì vậy nếu không biết cách tự quản lý việc học tập sẽ dẫn đến
kết quả học tập không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng mà xã hội đặt ra và
không phải sinh viên nào cũng biết cách tự quản lý việc học tập của mình. Đối với
những sinh viên có nền tảng tốt từ phổ thông (được sự giáo dục của gia đình và nhà
trường, có mục tiêu rõ ràng, cụ thể cho việc học ...) thì việc tự quản lý trở nên dễ
dàng hơn rất nhiều. Còn đối với sinh viên lười học, ham chơi thì đây thực sự là một
điều hết sức khó khăn.
Sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương cũng có các vấn
đề như vậy. Có những sinh viên dù xa gia đình và phải vừa học vừa làm nhưng kết
quả học tập rất tốt, nhưng ngược lại có những sinh viên lại chểnh mảng, ham chơi,
thả lỏng mình vì vậy việc học tập hết sức khó khăn. Hơn nữa, họ là những sinh viên
học trong một ngành còn rất mới, điều này cũng là một t hử thách hết sức lớn lao

1


đối với bản thân họ, và trong điều kiện thực tế cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, đội ngũ giáo viên trong trường nhiều thầy/cô còn rất trẻ nên việc trao đổi
kinh nghiệm giảng dạy và thực hành còn có những hạn chế nhất định. Việc quan
tâm tới từng sinh viên cũng có những khó khăn nhất định. Tất cả những điều đó đã
phần nào tác động đến hoạt động học tập của sinh viên. Từ những thực trạng trên,
chúng tôi đã nghiên cứu đề tài “Kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của sinh viên

Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương”. Nghiên cứu kỹ năng tự quản lý
hoạt động học tập của sinh viên sẽ góp phần bổ sung tài liệu phục vụ trực tiếp cho
giảng dạy về lĩnh vực này, đồng thời giúp cho sinh viên chủ động thực hiện hoạt
động học tập có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng đòi hỏi
nguồn nhân lực trong xu thế hội nhập của đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của sinh viên
Trường Cao đẳ ng Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương , phân tích các yếu tố ảnh hưởng
đến thực trạng đó. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nâng cao kỹ năng tự quản
lý hoạt động học tập của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục , đào ta ̣o
của Trường.
3. Đối tuợng nghiên cứu
Kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Cao đẳ ng Kinh
tế - Kỹ thuật Hải Dương.
4. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: 326 người, trong đó bao gồm: 300 sinh viên và 20
giảng viên giảng dạy và 6 cán bộ làm công tác quản lý trong Trường.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập trong đào tạo theo tín chỉ của sinh viên
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương ở mức độ trung bin
̀ h . Trong đó,
yếu nhất là kỹ năng tự lập kế hoạch học tập và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu. Động
cơ học tập và chương trình đào ta ̣o là hai yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến kỹ năng
tự quản lý hoạt động học tập của sinh viên.

2


6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu. Cụ thể là tổng quan lịch sử

nghiên cứu vấn đề, làm rõ các khái niệm sau: Kỹ năng, tự quản lý, hoạt động học
tập, sinh viên, kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của sinh viên.
- Nghiên cứu thực trạng kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của sinh viên
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương.
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng đó.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao kỹ năng tự quản lý hoạt động học
tập của sinh viên.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu kỹ năng tự quản lý hoạt
động học tập của sinh viên theo chương trình đào tạo tín chỉ của Nhà trường, bao gồm các
kỹ năng thành phần: Kỹ năng tự lập kế hoạch, kỹ năng học tập trên lớp, kỹ năng tự
học, tự nghiên cứu và kỹ năng tự kiểm tra và đánh giá họat động học tập.
- Khách thể nghiên cứu:
+ 300 sinh viên đang học tập ở 2 khóa (năm I, năm II) vì Trường Cao đẳng Kinh tế
- Kỹ thuật Hải Dương mới đào tạo theo phương thức tín chỉ được 2 năm. Những sinh viên
này đang học tập tại các khoa: Quản trị, Tài chính Ngân hàng, Kế toán Kiểm toán,
Công nghệ Thông tin, Công nghệ kỹ thuật Điện – Điện tử của Trường.
- Địa bàn nghiên cứu: Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương.
- Thời gian nghiên cứu: 9/2012-9/2013
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp xử lý thông tin bằng thống kê toán học

3


Chƣơng 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Đầu thế kỷ XX, ở Mỹ tâm lý học hành vi ra đời, đại diện là J.Watson, E.C
Tolman, K.Hull, B.F Skinner,…. mặc dù xuất phát từ quan niệm máy móc về con
người, nhưng nghiên cứu về kỹ năng trong lý luận dạy học do B.F Skinner khởi
xướng là một thành tựu lớn. Sau đó, A.Bandura (1961) – nhà tâm lý học người Mỹ
đã đưa ra lý thuyết học tập xã hội. Ông cho rằng, học tập bao giờ cũng diễn ra trong
mối quan hệ với những người khác, trong xã hội. Khái niệm học tập xã hội nhấn
mạnh đến mẫu hành vi chỉ dẫn hành vi của cá nhân (mẫu hành vi của bố, mẹ, anh
chị em ruột, ngôi sao trong các lĩnh vực, người hùng…). Mẫu hành vi là một dạng
kích thích, khi con người tiếp xúc sẽ bắt chước hoặc hạn chế thực hiện hành vi đó.
Cá thể quan sát mẫu hành vi của người khác và quan sát kết quả do hành vi đó gây
ra. Nếu hậu quả của mẫu hành vi không được xã hội chấp nhận, khích lệ (trừng
phạt) thì hành vi đó sẽ bị từ bỏ. Các hành động của cá nhân theo mẫu hành vi nếu
được khích lệ thì nó sẽ được lặp lại và là yếu tố chính quyết định hành vi học tập,
kỹ năng của con người. Nghiên cứu về kỹ năng học tập ở phương Tây rất phát triển
vào đầu thế kỷ XX, khi khoa học giáo dục chuyển từ quan điểm dạy học lấy người
dạy làm trung tâm sang quan điểm lấy người học làm trung tâm. Có rất nhiều
nghiên cứu cũng như lý thuyết bàn về vấn đề kỹ năng hợp tác trong học tập. Hai tác
giả David W. Johnson và Roger T. Johnson đề cập rất chi tiết và cụ thể trong cuốn
sách “Học tập hợp tác và học thuyết phụ thuộc xã hội: Học tập hợp tác
(Cooperative learning and social interdependence theory: Cooperative learning)”.
Cuốn sách đã cung cấp những kiến thức về sự hợp tác học tập, các điều kiện và các
yếu tố nâng cao hiệu quả của kỹ năng hợp tác trong học tập. Một số nghiên cứu
khác đã khẳng định, kỹ năng hợp tác học tập hình thành và phát triển khi sinh viên
làm việc với nhau để hoàn thành nhiệm vụ học tập chung (Johnson, Johnson &

