Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tác động của bệnh truyền nhiễm đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các quốc gia thu nhập trung bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
------------------

TRẦN MINH MẪN

TÁC ĐỘNG CỦA BỆNH TRUYỀN NHIỄM
ĐẾN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở
CÁC QUỐC GIA THU NHẬP TRUNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
------------------

TRẦN MINH MẪN

TÁC ĐỘNG CỦA BỆNH TRUYỀN NHIỄM
ĐẾN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở
CÁC QUỐC GIA THU NHẬP TRUNG BÌNH
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀNG BẢO
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài: “Tác động của bệnh
truyền nhiễm đến đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở các quốc gia thu nhập trung
bình” là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc và có
độ chính xác cao trong phạm vi hiểu biết của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu này.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014
Học viên

TRẦN MINH MẪN


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục ký tự viết tắt
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình và đồ thị
Tóm tắt
Chƣơng 1 – DẪN NHẬP ....................................................................................... 1
Chƣơng 2 – TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VÀ LÝ THUYẾT .............. 4
2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn nhân lực ......................................... 4
2.2. Tác động của sức khỏe lên phát triển và đầu tư ............................................... 6
2.3. Tham khảo mô hình kinh tế học của đầu tư trực tiếp nước ngoài ................. 12
2.4. Mô phỏng lý thuyết ngoại tác ........................................................................ 14

Chƣơng 3 – PHƢƠNG PHÁP LUẬN ................................................................ 18
3.1. Lập luận mô hình kinh tế học ......................................................................... 18
3.2. Vận dụng mô hình kinh tế lượng ....................................................................21
3.3. Lập luận về nhận diện ngoại tác ......................................................................29
3.4. Mô tả nguồn gốc dữ liệu .................................................................................31
Chƣơng 4 – ƢỚC LƢỢNG HỒI QUY ............................................................. 36
4.1. Thống kê mô tả dữ liệu .................................................................................. 36
4.2. Kiểm định tương quan cặp biến ..................................................................... 40
4.3. Mô hình hồi quy và các kiểm định cơ bản ..................................................... 42


4.4. Mô hình hồi quy dạng Robust ........................................................................ 52
Nhận xét chung cho bốn mô hình Robust ………………………………….. ............. 53
Nhận xét tác động riêng phần trong mô hình RobustTB ............................. ......... 55
Chƣơng 5 – KẾT LUẬN ..................................................................................... 59
5.1. Phát hiện của nghiên cứu ............................................................................... 59
5.2. Hạn chế của nghiên cứu ..................................................................................60
5.3. Đề suất các nghiên cứu liên quan hoặc phái sinh .......................................... 62
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


DANH MỤC KÝ TỰ VIẾT TẮT
AIDS:

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (Acquired Immune Deficiency
Syndrome)

FDI:


Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (Foreign Direct Investment)

GDP:

Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

GNI:

Tổng thu nhập quốc dân (Gross National Income)

HIV:

Tác nhân truyền nhiễm làm suy giảm miễn dịch ở người (Human
Immunodeficiency Virus)

MEB

Lợi ích ngoại tác biên (Marginal External Benefit)

MSB

Lợi ích xã hội biên (Marginal Social Benefit)

ODA:

Viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)

OLS:

Bình phương cực tiểu thông thường (Ordinary Least Squares)


PPP:

Đồng mãi lực (sức mua tương đương) (Purchasing Power Parity)

SARS:

Hội chứng suy hô hấp cấp tính nghiêm trọng (Severe Acute Respiratory
Syndrome)

TB:

Bệnh lao (Tuberculosis)

TFP:

Năng suất tổng nhân tố (Total Factor Productivity)

UNCTAD: Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (United Nations
Conference on Trade and Development)
USD:

Mỹ kim (United States Dollar)

WB:

Ngân hàng Thế giới (World Bank)

WHO:


Tổ chức Y Tế Thế giới (World Health Organization)


