ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SưPH Ạ M
...... 03*80.......
DOÃN KIM CHUNG
MỘT sô BIỆN PHÁP QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HẢl PHÒNG
m
LUẬN VĂN THẠC Sĩ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành
: Quản lý giáo dục
M ã số
: 60.14, 05.
ĐAI HOC Q U Ố C G IA HẢ NỘ|
TRUNG TÂM THÒNG TIN THU VIỆN
V
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYÊN TIÊN ĐẠT
HÀ NỘI - 2005
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương l : Cơ sở lý luận về quản lý quá trình dạy học và chất
1
5
lượng giáo dục ở trường trung học phổ thông
1.1. Khái niệm giáo dục, dạy học và quá trình dạy học
5
1.2. Quản lý quá trình dạy học
18
1.3. Chất lượng giáo dục
37
Chương 2: Thực trạng dạy học và quản lý quá trình dạy học ở các
46
Trường THPT Hải Phòng
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội - tự nhiên của Thành phố Hải Phòng
46
2.2. Thực trạng dạy học và quản lý quá trình dạy học ở các Trường
50
THPT Hải Phòng.
2.3. Đánh giá chất lượng giáo dục hiện nay ở các Trường THPT Hải
67
Phòng
Chương 3: M ột sô biện pháp quản lý quá trình dạy học nhằm
73
nâng cao chất lượng giáo dục ở Trường THPT Hải Phòng trong
giai đoạn hiện nay.
3.1. Định hướng giải pháp
73
3.2. M ột số biện pháp chủ yếu.
80
KẾT LUẬN VÀ KHUYÊN NGHỊ
121
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
124
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GD-ĐT
Giáo dục - dào tạo
KH-KT
Khoa học kỹ thuật
KT-XH
Kinh lế - xã hội
KH - CN
Khoa hoc
* côniĩo nshê
V •
PPDH
Phương pháp dạy học
QLDH
Quản lý dạy học
QLGD
Quản lý giáo dục
SGK
Sách giáo khoa
TĨĨCN
Trung học chuyên nghiệp
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TTGDTX
Trung tâm giáo dục từ xa
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
M Ở ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục ở bất cứ thời đại và quốc gia nào cũng có vị trí quan trọng
trong sự phát triển của xã hội.
Một vấn đề cấp thiết hiện nay ở nước ta Irong ngành Giáo dục là đảm
bảo và nâng cao chất lượng Giáo dục và Đào tạo. Nghị quyết Trang ương II
khoá VIII của Đảng đã khẳng định: "Giáo dục và Đào tạo hiện nay phải có
một bước chuyển nhanh về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và qui
mô đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường nhằm nhanh
chóng đưa Giáo dục và Đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước, thực
hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước”.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã nêu rõ nhiệm vụ "tiếp tục nâng cao chất
lượng Giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý Giáo dục và Đào tạo, thực hiện chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá Giáo dục".
Đã có ở nước ta các nghiên cứu khá rộng và sâu về đảm bảo chất lượng
Giáo dục đại học (trong Dự án với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới thực hiện
tại Đại học Quốc gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo) và đảm bảo chất lượng đào tạo
trong Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề (trong Dự án với sự hỗ trợ của Ngân hàng
Phát triển Châu á thực hiện tại Tổng cục dạy nghề). Chưa có nghiên cứu ở
mức độ như vậy trong Giáo dục phổ thông, những vấn đề đảm bảo và nâng cao
chất lượng Giáo đục.
Vai trò của quản lý là hết sức quan trọng trong việc đảm bảo và nâng
cao chất lượng Giáo dục và Đào tạo; thực trạng vấn đề dạy và học của các
trường trung học phổ thông hiện nay nói chuns và của các Trường THPT Hải
1
Phòng nói riêng và thực trạng vấn đề quản lý quá trình dạy học của các trường
THPT Hải Phòng đòi hỏi công tác quản lý cần được tăng cường.
Do yêu cầu đổi mới của đất nước, chất lượng Giáo dục ở các trường
THPT hiện nay nói chung và ở các trường THPT Hải Phòng nói riêng cần được
nâng cao hơn nữa thông qua các biện pháp quản lý.
Do đó việc nghiên cứu một số biện pháp quản lý quá trình dạy học
nhằm nâng cao chất lượng Giáo dục ở trường THPT trong tình hình ở Hải
Phòng là một công việc cần thiết làm đề tài luận văn và hi vọng sẽ là một phần
đóng góp nhỏ cho việc nghiên cứu nâng cao chất lượng Giáo dục ở các trường
trung học phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất m ột số biện pháp quản lý quá trình dạy học nhằm nâng cao
chất lượng Giáo dục ở trường trung học phổ thông nội thành Hải Phòng trong
tình hình hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Lý luận và thực tiễn quản lý quá trình dạy học ở
các trường THPT nội thành Hải phòng
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý quá trình dạy học ở các trường
THPT nội thành H ải phòng trong việc nâng cao chất lượng Giáo dục
4. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện tốt m ột số biện pháp quản lý quá trình dạy học được đề
xuất trong luận văn thì chất lượng Giáo dục ở trường THPT Hải Phòng sẽ được
nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở lý luận của công tác quản lý quá trình dạy học nhằm nâng
cao chất lượng G iáo dục phổ thông
5.2. Đánh giá thực trạng quá trình dạy học và công tác quản lý quá trình dạy
học ở các trường THPT nội thành Hải Phòng;
2
5.3. Đé xuất một số biện pháp chủ yếu của công tác quản lý quá trình dạy học
nhằm nâng cao chất lượng Giáo dục ở các trường THPT nội thành Hải Phòng.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận thông qua các tài liệu;
6.2. Các phương pháp nghiên cứu tinh hình thực tiễn thông qua khảo sát thực
tế một vài trường THPT công lập nội thành Hải Phòng;
6.3. Các điều tra thăm dò ý kiến về sự đánh giá các biện pháp quản lý quá
trình dạy học;
6.4. Xin ý kiến của các chuyên gia và các nhà quản lý về đánh giá thực ưạng quá
trình dạy học và quản lý quá trình dạy học ở trường THPT;
6.5. Tổng kết kinh nghiệm bản thân và đồng nghiệp;
6.6. Thống kê và xử lý thông tin.
7. Giới hạn nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu : Một số biện pháp quản lý quá trình dạy học
(không phải toàn bộ công tác quản lý của trường).