4



Holubec, 1992, 1993). Các kỹ năng hợp tác trong học tập không chỉ thúc đẩy thành
tích học tập cao hơn, mà còn góp phần xây dựng mối quan hệ tích cực giữa các
thành viên trong nhóm. Putnam, Rynders, Johnson, và Johnson (1989) đã chứng
minh rằng sinh viên được dạy các kỹ năng trong học tập dưới sự giám sát của giáo
viên và có sự phản hồi về cá nhân như mức độ ít thành thạo tham gia thực hiện các
kỹ năng đó thì các mối quan hệ xã hội của họ trở nên tích cực hơn.
Đào tạo kỹ năng viết bài luận cho người học rất được chú trọng trong giảng
dạy ở trường đại học. Barry J.Zimmerman, Sebastian Bonner, Robert Kovach (1997)
nghiên cứu kỹ năng viết bài luận của sinh viên đã đưa ra nhận định rằng, mặc dù kỹ
năng viết bài luận từ lâu đã được giảng dạy trong các lớp học tiếng Anh và các lớp
ngôn ngữ, nhưng hiện nay nó cũng đang được giảng dạy và áp dụng trong chương
trình học tập. Giáo viên khai thác kỹ năng viết ở sinh viên của mình bằng cách yêu
cầu sinh viên viết các đoạn văn ngắn khi giao bài tập về nhà, cho các bài kiểm tra
như viết các tiểu luận hoặc yêu cầu sinh viên làm báo cáo nghiên cứu khoa học.
Bằng cách sử dụng các kỹ năng tự điều chỉnh, luyện tập, với sự hướng dẫn của giáo
viên sinh viên phát triển tốt kỹ năng viết của mình.
Trong tác phẩm “Sinh viên học tập như thế nào” (How Students learn.
England: Institute for Research and Deverlopment in Post-Compulsory Education
1995) Entwstle, Noel, and Hounsell, Dai, eds. đã đề cập đến một số cơ sở tâm lý
của hoạt động học tập của sinh viên và phương pháp giảng dạy của giáo viên nhằm
hình thành và phát triển các kỹ năng học tập của sinh viên trong trường đại học.
Lancaster, Otis Ewing trong cuốn “Hiệu quả dạy và học” (Effective Teaching and
Learning, New York, Gorden and Breach 2002) đã khẳng định ý nghĩa to lớn của
công tác quản lý học tập của sinh viên góp phần nâng cao tính tích cực hoạt động
trí tuệ, chủ động trong việc lập kế hoạch ngay từ đầu cho cả chương trình học tập.
Các tác giả cho rằng, quá trình nắm kiến thức mới không thể tiến hành bằng việc
học thụ động, học thuộc các quy tắc, các kết luận và khái quát hóa. Nó được xây
dựng trên cơ sở của việc cải tiến công tác học tập của sinh viên, của việc phân tích
logic sâu sắc các yêu cầu, điều kiện học tập tích cực xây dựng kế hoạch, thực hiện


5


kế hoạch học tập của sinh viên. Tác giả Menges, Robert J (1997) trong cuốn sách “
Kinh nghiệm dạy-học cho sinh viên đại học và người lớn” (Teaching-Leaning
Expriences for College Students and Other Adults. Northwestern University) đã
nghiên cứu và đưa ra chỉ dẫn về những nguồn lực dẫn đến thành công trong dạy-học
và quản lý quá trình dạy-học về lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả dạyhọc. Trong cuốn sách “Sinh viên quản lý học tập” (Student managerment of
learning, University of Michigan. 1997) các tác giả Zimmerma, Risemberg đã chỉ ra
6 thành phần chính của quản lý học tập và quy trình quản lý học tập của sinh viên
giúp họ có được thành tích cao trong học tập. Tác giả Mann, Richard D và một số
giảng viên trường đại học Michigan (Mỹ) đã nghiên cứu về động thái trong lớp học
trong cuốn sách “ Lớp học ở trường đại học: mâu thuẫn, thay đổi và học tập” (The
College Classroom: Conflict, Change and Leaning. New York. John Wiley and
Sons. 2003), đã chỉ ra rằng sự chuẩn bị kiến thức ở nhà, các kiểu học tập ở sinh viên
có liên quan đến sự tích cực tư duy tiếp thu bài giảng của giảng viên. Sinh viên trả
lời câu hỏi với nhiều phương án khác nhau dựa trên phương pháp dạy thực hành của
giảng viên. Đây là một phần của tâm lý học sư phạm về trang bị kỹ năng cho sinh
viên như kỹ năng giao tiếp, tư duy, giải quyết vấn đề, tự quản lý bản thân, sáng tạo
trong học tập.
Ở Liên Xô (cũ) vào những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu kỹ
năng được các nhà tâm lý học chú ý. Trong các công trình nghiên cứu về kỹ năng
hoạt động sư phạm, X.I.Kixegof đã phân tích khá sâu về kỹ năng. Tác giả phân biệt
hai loại kỹ năng là kỹ năng bậc thấp và kỹ năng bậc cao. Kỹ năng bậc thấp là kỹ
năng nguyên phát được hình thành lần đầu qua các hoạt động giản đơn, nó là cơ sở
để hình thành kỹ xảo. Kỹ năng bậc cao là kỹ năng nảy sinh lần thứ hai sau khi đã có
tri thức, kỹ xảo, là khả năng vâ ṇ du ̣ng kiế n thức tiế p thu đươ ̣c để thực hiê ̣n có hiê ̣u
quả hệ thống hành động phù hợp với mục đích và điều kiện thực hiện hệ thống hành
đô ̣ng này ở mô ̣t cấ p đô ,̣ tiêu chuẩ n xác đinh.