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Mô tả biến số và dẫn nguồn gốc ........................................................... 33
Bảng 4.1. Thống kê dữ liệu các biến ..................................................................... 37
Bảng 4.2. Thống kê mô tả các yếu tố định lượng ................................................. 38
Bảng 4.3. Thống kê mô tả các biến trong mô hình hồi quy .................................. 39
Bảng 4.4. Ma trận tương quan cặp biến .................................................................40
Bảng 4.5. Ước lượng hồi quy dạng OLS ...............................................................43
Bảng 4.6. Kiểm định đa cộng tuyến trong mô hình OLS4 .................................... 44
Bảng 4.7. Kiểm định dị phương sai và thừa thiếu biến trong mô hình OLS4 ....... 44
Bảng 4.8. Tương quan giữa phần dư và biến độc lập trong mô hình OLS4 .......... 46
Bảng 4.9. Ước lượng hồi quy dạng OLS, BsQuantile(.5) và Robust ................... 50
Bảng 4.10. Ước lượng hồi quy dạng Robust ......................................................... 52


DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Hình 2.1. Ngoại tác tích cực của thị trường kiềm chế bệnh truyền nhiễm ........... 15
Hình 3.1. Khung lý thuyết kinh tế học dạng khái niệm ........................................ 21
Hình 3.2. Khung phân tích mô hình kinh tế lượng dạng khái niệm ...................... 24
Hình 4.1. Đồ thị biểu diễn phân phối giữa phần dư và biến Ln_FDI ....................46
Hình 4.2. Đồ thị phân tán giữa Ln_FDI và một số biến giải thích tiêu biểu .........47
Hình 4.3. Quy trình chọn mô hình hồi quy ...........................................................49
Đồ thị 4.4. Hiển thi % thay đổi của FDI ròng trong mô hình hồi quy .................. 57


Tóm tắt
Nghiên cứu này điều tra tác động của ba bệnh truyền nhiễm là lao, sốt rét và
AIDS đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Dữ liệu bảng được phân tích

từ 54 quốc gia và lãnh thổ thuộc nhóm có thu nhập trung bình theo danh sách phân
loại bởi Ngân Hàng Thế Giới trong giai đoạn 1993-2013. Phát hiện chính của tác
giả theo phương pháp hồi quy robust là tỷ lệ tử vong do bệnh truyền nhiễm gây ảnh
hưởng tiêu cực và có ý nghĩa thống kê đến dòng vốn FDI ròng ở các nền kinh tế có
thu nhập trung bình. Ước tính của nghiên cứu cho thấy, khi các yếu tố khác không
thay đổi, việc giảm một phần trăm tử suất bệnh lao trên 100.000 người có thể mang
lại kỳ vọng tăng dòng vốn FDI ròng hằng năm lên khoảng 0,11% vào năm tiếp theo.
Phát hiện này là bằng chứng thực nghiệm phù hợp để minh họa rằng bệnh tật và sức
khỏe tạo ra ngoại tác xuyên biên giới trên sự chuyển dịch của dòng vốn quốc tế.
Mặt khác, nghiên cứu phát hiện các quốc gia nhóm thu nhập trung bình không
phải là địa chỉ ưu tiên của FDI so với phần còn lại của thế giới. Kết quả ước lượng
cũng cung cấp bằng chứng cho thấy xung đột vũ trang có ảnh hưởng tiêu cực đến
đầu tư nước ngoài.
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, bệnh lao, bệnh sốt rét, AIDS, ngoại tác.
Phân loại của JEL: D62, F21, I15