- Phạm vi khảo s á t : ba trường trung học phổ thông công lập nội thành
Hải Phòng.
- Thời gian sử dụng biện pháp : 2005 - 2010.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài làm sáng tỏ vai trò của công tác quản lý quá trình dạy học yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng Giáo dục THPT và góp phần
đẩy mạnh sự phát triển của ngành Giáo dục và Đào tạo Hải phòng.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý quá
trình dạy học của Ban giám hiệu trong các trường THPT.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết kuận, phụ lục và tài liệu tham khảo,
luận văn cấu trúc gồm 3 chương :
3
- Chương 1 : Cơ sở lý luận về quản lý quá trình dạy - học và chất lượng
Giáo dục ờ các trường THPT.
- Chương 2 : Thực trạng dạy - học và quản lý quá trình dạy - học ở các
trường THPT Hải Phòng.
- Chương 3 : M ột số biện pháp quản lý quá trình dạy - học nhằm nâng
cao chất lượng Giáo dục ở các trường THPT nội thành Hải Phòng trong giai
đoạn hiện nay.
4
CHƯƠNG 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN VỂ QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VÀ
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG (THPT)
1.1. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC, DẠY HỌC VÀ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
1.1.1. Giáo dục, Giáo dục phổ thông và trung học phổ thông, dạy học và
quá trình dạy học
ì . l . ỉ .1. Giáo dục
Giáo dục sinh tồn và phát triển cùng với sự tồn tại của lịch sử ỉoài người
duy trì và bảo tồn, phát triển sáng tạo với sự tồn tại của lịch sử loài người đã
tích luỹ được, thực hiện chức năng xã hội, chức năng kinh tế, chính trị và chức
năng tư tưởng văn hoá. Giáo dục là tất yếu vĩnh hằng của xã hội loài người. Ở
đâu có con người, ở đó có Giáo dục, ở đâu còn con người thì còn có sự truyền
đạt những kinh nghiệm của xã hội loài người. Giáo dục được hiện thực bằng
nhiều con đường, trong đó con đường quan trọng nhất là tổ chức, quản lý quá
trình dạy - học. Đó là con đường ngắn nhất chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiêm
đã tích luỹ được của loài người.
Bất kỳ một chế độ xã hội nào, một thời đại nào cũng phải xây dựng một
nền Giáo dục, để đào tạo những con người phù hợp với chế độ xã hội ấy. Giáo
dục là môi trường chủ yếu, tốt nhất để chuyển tải những tư tưởng thống trị xã
hội. Thông qua việc truyền thụ kiến thức mà Giáo dục nhân cách cho con
người, để hình thành một đội ngũ những nhà sáng chế, những nhà quản lý với
những người lao động phục vụ cho một chế độ xã hội, để xây dựng củng cố,
phát triển bền vững của chế độ xã hội. Theo Các Mác, "trong tính hiện thực
của nó con người là tổng hoà các mối quan hệ x ã hội", có nghĩa con người là
sản phẩm của tất cả các mối quan hệ xã hội nói chuim trong đó Giáo dục là
5
quan hệ chủ yếu để hình thành nhân cách, trang bị cho thế hệ trẻ những tri
thức phát triển trí tuệ và các phẩm chất khác. Con người có đủ năng lực của
bản thân có năng lực để tiếp thu những tri thức nhân loại, biến những tri thức
chung của xã hội loài người thành của bản thân có năng lực phát triển và sáng
lạo ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội. Như vậy, Giáo dục với tư cách là
một bộ phận của xã hội có nhiệm vụ đào tạo ra thế hệ trẻ cho hiện tại và tương
lai của dân tộc, của loài người.
Quá trình hình thành nhân cách ở mỗi con người là một quá trình lâu
dài, bởi vì con người mới sinh ra phải tiếp nhận sự tác động của môi trường
tồn tại của thế giới vật chất, của nhà nước pháp luật, tôn Giáo, khoa học, nghệ
thuật phong tục và các sinh hoạt khác. Đối với trẻ em mới sinh ra, văn hoá là
m ột thế giới đã chuẩn bị sẵn để nó bước vào. Nó phải học tập để nắm vững các
kiểu mẫu, các sinh hoạt theo phương thức ứng xử mô hình thiết chế của thế
giới đó. Khoa học đã chứng minh: khi sinh ra, đứa trẻ chỉ là một cơ thể sinh
học có hàng loạt các thuộc tính tiềm năng. Quá trình Giáo dục sẽ phát triển
các thuộc tính tiềm năng ấy làm cho cơ thể sinh vật trở thành người - Một thực
thể trí tuệ có khả năng lao động sáng tạo. Một đứa trẻ nếu không được học ăn,
học nói, học ứng xử, học kiến thức, thì nó không thể nào thích ứng được với
cuộc sống hiện tại với đủ bản lĩnh tri thức cho tương lai. Người ta gọi quá
trình dạy và học ấy là quá trình văn hoá cá nhân, qua đó hình thành nên những
kiểu nhân cách riêng khác nhau.