̣ A.V.Petropxki và V.A.Cruchetxki xem
xét kỹ năng phức tạp trong điều kiện hoạt động không ổn định. Các ông nhấn mạnh
cơ sở của việc hình thành kỹ năng là tri thức, kỹ năng đã có là do thực hiện các

6


hành động tương tự trước đó mang lại. A.V. Petropxki cho rằng: “Năng lực sử dụng
các dữ kiện, các tri thức và các khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát
hiện những thuộc tính bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những
những nhiệm vụ lý luận hay thực hành xác định, được gọi là kỹ năng”. Theo A.V.
Petropxki, kỹ năng là cách thức hoạ t đô ̣ng dựa trên cơ sở tri thức và kỹ xảo

. Kỹ

năng đươ ̣c hình thành bằ ng con đường luyê ̣n tâ ̣p , nó tạo khả năng hành động cho
con người không chỉ trong điề u kiê ̣n quen thuô ̣c mà ngay cả khi điề u kiê ̣n thay đổ i .
Có kỹ năng nghĩa là nắ m đươ ̣c kỹ thuâ ̣t hành đô ̣ng . Vì vậy, muố n có kỹ năng nhấ t
thiế t phải trải qua quá trình rèn luyê ̣n . Mức đô ̣ thành tha ̣o của kỹ năng phụ thuộc
vào mức độ nắm vững tri thức về hành động đó và mức độ sử dụng trong hoạt đ ộng
thực tiễn. Tác giả đã chỉ rõ , con đường hình thành kỹ năng cũng như các yếu tố ảnh
hưởng đế n mức đô ̣ thực hiê ̣n kỹ năng của mỗi cá nhân . Nế u con người không có tri
thức về hành đô ̣ng cu ̣ thể và không sử du ̣ng tri thức

đó thường xuyên trong cuô ̣c

số ng thì rấ t khó có thể “biế n” nó trở thành kỹ năng.
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu kỹ năng học tập có một số tác giả như: Phạm Minh
Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy trong cuốn” Tâm lý học” (NXBGD HN 1989)

cho rằng: các kỹ năng, kỹ thuật tổng hợp có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị
nghề nghiệp và lao động phổ thông cho học sinh. Đó là những kỹ năng như: tính
toán, lập đồ thị, đồ án, đo đạc, lắp ráp, điều chỉnh, tổ chức...Các kỹ năng một phần
được lĩnh hội trong quá trình học tập, một phần được lĩnh hội trong quá trình lao
động. Trầ n Tro ̣ng Thuỷ nghiên cứu kỹ năng và khẳng định: Kỹ năng là mặt kỹ thuật
của hành động, con người nắ m đươ ̣c cách hành đô ̣ng tức là có kỹ thuâ ̣t hành động, có
kỹ năng. Tác giả chưa đề cập đến kết quả khi thực hiện hành động . Đào Thị Oanh
trong cuốn “Tâm lý học lao động” (NXB ĐHQGHN 2008) nhấn mạnh vai trò của
kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động lao động, gắn liền sự hình thành kỹ năng, kỹ xảo
với quá trình dạy sản xuất cho người lao động. Các tác giả Phạm Tất Dong, Nguyễn
Hải Khoát, Nguyễn Quang Uẩ n cho rằ ng: Kỹ năng là một hệ thống các hành động
thể lực và trí tuê ̣, các biện pháp và cách thức mà nhờ đó , mô ̣t dạng hoạt động nào đó

7


đươ ̣c thực hiê ̣n và đa ̣t tới mu ̣c đích đề ra . Như vâ ̣y, để có kỹ năng yêu cầ u cá nhân
phải có sự kết hợp một hệ thống các hành động thể lực , trí tuệ, biê ̣n pháp , cách thức
nhằm đa ̣t đươ ̣c mu ̣c đích đã

đề ra . Trong hoạt động dạy học có một số tác giả

nghiên cứu về kỹ năng như: Nguyễn Quang Uẩn, Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan
(1999) nghiên cứu hệ thống kỹ năng hoạt động sư phạm; Ngô Công Hoàn, Nguyễn
Thạc, Hoàng Anh, Nguyễn Thanh Bình nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp sư phạm;
Trần Quốc Thành - kỹ năng tổ chức trò chơi; Hình thành rèn luyện những kỹ năng
đọc, viết cho học sinh của các tác giả Dương Diệu Hoa, Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thị
Hạnh, các kỹ năng tự học của các tác giả Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu; Bồi dưỡng cho
sinh viên đại học kỹ năng nghiên cứu khoa học tâm lý học của Phạm Viết Vượng;
Kỹ năng học tập của tác giả Nguyễn Mạnh Tuấn, kỹ năng tự học của Lê Khanh, Lê

Thị Minh Loan (2008); Trần Hữu Luyến, Lê Nam Hải, Phạm Thị Thu Hoa...tập
trung đi sâu phân tích một số kỹ năng của người học trong hoạt động học tập theo
phương thức đào tạo từ xa, học ngoại ngữ, nghiên cứu khoa học.... Nghiên cứu của
Lê Nam Hải về “Kỹ năng học của sinh viên đại học đào tạo theo hình thức từ xa”
(Nghiên cứu ở Trung tâm đào tạo từ xa – Đại học Huế) đã chỉ ra các kỹ năng quan
trọng đối với sinh viên là: Kỹ năng lập kế hoạch, Kỹ năng tổ chức việc học, Kỹ
năng kiểm tra đánh giá. Trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Phương về “Kỹ năng
học tập các môn lý luận chính trị của sinh viên cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung
tại Học viện Chính trị khu vực II”, tác giả đã hệ thống hoá lý luận về kỹ năng, kỹ
năng học tập và vận dụng chúng để xác định kỹ năng học tập các môn lý luận chính
trị của sinh viên cao cấp lý luận chính trị. Từ đó chỉ rõ ba nhóm kỹ năng cơ bản
trong học tập các môn lý luận chính trị: nhóm kỹ năng học tập trên lớp, nhóm kỹ
năng đọc tài liệu học tập, nhóm kỹ năng xêmina; nghiên cứu phát hiện thực trạng
các kỹ năng đó. Trong bài viết được trích từ tài liệu "Những kỹ năng học tập cần
thiết" do CEEA (Trung tâm đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh) biên soạn, tháng 10/2010 của Nguyễn Kim Dung Viện Nghiên cứu Giáo dục - Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, tác giả nhấn mạnh
tới việc bắt đầu từ việc xây dựng thời khóa biểu/thời gian học tập hiệu quả, phù hợp

8


tới việc lựa chọn các chiến thuật học tập, phương pháp học tập phù hợp…người học
đều cần phải thực sự hiểu và tăng cường luyện tập, thực hành để có một kỹ năng
học tập hiệu quả. Các nghiên cứu trên đều thừa nhận: kỹ năng là hành động được
thực hiện có kết quả bằng cách vận dụng những tri thức và kỹ xảo đã có trong
những điều kiện cụ thể. Phân tích một số nghiên cứu về kỹ năng trong những năm
gần đây cho thấy các tác giả đã khẳng định được ý nghĩa, bản chất, vai trò của kỹ
năng, chú ý nhiều đến kỹ năng học tập của sinh viên. Nhìn chung, các tác giả quan
niệm: Kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết một nhiệm vụ mới.
Kiến thức là cơ sở của kỹ năng với điều kiện kiến thức đó phản ánh đầy đủ bản chất

được thử thách trong thực tiễn và tồn tại trong ý thức với tư cách là công cụ của
hành động. Để có kỹ năng phải dựa vào kiến thức đã có và năng lực vận dụng
chúng để phát hiện bản chất của sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lý
luận hay thực hành xác định. Khi kỹ năng của một hoạt động nào đó mới hình thành,
cần xem xét ở mặt kỹ thuật của thao tác, hành động hay hoạt động. Còn kỹ năng đã
hình thành ổn định, con người sử dụng kỹ năng một cách sáng tạo trong các hoàn
cảnh khác nhau. Nghiên cứu hình thành và phát triển kỹ năng, nhất thiết cần quan tâm
đến cả mặt kỹ thuật của hành động và tri thức.
1.2. Lý luận về kỹ năng và kỹ năng tự quản lý hoạt động học tập của
sinh viên
1.2.1. Lý luận về kỹ năng và khái niệm kỹ năng
1.2.1.1. Lý luận về kỹ năng
Hiện nay, có nhiều quan điểm trong và ngoài nước nghiên cứu về kỹ năng
đứng trên bình diện nghiên cứu khác nhau. Chúng tôi khái quát lại trên cơ sở hai
hướng nghiên cứu chính:
Quan niệm kỹ năng như mặt biểu hiện của năng lực, là khả năng thực hiện
hoạt động.
Theo K.K. Platonnov và V.V. Tsebuseva: Kỹ năng là năng lực của con người
thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện
và những khoảng thời gian tương ứng. K.K. Platonnov đã rất chú ý đến năng lực

9


của cá nhân khi thực hiện một công việc nào đó bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới kết
quả của hành động.
X.I.Kixegov, Nguyễn Minh Châu, Lê Văn Hồng, Trần Thị Thanh Hà coi kỹ
năng là khả năng vận dụng kiến thức tiếp thu được để thực hiện có hiệu quả hệ
thống hành động phù hợp với mục đích và điều kiện thực hiện hệ thống hành động
này ở một cấp độ, tiêu chuẩn xác định. Xét một phương diện nào đó, khi xem xét kỹ

năng như khả năng của mỗi cá nhân sẽ làm hạn chế ý nghĩa của luyện tập, rèn luyện
để hình thành kỹ năng. Một số tác giả quan niệm kỹ năng là khả năng vận dụng kiến
thức (khái niệm, cách thức, phương pháp…) để giải quyết một nhiệm vụ mới. Các
tác giả khẳng định rằng, người có kỹ năng phải có tri thức về hành động, có kinh
nghiệm cần thiết và vận chúng vào hành động đạt kết quả. Trong quá trình hành
động phải tính đến các điều kiện cho phép để hành động đạt kết quả. Tuy nhiên, nếu
quan niệm kỹ năng là khả năng thực hiện thì chưa thống nhất với yêu cầu đặt ra của
chính tác giả là có tri thức về hành động và kinh nghiệm cần thiết.
Kỹ năng được hình thành và phát triển sẽ làm sâu sắc hơn sự hiểu biết về
kiến thức trong mỗi cá nhân và khi đó kỹ năng như trình độ thực hiện hành động,
hoạt động. Vì lẽ đó, nếu coi kỹ năng là khả năng, là năng lực thực hiện hành động
của cá nhân khi dựa trên những tri thức, kỹ xảo sẽ không phản ánh đúng bản chất
của kỹ năng.
Quan niệm kỹ năng như là kỹ thuật, trình độ thực hiện hành động
A.V.Cruchetxki (1981) trong cuốn “Những cơ sở của tâm lý học sư phạm”
cho rằng: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hoạt động – những cái mà con người
đã nắm vững”. Nghĩa là, khi nào con người nắm vững vấn đề khi đó họ sẽ có cách
thức tiến hành hoạt động. Mặc dù tác giả chỉ ra rằng, người có kỹ năng là người có
phương pháp khi thực hiện hoạt động nào đó nhưng tác giả chưa đề cập đến phương
pháp ấy có mang lại kết quả trong hoạt động cụ thể hay không? Trên thực tế, cá
nhân có cách thức thực hiện hành động tốt trong hoạt động cụ thể chưa chắc chắn
đã mang lại kết quả tốt cho hoạt động đó bởi để có kết quả tốt còn phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố. Mặt khác, nếu chỉ có cách thức đúng trong hoạt động nhất định nào đó