N hư vậy, Giáo dục với tư cách là quá trình văn hoá góp phần quan trọng
hình thành nhân cách ở mỗi con người, để cho con người thích ứng được với
cuộc sống cộng đồng. Mỗi nền văn hoá sẽ hình thành một thế hệ nhân cách
riêng phù hợp với nền văn hoá ấy. Quá trình hình thành nhân cách ở mỗi con
người là quá trình học tập, tiếp cận với văn hoá. Văn hoá Giáo dục sẽ tạo cho
con người khả năng tự giác hoạt động trong nền văn hoá ấy. Quá trình Giáo
dục tạo cơ sở hình thành những thành viên mới của xã hội, dạy cho họ ứng xử
6
như thế nào và làm gì để đạt mục đích chủ yếu, cơ bản của cuộc sống để tồn
tại và phát triển.
Sự phát triển của con người là một quá trình phức tạp. Quá trình đó
diễn ra dưới ảnh hưởng của những tác động bên ngoài cũng như của nội lực là
những cái vốn có của con người đang sống và trưởng thành.
Trong điều kiện Giáo đục ở trường lớp có hệ thống quá trình đó xảy ra
từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp tới cao, từng bước hình thành nên phẩm chất,
năng lực cá nhân phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm
mỹ và nhân cách cá nhân được hình thành, phát triển phù hợp với thực tiễn
hôm nay và yêu cầu của ngày mai. Luật Giáo dục nước ta đã nêu mục đích của
quá trình này như sau :
Giáo dục phải đảm bảo cơ bản, toàn diện, thiết
thực, hiện đại và có hệ thống: bảo tồn và phát huy truyền thống tốt dẹp bản
sắc vãn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại” [26, tr.9].
Giáo dục rèn luyện con người một cách có kế hoạch , có tổ chức, có
định hướng với việc lựa chọn những phương tiện, phương pháp, hình thức tổ
chức để thực hiện những mục đích đã đề ra một cách có hiệu quả.
Hình thành nhân cách toàn vẹn phải có quá irình tác động có mục tiêu,
có tổ chức, có kế hoạch. Quá trình này diễn ra theo thiết chế trường, lớp của
hệ thống Giáo dục quốc dân.
Mục đích của Giáo dục là hình thành và hoàn thiện nhân cách con người,
lạo nhân lực cho xã hội có đầy đủ phẩm chất trí tuệ và bồi dưỡng nhân tài.
Ở nhà trường, quá trình Giáo dục thông qua dạy học được cụ thể hoá
thành mục tiêu cho các cấp độ nhà trường, bậc học, cấp học, ngành học với
những chỉ tiêu kiến thức văn hoá, đạo đức, sức khoẻ,...phù hợp với nội dung,
phương pháp của các cấp độ thể hiện ở sách Giáo khoa, Giáo trình; phương
pháp dạy của thầy Giáo, tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học, lòng say mê và ý chí vươn lên của nsười học.
7
Do vây, quá trình dạy học có bản chất là sự truyền đạt và lĩnh hội sáng
tạo những kinh nghiệm và những tri thức của lịch sử cho các thế hệ kế tiếp.
Giáo dục là quá trình giúp cho mỗi cá nhân tích luỹ kiến thức, mở mang trí
tuệ, hình thành nhân cách, phẩm chất trí lực, để bảo tồn, phát triển vản minh
của cá nhân, của tập thể, của xã hội và của nhân loại. Do vậy Giáo dục đồng
nghĩa với sự chọn lọc, phát triển vãn minh nhân loại, Giáo dục để loại bỏ thói
hư, tật xấu, cái cổ hủ lạc hậu, tiếp trong cái tốt, cái hay, cái mới văn minh
phát triển.
Giáo dục là m ột nhu cầu không thể thiếu được của xã hội loài người,
dạy học ở nhà trường là sự khởi đầu tạo nên chất kết dính cá nhân với cá nhân
thành m ột cấu trúc của tổng họp nhân cách chung.
Chính nhờ có Giáo dục mà các di sản tinh thần vật chất cùa thế hệ trước
được truyền lại cho thế hệ sau. Các di sản này được tích luỹ ngằy càng phong phú.
1.1.12. Giáo dục p h ổ thông và trung học p h ổ thông
Giáo dục là m ột phạm trù khoa học xã hội nhằm xây dựng, hình thành,
phát triển nhân cách gồm phẩm chất, nỗ lực cá nhân ở những cấp độ khác
nhau để cá nhân hoà nhập cộng đồng, xã hội nhằm để lĩnh hội và đảm nhận
một hoạt động thực tiễn, một công việc nhất định, có hiệu quả cao, tốt đẹp và
phát triển. Nói về vai trò của Giáo dục phổ thông, Lê nin đã từng tâm sự : “
Thú thật rằng, việc xây dựng vài ba trường cấp một ở nông thôn hẻo lánh làm
tôi thích thú hơn là m ột hiện vật tuyệt mỹ trong một cuộc triển lãm. Sự phát
triển học vấn phổ thổng của quần chúng sẽ tạo nên miếng đất vững chắc và
lành mạnh, trên đó sẽ lớn lên những ỉực lượng hùng hậu và vô tận cho nghệ
thuật, khoa học, kỹ thuật phát triển” .[14,tr.291,292]. Đảng ta đã xác định
“Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai
của dân tộc, nó phải đạt cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự nghiệp phát triển
toàn diện con người V iệt Nam xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết 14 của Bộ Chính
trị về cải cách G iáo dục nhấn mạnh “ Giáo dục phổ thông có nhiệm vụ Giáo
8
dục cho học sinh đạt trình độ văn hoá phổ thông lương đối hoàn chỉnh, có
năng lực làm các loại lao động phổ thông, có ý thức lựa chọn nghề, sẵn sàng
đi vào học nghề và tham gia lao động sản xuất, tham gia công tác xã hội hoặc
học lên” .
Luật Giáo dục chỉ rõ “Giáo dục phổ Ihông giúp cho học sinh phát triển
toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm
hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong hệ thống Giáo đục phổ thông thì “Giáo dục THPT nhằm giúp học
sinh củng cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học vấn phổ
thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp
tục học lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào
cuộc sống lao động” [26,tr.l7].
Giáo dục THPT là cấp học “Bản lề” của hệ thống Giáo dục quốc dân,
nó là cầu nối giữa Giáo dục phổ thông với Giáo dục nghề nghiềp, và Giáo dục
Đại học. Nhà trường phổ thông mà đối tượng của nó là các thế hệ thanh niên
sắp bước vào đời, đã và đang tạo nguồn đáng kể cho đào tạo nhân lực ở trình
độ cao phục vụ cho cộng đồng và công cuộc xây dựng đất nước hưng thịnh.
Chất lượng Giáo dục phổ thông, do đó phải đảm bảo vững chắc cho việc tạo
ncn chất lượng nguồn lực, đồng thời cho việc Giáo dục liôn tục, là cầu nối, là
bước trung gian vô cùng quan trọng giữa các giai đoạn khác nhau trong cuộc
đời học và hành của mỗi con người.
Với vị trí, vai trò của Giáo dục phổ thông nói trên, trước những đòi hỏi
ngày càng cao của công việc xây dựng đất nước trong thế kỷ XXI, ngành Giáo
dục - Đào tạo đã triển khai thực hiện “đề án đổi mới chương trình Giáo đục
phổ thông”nhằm nâng cao chất lượng Giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, vừa đáp
ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá
9
đất nước, vừa đáp ứng yêu cầu của người học, phù hợp với thực tiễn và truyền
thống Việt Nam; tiếp cận trình độ Giáo dục phổ thông ở các nước phát triển
trong khu vực và thế giới” [10,tr.l40]. Trước yêu cầu đổi mới đó, trách nhiệm
của đội ngũ Giáo viên càng nặng nề và vẻ vang hơn, chất lượng đội ngũ Giáo
viên phải được tăng lên đáp ứng yêu cầu đổi mới của Giáo đục phổ thông.
Ỉ.Ỉ.Ỉ.3 . Dạy học
Dạy học là những hoạt động giao tiếp mang ý nghĩa xã hội bao gồm
hoạt động dạy và hoạt động học. Chủ thể của hoạt động dạy là thầy Giáo, cô
Giáo và chủ thể của hoạt động học là học sinh, đó là hai hoạt động khác nhau
nhưng không phải là đối lập nhau, mà có sự thống nhất cao của hai mặt để
cùng hướng tới mục đích.
Hoạt động của thầy Giáo, cô Giáo là truyền thụ tri thức, tổ chức điều
khiển, hướng dẫn, uốn nắn hoạt động chiếm lĩnh tri thức cho học sinh. Vai trò
của người thầy là người đẫn dắt, dẫn đường, là người đồng hành với học sinh
trên con đường chiếm lĩnh tri thức tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa người dạy
và người học.
Hoạt động học của học sinh là quá trình nhận thức, nó trở nên có ý
nghĩa và kết quả khi nó là tự giác, tính cực, nỗ lực, hoạt động học không chỉ
dừng lại ở việc nhắc lại, lặp lại bài học, hành vi mà hơn thế nó còn là sự tái tạo
cho bản thân, sáng tạo trong tư duy, biết sử dụng và điều khiển tri thức trong
quá trình lĩnh hội và chiếm lĩnh khoa học. Dạy và học là hai hoạt động của
một quá trình dạy học có mối quan hệ chặt chẽ thống nhất với nhau. Kết quả
học tập của học sinh không chỉ là kết quả của hoạt động học mà còn là kết quả
của hoạt động đạy. Không thể tách rời kết quả học tập của trò trong việc đánh
giá kết quả của thầy, bởi vì: Nếu như, hoạt động dạy là việc tổ chức, điều
khiển tối ưu quá trình học sinh chiếm lĩnh tri thức, hình thành và phát triển
nhân cách thì trong hoạt động học, học sinh tiếp nhận khái niệm khoa học, tự
giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khoa học dưới sự điều khiển của thầy.
10
Nếu như dạy là hoạt động tổ chức điều khiển sự học lập của học sinh
giúp học sinh nắm vững kiến thức hình thành kỹ năng, hình thành nhân cách,
thì hoạt động học sẽ đạt ba mục đích trí dục (nắm vững tri thức), phát triển (tư
duy và năng lực hoạt động Irí tuệ), Giáo dục (hình thành thế giới quan khoa
học, nhân cách - phẩm châ't và đạo đức . . ).
Nếu như, hoạt động dạy là truyền đạt thông tin và điều khiển hoạt động
học, thì hoạt động học là lĩnh hội và tự điều khiển.
Nếu như hoạt động dạy theo chương trình nội dụng quy định thì hoạt
động học phải tuân thủ, thực thi theo toàn bộ hệ thống khái niệm của môn học;
cấu trúc “lô gíc” của m ôn học;các phương pháp đặc trưng của khoa học tạo nên
môn học; ngôn ngữ của khoa học; ứng dụng hiểu biết vào học tập và lao động.
Nếu như hoạt động dạy theo phương pháp định chế của nhà trường và sự
thích ứng sáng tạo của thầy, cô Giáo thì hoạt động học phải đồng thời có phương
pháp nhận thức, phương pháp chiếm lĩnh biến thành học vấn của bản thân.
Dạy học là hai hoạt động có sự thống nhất chặt chẽ, có mối liên hệ hữu
cơ giữa thầy và trò, giữa truyền thụ và lĩnh hội, giữa dạy - học và kết quả dạy
học hiện tại là hiệu quả trong tương lai.