10


thì cũng không thể kết luận rằng cá nhân đó có kỹ năng trong tất cả các hoạt động
tiếp theo.
A.G.Covaliov (1994) trong cuốn “Tâm lý học cá nhân” cho rằng, kỹ năng là

phương thức thực hiện hành động thích hợp với mục đích và những điều kiện hành
động. Tác giả không đề cập đến kết quả của hành động bởi theo ông, kết quả của
hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà trong đó quan trọng hơn cả là năng lực
thực hiện hành động nào đó của con người chứ không đơn giản là con người có
cách thức thực hiện hành động tốt thì sẽ thu được kết quả tương ứng. Điều mà ông
nhấn mạnh chính là khi cá nhân tìm được phương thức hành động thích hợp với
mục đích nhất định nào đó trong những điều kiện xác định của hoạt động, đó chính
là kỹ năng.
A.V.Petropxki cho rằng, kỹ năng là cách thức hoạt động dựa trên cơ sở tri
thức và kỹ xảo. Kỹ năng được hình thành bằng con đường luyện tập, nó tạo khả
năng hành động cho con người không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà ngay cả
khi điều kiện thay đổi. Có kỹ năng nghĩa là nắm được kỹ thuật hành động. Vì vậy,
muốn có kỹ năng nhất thiết phải trải qua quá trình rèn luyện. Mức độ thành thạo của
kỹ năng phụ thuộc vào mức độ nắm vững tri thức về hành động đó và mức độ sử
dụng trong hoạt động thực tiễn. Tác giả đã chỉ rõ, con đường hình thành kỹ năng
cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ thực hiện kỹ năng của mỗi cá nhân.
Nếu con người không có tri thức về hành động cụ thể và không sử dụng tri thức đó
thành thạo trong cuộc sống thì khó có thể biến nó trở thành kỹ năng.
Các tác giả Phạm Tất Dong, Nguyễn Hải Khoát, Nguyễn Quang Uẩn cho
rằng: Kỹ năng là một hệ thống các hành động thể lực và trí tuệ, các biện pháp và
cách thức mà nhờ đó, một dạng hoạt động nào đó được thực hiện và đạt tới mục
đích đề ra. Như vậy, để có kỹ năng yêu cầu cá nhân phải có sự kết hợp một hệ thống
các hành động thể lực, trí tuệ, biện pháp, cách thức nhằm đạt được mục đích đề ra.
Khi con người đạt tới mức khái quát hệ thống như quan niệm trên được xem xét
như cá nhân đó có trình độ thực hiện hành động.
Trần Trọng Thủy nghiên cứu kỹ năng và khẳng định: Kỹ năng là mặt kỹ
thuật của hành động, con người nắm được cách hành động tức là có kỹ thuật hành

11



động, có kỹ năng. Quan điểm trên, tác giả đề cao mặt kỹ thuật của hành động. Cá
nhân chỉ cần có kỹ thuật để thực hiện hành động tức là đã có cách hành động và có
kỹ năng. Tác giả chưa đề cập đến kết quả khi thực hiện hành động. Vì lẽ đó, nếu cá
nhân có cách thức hành động nhưng trên thực tế chưa chắc cách thức đó mang lại
kết quả hay không.
Lã Văn Mến cho rằng: “Kỹ năng là sự thực hiện hợp lý và có kết quả ổn định
một hành động với những điều kiện xác định”. Theo tác giả, kỹ năng là mặt kỹ thuật
của hành động, đồng thời là cơ sở của năng lực cá nhân. Có kỹ năng hành động, có
nghĩa là hành động được thực hiện hợp lý (thực hiện đúng, đủ các thao tác và theo
trật tự tối ưu). Hành động có kết quả ổn định và luôn gắn với điều kiện xác định, bởi
chính điều kiện xác định loại thao tác và trật tự của chúng trong hành động. Khi
điều kiện biến đổi với những mức độ khác nhau thì loại thao tác và trật tự của chúng
cũng phải thay đổi ở mức độ tương xứng.
Tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2007) quan niệm: “Kỹ năng là sự vận dụng đúng
đắn những tri thức, giá trị liên quan vào hoạt động hay hành động thực tiễn trong
điều kiện cụ thể để thực hiện hành động hay hoạt động có kết quả”. Như vậy, theo
tác giả chỉ khi nào cá nhân nắm rõ tri thức hành động (mục đích, yêu cầu thao tác,
kỹ thuật hành động và phương thức thực hiện) và có thái độ vận dụng nó vào hoạt
động cụ thể, khi đó cá nhân mới có kỹ năng trong hoạt động đó.
Tóm lại, các tác giả xem xét kỹ năng như là mặt kỹ thuật của thao tác hay
hành động của hoạt động và cho rằng con người chỉ cần có phương pháp, cách thức
thực hiện đúng là có kỹ năng. Trên thực tế, để cá nhân có kỹ năng về một lĩnh vực
nào đó, cá nhân cần hiểu sâu sắc và vận dụng tri thức, kinh nghiệm vào thực hiện
hành động một cách nhuần nhuyễn, thành thạo với cách thức tối ưu nhằm mang lại
kết quả nhất định. Kỹ năng thực hiện hành động cụ thể khi được tự động hóa thành
kỹ xảo. Đây là kỹ năng ban đầu (hoặc gọi là kỹ năng sơ khởi). Kỹ năng thực hiện
hoạt động trong thành phần gồm có kinh nghiệm, tri thức, phương thức (kỹ năng
ban đầu) và khả năng liên kết chúng để giải quyết thành công hoạt động mang lại
kết quả nhất định, đây chính là kỹ năng thứ phát.