Mục tiêu của dạy học gắn liền với mục đích môn học, bài học. Người ta
thường nói mục tiêu chung của dạy học là trang bị cho người học tri thức - kỹ
năng - thái độ và các giá trị. Mục đích chuyên biệt đưa ra yêu cầu cụ thể cho
hoạt động của Giáo viên và của học sinh với từng nội dung, từng chủ đề nhận
thức. Đó là mục tiêu trực tiếp được tính toán xây dựng trên cơ sở đặc điểm cụ
thể của mồn học, đặc điểm đối tượng học sinh... Mục đích dạy học được thông
qua việc thực hiện m ục tiêu của bài học, môn học.
1.1.1.4. Quá trình dạy học
Dạy học là m ột quá trình hệ toàn vẹn có sự thống nhất hai mặt của các
chức năng hoạt động dạy và hoạt động học. Đó là quá trình vận động và phát
triển, được biểu hiện thông qua sự vận độns và phát triển của các yếu lố tạo
11
nên quá trình dạy học. Hiệu quả của quá trình dạy học phụ thuộc vào mối
quan hệ tương tác, sự tương hỗ của hoạt động dạy và hoạt động học, do đó quá
trình dạy học “Là một quá trình bộ phận, một phương tiện để trao đổi học vấn,
phát triển năng lực và Giáo dục phẩm chấl nhân cách thông qua sự tác động
qua lại giữa người dạy và người học nhằm truyền thụ và lĩnh hội một cách có
hệ thống những tri thức khoa học, những kỹ năng nhận thức và thực
hành”.[40,tr.25]. N ói cách khác quá trình vận động kết hợp các hoạt động dạy
và học để thực hiện được các nhiệm vụ dạy học.
Trong quá trình dạy học, người dạy chủ định lựa chọn trọng tâm, trọng
điểm, nội dung, phương pháp, lựa chọn phương tiện, hình thức tổ chức cũng
như chuẩn kiến thức trong đánh giá. Người học dựa trên các cơ sở kiến thức
trước đó, phát huy thực hiện các thao tác tư duy để chiếm lĩnh tri thức khoa
học nhằm nâng cao chất lượng kiến thức của mình lên một trình độ mới.
Quá trình dạy học gắn liền với quá trình Giáo dục. c ả hai quá trình đó đều
bước tới một mục tiêu chung là phát triển nhân cách toàn diện của học sinh.
Quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn gồm ba thành tố cơ bản:
Nội dung, hoạt động dạy và hoạt động học. Các thành tố này tương tác với
nhau, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau để thực hiện nhiệm vụ dạy học
nhằm đạt chất lượng và hiệu quả dạy học.
Nội dung là đối tượng lĩnh hội của học sinh. Nó là một yếu tố khách
quan, quyết định lôgíc của bản thân quá trình dạy học về mặt khoa học.
Hoạt động học là quy định lôgíc của quá trình dạy học về mặt lý luận
dạy học. Nghĩa là trình độ trí dục và quy định lĩnh hội của học sinh có ảnh
hưởng quyết định đến việc tổ chức quá trình dạy học. Nó bao gồm hai chức
nãng thống nhất với nhau : lĩnh hội và tự điều khiển.
©
c*
*
♦
Hoạt động dạy gồm hai chức nãng: truyền đạt và tự điều khiển luôn
tương tác và thống nhất với nhau. Dạy phải xuất phát từ lôgíc khoa học của
khái niệm và lôgic sư phạm của tâm lý lĩnh hội.
12
Quá trình dạy học là quá trình điều khiển, lự điều khiển và có thể điều
khiển được, là một công nghệ sư phạm đặc biệt của phương pháp truyền dẫn
tri thức và phương pháp hấp Ihụ nó một cách có hiệu quả irong sự tương tác
thầy và trò ( dạy và học).
1.1.2. Bản chất của quá trình dạy học
Dạy là hoạt động của thầy Giáo , một loạt các công việc: tổ chức, thiết
kế, chỉ đạo điều khiển việc lĩnh hội kiến thức, hình thành kỹ năng, hướng dẫn
cho học sinh đường lối, cách thức, phương pháp, phương tiện tiếp thu kiến
thức, tự học và hoạt động trí tuệ cho học sinh nhận thức, là quá trình giúp học
sinh chiếm lĩnh trí thức.
Học là hoạt động mà học sinh nhằm thu nhận, gia công, lưu giữ và vận
dụng các tri thức, là quá trình nhận thức diễn ra trong những điều kiện đặc
thù. Bản chất của hoạt động học là quá trình tiếp nhận kiến thức dưới sự chỉ
đạo, hướng dẫn của thầy nhằm biến đổi, phát triển, nâng cao giá trị, tăng thêm
nội lực, hình thành nhân cách người học, tạo nên giá trị của con người, giá trị
đó vừa có tính cá biệt, vừa cơ bản, vừa có tính phổ biến, vừa có tính cá nhân,
vừa có tính xã hội.
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức tự giác, sảng tạo
của học sinh dưới sự tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ (có nghộ thuật, truyền cảm) của
Giáo viên, là quá trình có tính hai mặt: dạy và học, gắn bó m ật thiết với nhau.
Bản chất của quá trình dạy học thể hiện tính thống nhất của hoạt động
dạy và hoạt động học, sự thống nhất biện chứng (mật thiết, hữu cơ) giữa các
yếu tố của quá trình dạy học trong quá trình triển khai hoạt động dạy học.
Lê Nin đã từng khái quát quá trình nhận thức của loài người như sau:"Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”
Nhận thức của học sinh cũng phải trải qua nhũng cấp độ từ đơn giản đến
phức tạp chứa đựng nội hàm của logic không hẫng hụt, khống tạo nên lỗ hổng
13
trong nhận thức trong tri thức. Đó là nhận biết - hiểu - vận dụng - phân tích - tổng
hợp - đánh giá.
Quá trình “tổng hợp - đánh giá”, là quá trình “tư duy trừu tượng đến thực
tiễn” vừa kết thúc một chu trình nhận thức, vừa mở ra một chu trình mới. Nó
khẳng định khả năng tiềm ẩn của con người irong sự thích ứng, giải quyết các
vấn đề thực tiễn cuộc sống, quá trình hoạt động cụ thể nẩy sinh, đặt ra. Đây
cũng là thực tiễn đặt ra trong dạy học cần phải tãng cường và kết hợp tốt hơn
học với hành, sách vở, truyền thụ lý thuyết, bục giảng với vận hành trong đời
sống thực tế.
Quá trình nhận thức của học sinh chủ yếu diễn ra trong điều kiện sư
phạm: thầy lên lớp có nội dung quy định, có sự lựa chọn phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học. Hoạt động tương tác thầy truyền đạt, điều khiển. Trò
lĩnh hội, tự điều khiển, tự lĩnh hội.
- Thầy G iáo tạo tình huống có vấn đề , tạo sự hưng phấn, sự hoài nghi
cho học sinh.
- Thầy Giáo tổ chức, điều khiển học sinh nắm tri thức mới.
- Thầy G iáo tổ chức, điều khiển học sinh củng cố kiến thức vừa học, rèn
ỉuyện kỹ năng.
- Học sinh được kiểm tra đánh giá, tự đánh giá kết quả học tập
- Học sinh tự phân tích kết quả, trao đổi, xin ý kiến thầy Giáo để hoàn
thành kiến thức, hoàn thiện nhiệm vụ học tập.
N hư vậy, dưới sự tổ chức hướng dẫn của thầy Giáo, học sinh đã tiếp
nhận được những kiến thức mới chứng tỏ trong vốn nhận thức của họ, những
kiến thức đã được khám phá bởi sự tìm tòi, sáng tạo của các nhà nghiên cứu.
Con đường nhận thức của học sinh không phải là sự lặp lại con đường đi tìm
chân lý của th ế hệ trước mà dưới sự chỉ đạo của Ihầy Giáo, học sinh đi đến
đích bằng con đường ngắn nhất, chắc chắn đến đích nhận thức của khái niệm
14
khoa học. Học sinh qua hoạt động học tập đã dần dần trưởng thành, tiếp nhận
và biến kiến thức chung của loài người thành kiến thức của bản thân.
Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn mà các thành tố của nó luôn luôn
tương tác với nhau theo những quy luật riêng, thâm nhập vào nhau, quy định
lẫn nhau để tạo nên sự thống nhất biện chứng:
-
Giữa dạy và học; giữa truyền đạt và điều khiển trong dạy; giữa lĩnh
hội và tự điều khiển trong học.
Nội dung là điểm xuất phát của dạy, lại là điểm kết thúc của học.
Quá trình dạy học là một hoạt động cộng đồng, hợp tác giữa các chủ thể:
thầy - cá thể học sinh - nhóm học sinh, học sinh - học sinh trong nhóm . .. Sự
tương tác theo kiểu cộng đồng hợp tác giữa dạy và học là yếu tố duy trì và phát
triển sự thống nhất toàn vẹn của quá ưình dạy học, của chất lượng dạy học.
S ơ ĐỔ 1 : CÂU TRÚC CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC CÓ THỂ DIÊN
TẢ TRỰC QUAN BẰNG s ơ Đ ổ SAU :
1.1.3. Sự thông nhất biện chứng của hoạt động dạy và học
15
Dạy và học là một hệ thống toàn vẹn, thống nhất biện chứng, là quy luật
cơ bản của quá trình dạy học. Nó phản ánh mối liên hệ tất yếu, chủ yếu và bên
vững giữa hai thành tố trung tâm, đặc trưng cho tính chất hai mặt của quá trình
dạy học: Dạy và học là sự tương tác qua lại lích cực giữa thẩy và trò thì mới
xuất hiện bản thân quá trình dạy học.
Sự tác động qua lại giữa hoạt động dạy và hoạt động học được phản ánh
tập trung trong quá trình tổ chức và điều khiển, tự tổ chức và tự điều khiển
trong hệ thống “thầy - trò ” và hệ thống “trò và tài liệu học tập” .
Quá trình tổ chức, điều khiển và tự tổ chức điều khiển trong hoạt động
dạy học thường diễn ra theo cơ chế A lg o rit:
- Thứ nhất, phát lệnh
- Thứ hai, thực hiện lệnh
- Thứ ba, thu tín hiệu ngược
- Thứ tư, phát lệnh bổ sung
- Thứ năm, phân tích và đánh giá kêl quả cuối cùng:
Như vậy có thể coi như một chu trình dạy học đã hoàn thành, một chu
trình dạy học mới lại bắt đầu từ lúc xây dựng tình huống có vấn đề mới nhưng
ở trạng thái cao hơn, trình độ mới cao hơn.
SO ĐỔ 2 : CHU T RÌNH DẠY HỌC TOÀN VẸN THỐNG NHẤT
p, Phát lệ n h ----------- ► Thực hiện lệ n h ----------- ►Thu tín hiệu phản hồi
_______
-
--------------------- Đánh giá -«------------------Phát lệnh bổ sung*
Hệ thống dạy và học là hệ thống hoạt động quyết định sống còn của
trường học, luôn tồn tại, được tiến hành đồng thời cho nhau, vì nhau. Trong
nhà trường không có dạy thì không có học, không có học thì sự dạy sẽ trở nên
16
vô nghĩa. Dạy và học là sự hoạt động thống nhất của việc truyền thụ kiến thức
của thầy và sự tiếp nhận, vận dụng kiến thức đó của học sinh. Kết quả học tập
của học sinh thấp không có nghĩa năng lực của học sinh yếu kém mà người
thầy cũng phải chia sẻ trách nhiệm, kết quả đó còn biểu hiện kết quả tổ chức,
chỉ đạo lớp học của người thầy cho hoạt động tích cực học tập còn thấp. Cũng
như vậy, nếu kết quả học tập của học sinh khá không chỉ việc thầy dạy tốt mà
còn thể hiện sự nỗ lực, cố gắng, vươn lên của học sinh (“không thầy đố mày
làm nên” nhưng thầy giỏi đến mấy, truyền thụ xong cho học sinh, học sinh
không nỗ lực thì học sinh sẽ không có kiến thức nào).