12


1.2.1.2. Khái niệm kỹ năng
Thuật ngữ kỹ năng dùng chỉ cá nhân thực hiện có kết quả một hành động
trong một hoạt động nhất định nào đó. Chẳng hạn, khi nói đến một cá nhân biết thực
hiện hành động tương ứng như: Kỹ năng đọc, viết, làm toán, học ngoại ngữ… hoặc
cá nhân biết thực hiện một hoạt động trong lĩnh vực nào đó như: Kỹ năng tổ chức,
kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán.. hoặc khi nói đến khả năng thích ứng của
con người trong môi trường xã hội, người ta nói đến kỹ năng sống…
Trong đại từ điển Tiếng Việt (2001) có viết: Kỹ năng là khả năng vận dụng
những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế.
Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên (2008) đã định nghĩa về kỹ năng
như sau: “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả tri thức về phương thức hành
động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng”.
Một số nhà tâm lý học Xô Viết đưa ra các khái niệm về kỹ năng như sau:
Theo A.G.Covaliop: “ Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động phù hợp
với mục đích và điều kiện hành động”
A.V.Petopxki cho rằng “Kỹ năng là sự vận dụng tri thức, kỹ xảo đã có để lựa
chọn và thực hiện những phương thức hành động tương ứng với mục đích đặt ra”
Theo V.V.Tsebuseva: “Kỹ năng là khả năng thực hiện một hoạt động nào đó
dựa trên những tri thức và kỹ xảo và được hoàn thiện lên cùng với chúng”
Như vậy, dù cách phát biểu về kỹ năng khác nhau nhưng các tác giả đều
thống nhất rằng kỹ năng được thể hiện bằng kết quả công việc và phải dựa trên
những tri thức, kinh nghiệm đã có. Để có được kỹ năng, trước hết cá nhân phải có
hiểu biết chính xác, đầy đủ về mục đích của hoạt động, nội dung của hoạt động,
phương thức và các điều kiện để tiến hành hoạt động hay nói cách khác chính là tri
thức về hoạt động ấy.
Kế thừa quan điểm của các nhà tâm lý học, chúng tôi hiểu: Kỹ năng là sự

thực hiện có hiệu quả một hành động hay một hoạt động nào đó bằng cách vận
dụng những tri thức về phương thức thực hiện hành động phù hợp với những điều
kiện hiện có nhằm đạt được mục đích đặt ra từ trước.

13


Kỹ năng có một số đặc điểm như sau:
+ Kỹ năng được biểu hiện mặt kỹ thuật của hành động, bao giờ cũng được
gắn liền với hoạt động, hình thành trong hoạt động, trong quá trình luyện tập của cá
nhân, mỗi kỹ năng có thể bao gồm những kỹ năng hợp phần tạo nên nó.
+ Kỹ năng không phải là hành động tự động hóa mà có tính linh hoạt, di
chuyển được trong những hoàn cảnh khác nhau.
+ Kỹ năng luôn được ý thức kiểm soát, quá trình hình thành và phát triển kỹ
năng của cá nhân luôn gắn liền với những điều kiện tâm sinh lý, xã hội như nhu cầu,
ý chí, tình cảm, tâm vận động…
+ Tính đầy đủ, hợp lý, sự thành thạo, tính linh hoạt và hiệu quả là tiêu chuẩn
quan trọng để xác định mức độ thực hiện và phát triển của kỹ năng.
Mối quan hệ giữa kỹ năng và kỹ xảo: Kỹ xảo là một kỹ năng được thực hiện
trong một tình huống ổn định nào đó được lặp đi lặp lại, củng cố bằng quá trình
luyện tập. Quá trình chuyển kỹ năng thành kỹ xảo là một quá trình luyện tập lâu dài
và có hệ thống trong hoạt động thực tiễn. Kỹ xảo bao giờ cũng là một hành động
đơn vị hay nói cách khác là một thao tác thuần thục. Sự khác nhau giữa kỹ năng và
kỹ xảo được biểu hiện đặc trưng qua mức độ thuần thục, khả năng tự động hoá, mức
độ kiểm soát của ý thức, khác nhau ở cấu trúc và sự cần thiết của của nó trong quá
trình thực hiện hành động. So với kỹ năng, kỹ xảo thuần thục hơn, tự động hoá hơn,
mức độ kiểm soát của ý thức ít hơn, trong đa số trường hợp kỹ xảo được nảy sinh
trên cơ sở biến hành động thành thao tác như là một phương thức hành động tự
động hoá một cách có ý thức, như là một phần được tự động hoá của việc thực hiện
hành động, đó là thao tác có ý thức. Hay nói một cách khác, kỹ năng và kỹ xảo là

hai mức độ khác nhau của sự thuần thục và tự động hoá hành động. Kỹ năng chỉ
dừng lại ở mức độ biết làm và làm có kết quả, kỹ xảo thì yêu cầu hành động thuần
thục, khái quát, chính xác, chưa hao tổn năng lượng thần kinh và cơ bắp nhưng đạt
hiệu quả cao. Kỹ năng và kỹ xảo có sự khác nhau về cấu trúc. Cấu trúc kỹ năng của
mọi hành động đều có ba phần: tri thức về phương thức thực hiện các thao tác và
hành động cấu thành kỹ năng đó; mục đích tiến hành hành động; các thao tác tương

14


ứng và những phương tiện thực hiện hành động. Còn kỹ xảo, trong cấu trúc của nó
hai thành phần đầu thì mờ nhạt hoặc nó không còn trong quá trình hành động, chỉ có
yếu tố thứ ba: hệ thống logic các thao tác và phương tiện thực hiện hành động là rõ
ràng nhất. Kỹ năng là một tổ chức tâm lý phức tạp hình thành trên cơ sở một hệ
thống kỹ xảo có liên quan đến hoạt động nhất định. Người ta chỉ có thể nói đến kỹ
năng dạy học, kỹ năng viết văn… chứ không nói đến kỹ xảo dạy học, kỹ xảo viết
văn, làm thơ…
Mối quan hệ giữa kỹ năng và năng lực: Kỹ năng không chỉ đơn thuần là mặt
kỹ thuật của hành động mà còn là biểu hiện của năng lực, kỹ năng và năng lực có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Kỹ năng giúp con người có tri thức, có hiểu biết
nhất định và có cách thức hành động về một công việc nào đó. Kỹ năng là một trong
những điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển năng lực, nghĩa là muốn có
năng lực về một hoạt động nào đó thì phải có kỹ năng về lĩnh vực hoạt động đó.
Năng lực biểu hiện ở khả năng vận dụng sáng tạo tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của cá
nhân vào quá trình hoạt động, giúp hoạt động có hiệu quả. Nếu thiếu tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo cần thiết của một hoạt động nào đó thì hoạt động đó sẽ không có hiệu
quả. Mặt khác, nhờ có năng lực mà quá trình nắm vững và phát triển của kỹ năng,
kỹ xảo sẽ diễn ra nhanh hơn. Năng lực ảnh hưởng trở lại, thúc đẩy sự phát triển kỹ
năng, kỹ xảo của cá nhân. Trong mối quan hệ này, năng lực được xem như là một
thuộc tính tâm lý ổn định của nhân cách, nó vận động và phát triển theo trình độ

nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của cá nhân. Cũng như kỹ năng, kỹ xảo, năng
lực là kết quả của sự luyện tập một cách có ý thức của cá nhân trong quá trình hoạt
động. Tốc độ, mức độ đạt được của năng lực phụ thuộc vào mục đích, động cơ, ý
thức và tư chất của từng cá nhân. Mối quan hệ giữa kỹ năng và năng lực chỉ mang
tính chất tương đối. Trong thực tế có nhiều người có thể chưa có kỹ năng về một
hoạt động nào đó nhưng vẫn có biểu hiện năng lực về hoạt động đó. Có những
người có kỹ năng về hoạt động đó nhưng năng lực hoạt động lại không phát triển,
họ thạo việc nhưng không khái quát được các công việc liên quan, không sáng tạo,
nếu rời khỏi dây chuyền sẽ không tiến hành được các công việc khác.

15


Kỹ năng được hình thành và phát triển trong mỗi cá nhân theo một quá trình
từ thấp đến cao, từ chưa có đến có và từ chưa thành thạo đến thực hiện thành thạo
hành động trong hoạt động cụ thể. P.A.Rudic (1997) và G.Theodorson (1969) cho
rằng, ban đầu kỹ năng mới chỉ là những thao tác riêng lẻ, chưa được hoàn thiện.
Trong quá trình rèn luyện, chúng trở thành hành động nhanh chóng, chính xác và
sau đó trở thành kỹ xảo (không cần sự kiểm soát của ý thức).
K.K. Platonnov và G.G.Golubev đưa ra 5 giai đoạn phát triển kỹ năng như sau:
- Giai đoạn 1: Kỹ năng còn rất sơ đẳng khi chủ thể mới ý thức được mục
đích và tìm kiếm cách thức hành động dưới dạng “thử - sai”;
- Giai đoạn 2: Kỹ năng đã có nhưng chưa đầy đủ;
- Giai đoạn 3: Kỹ năng chung nhưng còn mang tính riêng lẻ;
- Giai đoạn 4: Kỹ năng ở trình độ cao, lúc này cá nhân sử dụng thành thạo
các thao tác kỹ thuật, cách thức thực hiện để đạt được mục đích;
- Giai đoạn 5: Kỹ năng tay nghề cao. Giai đoạn này cá nhân vừa thành thạo
vừa sáng tạo trong sử dụng các kỹ năng ở những điều kiện khác nhau.
Có thể nói, 5 giai đoạn phát triển kỹ năng mà K.K.Platonnov và
G.G.Golubev nêu ở trên cho thấy tương ứng với mỗi giai đoạn là một mức độ của

kỹ năng từ thấp đến cao. Con người càng nắm vững tri thức bao nhiêu sẽ tìm ra
cách thức hành động mang lại hiệu quả bấy nhiêu.
Chúng ta có thể thấy rằng khi thực hiện bất kỳ một hành động nào ta cũng
nhằm đạt tới một mục đích xác định nào đó được đặt ra từ trước. Tuy nhiên, mục
đích được xác định trước đó có đạt được hay không, nếu có thì mức độ đạt được là
cao hay thấp còn hoàn toàn tùy thuộc vào chỗ: chủ thể hành động này nắm vững và
kiên trì thực hiện phương thức (kỹ thuật, cách thức) tiến hành, hành động đó đến
mức nào trong sự phù hợp với những điều kiện mà chủ thể đang sở hữu để thực hiện
hành động đó. Đa số các nhà tâm lý học đều cho rằng, điều kiện tiên quyết để một
hành động phải nắm vững và thực hành thành thạo tri thức về phương thức thực
hiện hành động đó. Nói cách khác, chủ thể tiến hành hành động phải có kỹ năng
thực hiện hành động đó. Như vậy, về mặt tâm lý học khi nói tới kỹ năng là nói tới