Dạy và học là hệ thống hoạt động thống nhất biện chứng còn bởi sự quy
định lẫn nhau của các hoạt động này cả về nội dung lẫn hình thức. “Tấm
gương sáng của thầy không chỉ là sự mẫu mực trong cách sống, trong lời ăn
tiếng nói mà còn bởi một lối làm việc, lối tư duy trước học sinh. Thầy làm viộc
dễ dãi thì học sinh dễ cẩu thả, ý thức tinh thần kỷ luật kém. Thầy làm việc
nghiêm túc đòi hỏi cao phù hợp với năng lực của học sinh làm cho học sinh
học tập nghiêm túc, có kết quả. Cách dạy của thầy giảng, đọc cho học sinh
nghe chép, bám sát sao câu chữ sách Giáo khoa thiếu năng động sẽ làm cho
học sinh ỷ lai, thiếu sáng tạo, mai một tư duy khoa học vốn đang cần xây dựng
ờ học sinh.
Dạy và học là một quá trình tương tác, cộng tác giữa thầy và trò. Chủ
thể của hoạt động dạy là thầy Giáo, chủ thể của hoạt động học là học sinh.
Quá trình vận động tích cực sáng tạo của những chủ thể này làm cho các chủ
thể đó phát triển, hoàn thiện phẩm chất năng lực của mình. Quá trình cộng tác,
hiệp đồng hành động của thầy Giáo và học sinh càng nhịp nhàng, ăn ý càng
làm tăng kết quả của hệ thống dạy học, càng làm trưởng thành nhanh mỗi cá
nhân trong quá trình ấy.
Học sinh tới trường do những nhu cầu thoả mãn hiểu biết thế giới tự
nhiên, xã hội. Thầy Giáo là người thoả mãn các yêu cầu cá nhân và yêu cẩu
O AI H O C Q U O C G IA HA N Ộ I
í r u n g í'â m ĨH Ỏ M G tim ĨHU v i ệ n
17
của nhà trường. Tháy Giáo không chỉ là người mở ra trước các em những chân
trời mới mà còn phải là người tổ chức, chỉ đạo, đồng hành với các em trên con
đường đi tới chân lí. Cái đích đã đạt được trong chương trình học. Thẩy dạy và
không ngừng phải học, thầy điều khiển học sinh, học sinh học lĩnh hội và tự
điều khiển. Các quá trinh dạy học, điều khiển, tự điều khiển irong hoạt động
của cả hệ thống có sự chuyển hoá cho nhau từ chủ thể này sang chủ thể hành
động khác. Thể hiện sự thống nhất biện chứng trong quá trình dạy và học.
1.2. QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
1.2.1. Quản lý và chức năng quản lý
1.2.1.1. Quản lý
Con người xuất hiện là một chủ thể sinh học - xã hội, hai mặt đó gắn
bó chặt chẽ ngay từ đầu, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội.
Song cá thể con người để hội đủ các quan hệ xã hội là một quá trình, từ thấp
đến cao, từ sơ khai đến trưởng thành thông qua quá trình học tập, lao động
mới xác lập mối quan hệ xã hội, con người cá thể mang bản chất, nhân cách
xã hội.
Khi sự phân công lao động xã hội xuất hiện và phát triển sâu rộng thì sự
liên kết con người cá thể với nhau càng cao, con người cá thể một mặt vừa có
khả năng tự chủ, mặt khác mối liên hệ cá thể thành hệ thống xã hội càng lớn
mà không thể đứng ngoài hệ thống xã hội đó đặc biệt khi xã hội có và còn giai
cấp. Mỗi người tự độc tấu lấy nhạc cụ, hay tự biểu diễn đơn ca bài hát của
mình nhưng với một hợp trường ca, một dàn hợp xướng phải có nhạc truởng.
Nhạc truởng là nguời tổ chức, điều khiển liên kết các cá thể chức năng hoạt
động theo những yêu cầu nhất định, đó là hoạt động của lao động quản lý.
Ngày nay, thuật ngữ quản lý trở nên phổ biến nhưng tuỳ thuộc vào cách
tiếp cận khác nhau để đưa ra định nghĩa quản lý khác nhau:
Quản lý xã hội một cách khoa học có nshĩa là:
18
- Nhận Ihức phát hiện các quy luậl, các khuynh hướng phát triễn xã hội
và hướng (kế hoạch hoá, tổ chức điều chỉnh và kiểm tra) sự vận động xã hội
cho phù hợp với khuynh hướng ấy.
- Phát hiện và giải quyết kịp thời các mâu thuẫn của sự phát triển, khắc
phục trở ngại.
- Duy trì sự thống nhất giữa chức năng và cơ cấu của hệ thống.
- Tiến hành một đường lối đúng đắn dựa trên cơ sở tính toán nghiêm túc
những khả năng khách quan, mối tương quan giữa lực lượng xã hội, một
đường lối gắn bó, chặt chẽ của xã hội” (V.G.Apanatsev - nhà triết học).
“Quản lý là thiết k ế duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân
làm việc với nhau trong nhóm, cá thể hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã
định” (Hanord Koontz).
Ở Việt Nam, bên cạnh các tác giả trong khoa học quản lý cũng có một
số tác giả trong lĩnh vực khoa học Giáo dục đưa ra các định nghĩa khác nhau
về “quản lý” như:
“Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến
tập thể những người lao động nói chung (khách thể quản lý), nhằm thực hiện
những mục tiêu dự kiến” (Phạm Minh Hạc).
“Quản lý là tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản
lý (người quản lý) tới khách thể quản iý (người bị quản lý), trong một tổ chức về
mạt chính trị, vãn hoá, kinh tế, xã hội. . . bằng một hệ thống các luật lệ, các
chính sách, nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ th ể .. . làm cho tổ chức
vận hành và đạt mục tiêu của tổ chức” (nhiều tác giả khác nhau).
Như vậy, quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ định),
có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về
tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng
được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã định.
Trong các diễn đạt trên đều cho thấy những điểm chung là:
19
- Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình hoạt động
xã hội của ỉoài người. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã
hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển.
- Hoạt động quản lý được thực hiện với một tổ chức hay mộl nhóm xã hội.
- Yếu tố con người, trong đó chủ yếu bao gồm người quản lý và người
bị quản lý, họ giữ vai trò trọng tâm trong hoạt động quản lý.
Như vậy, bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích
của người quản lý (chủ thể quản lý) đến người bị quản lý (khách thể quản lý)
nhằm đạt mục tiêu chung. Bản chất có thể được thể hiện ở mô hình dưới đây:
S ơ ĐỔ 3:
Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay là một tổ chức.
Khách thể quản lý là những con người cụ thể và sự hình thành tự nhiên
các mối quan hệ giữa những con người, giữa những nhóm n g ư ờ i.. .
Công cụ quản lý là phương tiện tác động của chủ thể quản lý tới khách
thể quản lý như: mệnh lệnh, quyết định, luật lệ, chính sách . . .
Phương pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý.
20
Mục tiêu của tổ chức được xác định theo nhiều cách khác nhau, nó có
thể do chủ thể quản lý áp đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ thể và khách thể
quản lý.
ỉ .2.1.2. Chức năng quản ỉý
Quản lý là một loại lao động sáng tạo, hoạt động quản lý cũng phát
triển không ngừng từ thấp tới cao; gắn liền với quá trình phát triển đó là sự
phân công chuyên môn hoá lao động quản lý. Sự phân cống chuyên môn hoá
lao động quản lý là cơ sở hình thành các chức năng quản lý.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của
chủ thể quản lý nẩy sinh từ sự phân công, chuyên môn hoá trong hoạt động
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu
Phân công gắn liền với hợp tác. Phân công chuyên môn hoá càng sâu
đòi hỏi sự hợp tác càng cao, mối liên hệ càng chặt chẽ với trình tự nhất định
giữa các chức năng quản lý.
Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình tự
các công việc của quá trình quản lý, mỗi chức năng có nhiều nhiệm vụ cụ thể
là quá trình liên tục của các bước công việc tất yếu phải thực hiện.
Toàn bộ hoạt động quản lý đều được thực hiện thông qua các chức năng
quản lý, nếu không xác định được chức năng thì chủ thể quản lý không thể
điều hành được hệ thống quản lý.
Chức năng quản lý xác định vị trí, mối quan hệ giữa các bộ phận, các
khâu, các cấp trong hệ thống quản lý. Mỗi hệ thống quản lý đều có nhiều bộ
phận, nhiều khâu, nhiều cấp khác nhau, gắn liền với nhiều chức năng xác định
nào đó nếu khống có chức năng quản lý thì bộ phận đó hết lý do tồn tại.
Từ mỗi chức nãng quản lý, mỗi chủ thể xác định các nhiệm vụ cụ thể, thiết
kế bộ máy và bố trí con người với các phương tiện, công cụ quản lý phù hợp.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà chủ thể quản lý có thể theo dõi,
kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh sự hoạt động của mỗi bộ phận và toàn hệ thống
21
quản lý. Mỗi con người trong hệ thống quản lý đều phải hoạt động Iheo những
chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mình; chủ thể quản lý theo dõi, kiểm tra, điều
chỉnh, đảm bảo sự phối hợp đổng bộ các hoạt động đó sẽ tạo ra sức mạnh tổng
hợp của toàn hộ thống quản lý hướng vào mục tiêu chung.
Hoạt động quản lý phải thực hiện nhiều chức năng khác nhau, mỗi chức
nâng có tính độc lập tương đối nhưng chúng được liên kết hữu cơ trong một hệ
thống nhất quán.
- D ự báo: nhà quản lý phải xác định được tương lai của hệ thống quản
lý, những yếu tố thuận lợi, khó khăn, môi trường bên ngoài, bên trong tác
động đến hệ thống quản lý an toàn, phát triển đạt mục tiêu.
Dự báo để nhận thức tất yếu khách quan của thách thức, cơ hội để phân
tích, lựa chọn các phương án hành động của hệ thống.
Dự báo là bước quan trọng nhằm xác định tiền đề, các điều kiện cho
việc xây dựng chiến lược, lập k ế hoạch, xây dựng hệ thống tổ chức quản lý và
điều chỉnh trong quá trình điều hành của hệ thống.
Nói dự báo phải dựa trên cơ sở khoa học được phân tích tỉ mỉ, kỹ lưỡng
sẽ mang lại thành công lớn, nếu dự báo sai, thiếu cở sở khoa học sẽ dẫn đến
hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, dự báo chỉ mang tính chất định hướng. Quá
trình diễn biến tình hình phải tiếp tục điều chỉnh, bổ sung thực tiễn, sinh động
cho phù hợp.
- K ế hoạch: từ những dự báo khoa học định hướng khái quát, căn cứ vào
lôgíc hoạt động thực tiễn, thực trạng của tổ chức và nhiệm vụ được giao, xác
định rõ mục đích, mục tiêu của tổ chức và những con đường thể thức, chương
trình hành động bước đi cụ thể, biện pháp, cách thức các điều kiện đảm bảo để
tổ chức hoạt động đạt mục tiêu trong thời gian nhất định của hệ thống quản lý.
Từ mục tiêu chung của hệ thống đến mục tiêu của bộ phận, mục tiêu
cá nhân tạo thành cả hệ thống mạng lưới khi các mục tiêu phản ánh trong các
22