16


mối quan hệ giữa mục đích hành động, các điều kiện và phương thức thực hiện
hành động đó. Trong ý nghĩa đó, K.K. Platonop khẳng định: “Cơ sở tâm lý của kỹ
năng là sự thông hiểu mối liên hệ giữa mục đích hành động, các điều kiện và
phương thức thực hiện hành động”.
Trong tâm lý học người ta thường bàn tới mức độ của kỹ năng: Kỹ năng bậc
thấp và kỹ năng bậc cao:
Kỹ năng bậc thấp là kỹ năng bước đầu được hình thành trên cơ sở lần đầu
tiên chủ thể vận dụng những tri thức về phương thức thực hiện hành động trong
thực tiễn. Do đó, mặc dù chủ thể đã tập trung chú ý cao độ vào công việc, song
hành động của họ vẫn tỏ ra lúng túng, vụng về và có nhiều sai sót (so với mẫu). Nếu
được lặp đi, lặp lại nhiều lần thông qua luyện tập kiên trì thì dần dần những sai sót
được loại bỏ, ý thức được giải phóng. Trên cơ sở đó kỹ năng bậc thấp này được
củng cố và trở thành tự động hóa, khi đó kỹ xảo được hình thành. Từ sự kiện này
A.V.Petropxki khẳng định: “Kỹ xảo là kỹ năng được củng cố và tự động hóa”.

Khi mức độ hình thành kỹ năng ở chủ thể còn ở bậc thấp, thì chủ thể chỉ có
thể vận dụng những tri thức về phương thức thực hiện hành động trong những
trường hợp, tình huống theo mẫu, do đó, kết quả thu được sau khi hành động kết
thúc còn rất hạn chế.
Kỹ năng bậc cao là những kỹ năng được hình thành trên cơ sở chủ thể vận
dụng những tri thức về phương thức thực hiện hành động và kỹ xảo đã được hình
thành một cách linh hoạt, sáng tạo trong nhiều trường hợp, tình huống phức tạp
khác nhau với sự tham gia rất tích cực của ý thức. Điều đó cũng có nghĩa là: Kỹ
năng bậc cao chỉ có thể được hình thành khi chủ thể ít thành thạo có ý thức vượt
qua mọi khó khăn trở ngại trên con đường ít thành thạo vận dụng những tri thức về
phương thức thực hiện hành động vào những tình huống phức tạp khác nhau một
cách linh hoạt và sáng tạo. Khi kỹ năng bậc cao đã hình thành thì kết quả thu được
khi hành động kết thúc ngày càng cao hơn, mỹ mãn hơn, tốt đẹp hơn.
Tóm lại, muốn đạt được kết quả cao trong một lĩnh vực hoạt động nào đó, thì
chủ thể hoạt động phải có kỹ năng hành động phát triển đến mức độ cao trong hoạt

17


động đó. Sinh viên muốn đạt được kết quả cao trong hoạt động học cũng vậy, họ
phải có kỹ năng tự quản lý hoạt động học cao.
1.2.2. Khái niệm tự quản lý
Khái niệm này được sử dụng trong hoạt động quản lý. Tự quản lý được dùng
với từ tương tự là “tự quản” như cá nhân “tự quản” , nhóm “tự quản”, khu phố “tự
quản”... Những cá nhân hoặc nhóm tự quản hoạt động độc lập hơn những người
khác, nhóm khác. Các tầng lớp quản lý cao và trung gian của họ được cắt giảm đáng
kể. Họ tự quyết định, thực hiện quyết định và tự chịu trách nhiệm toàn bộ công việc
của mình. Để làm việc có hiệu quả, cá nhân hay nhóm tự quản cần có kiến thức, kỹ
năng tự quản và sự giúp đỡ đầy đủ của ban quản lý cấp trên đánh giá cao vai trò tự
quản của họ. Paul Hersey và Ken Blanc Hard (2002) đã viết trong cuốn sách “Quản

trị hành vi tổ chức” như sau: thực tiễn quản lý phải nhằm vào mức độ thấu hiểu hiện
tại của thuộc cấp với mục đích tổng thể là giúp họ phát triển, tiến tới họ có nhu cầu
chuyển quản lý từ khách quan thành tự quản lý và ngày càng tăng cường tự quản lý.
Sự phát triển của cá nhân phụ thuộc vào quá trình quản lý từ khách quan tiến gần
đến sự tự quản lý.
Trong lĩnh vực tâm lý học lâm sàng Ann Behav Med (2003) nghiên cứu vấn
đề và giải pháp cho việc tích hợp giáo dục tự quản lý vào hệ thống chăm sóc sức
khỏe, đã đưa ra 5 kỹ năng tự quản lý: lập kế hoạch giải quyết vấn đề, ra quyết định,
sử dụng nguồn lực, hình thành mối quan hệ đối tác giữa nhà cung cấp dịch vụ chăm
sóc sức khỏe và bệnh nhân và tự điều chỉnh (self-tailoring). Từ giữa những năm
1960, Thomas và đồng nghiệp của ông ở bệnh viện và viện nghiên cứu về bệnh hen
suyễn ở trẻ em đã sử dụng thuật ngữ này trùng khớp với thuật ngữ trong các chương
trình về hen suyễn của các bác sĩ nhi khoa. Các tác giả này đã dựa trên một công
trình vừa được công bố của A. Bandura, khẳng định rằng thông qua giáo dục tự
quản lý, người bệnh đã tham gia tích cực trong quá trình trị liệu. Tính từ thời điểm
này, thuật ngữ tự quản lý được sử dụng một cách rộng rãi nhưng nó vẫn chưa được
khái niệm hóa hay định nghĩa một cách rõ ràng. Kết quả của tự quản lý là đặc biệt ý
nghĩa cho những người đang phải sống với bệnh mãn tính, ở đó chỉ có duy nhất

18


×