1

Chƣơng 1: DẪN NHẬP
Thống kê của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cho thấy rằng, trong vòng 20
năm qua, số lượng ca bệnh và tử suất của các bệnh truyền nhiễm phổ biến đang đi
theo xu hướng tụt giảm. Mặt khác, trong cùng giai đoạn thời gian này, dữ liệu của
Ngân Hàng Thế Giới (WB) phản ảnh xu hướng gia tăng ngày càng nhiều hơn của
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở phạm vi toàn cầu. Báo cáo của Ủy ban Kinh
tế vĩ mô và Y tế từng khẳng định: “một lực lượng lao động lành mạnh là quan trọng
để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài” (Alsan, Bloom và Canning, 2006). Những
dữ liệu này được thống kê ở những lĩnh vực riêng biệt theo cách phân loại chuyên
ngành phổ biến trong điều tra và nghiên cứu kinh tế xã hội, và thông thường, dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu tác động của các nhân tố kinh tế thuần tuy. Tuy

nhiên, câu hỏi được đặt ra là liệu rằng có khả năng y tế nói chung hay bệnh truyền
nhiễm nói riêng đang tác động đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hay không,
cho dù có thể ở mức độ tác động là rất nhỏ?
Với một số đóng góp, nghiên cứu này quan trọng vì hai lý do. Trước hết, kết
quả ước lượng qua mô hình hồi quy robust phản ảnh sự tương quan có ý nghĩa
thống kê rõ rệt giữa tử suất bệnh lao và đầu tư trực tiếp nước ngoài và đây là bằng
chứng thực nghiệm cũng cố cho lập luận về vai trò của y tế như một thành phần
nhập lượng trong sự thu hút đầu tư. Cách đây gần một thập niên, đồng tác giả
Alsan, Bloom và Canning (2006) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa sức khỏe và
đầu tư trực tiếp nước ngoài với một số thành công, tuy nhiên, dữ liệu trong quá khứ
đã hạn chế các nhà khoa học này tìm thấy kết quả tương quan giữa bệnh truyền
nhiễm và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ hai, đóng góp của nghiên cứu ở khía
cạnh dữ liệu cho các nghiên cứu minh họa về ngoại tác của thị trường kiểm soát
dịch bệnh, với điều kiện cần có bổ sung công cụ và phương pháp phân tích chuyên
sâu về toán học, khi kết quả ước lượng của nó được xem là bằng chứng có giá trị
tham khảo. Theo quan điểm này, có khả năng rằng những nỗ lực kiểm soát bệnh
truyền nhiễm của các nền y tế địa phương nói riêng và của Tổ Chức Y Tế Thế Giới


2

nói chung có được dữ liệu hỗ trợ trong chiến lược thu hút nguồn tài trợ cho ngân
sách hoạt động.
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu là đánh giá tác động của bệnh truyền nhiễm
lên Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở các quốc gia được phân loại nhóm thu
nhập trung bình, và thông qua đó minh họa cho sự tương quan giữa hai khái niệm: Y
tế sức khỏe và Sự dịch chuyển dòng vốn quốc tế. Đối tượng khảo sát của nghiên cứu
này là các quốc gia và lãnh thổ được phân loại là nhóm thu nhập trung bình theo
tiêu chí GNI trong giai đoạn 1993-2013 nhưng loại trừ đi các quốc gia có quy mô
dân số nhỏ. Theo đó, mục tiêu cụ thể của nghiên cứu là tìm hiểu sự tác động của

bệnh truyền nhiễm đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và điều đó được diễn
giải dưới dạng câu hỏi nghiên cứu như sau:
(i) Liệu rằng một nền kinh tế nhóm thu nhập trung bình nếu thành công trong nỗ
lực hạ thấp tử suất bệnh lao (TB) có được coi là động lực để thu hút thêm
dòng FDI hay không ?
(ii) Có phải dòng FDI đang xem kết quả kiềm hãm bệnh sốt rét như một chỉ báo
để quyết định gia tăng dòng chảy vào một quốc gia ?
(iii) Việc hạn chế tử suất của AIDS đồng nhiễm bệnh lao có giúp một địa phương
nhận được thêm nhiều hơn FDI ?
Có một số kênh giải thích cơ chế hình thành của mối quan hệ này, và phân tích
sự tương quan sẽ được nhìn dưới hai góc độ, ở cả biến độc lập và biến phụ thuộc.
Trên góc nhìn từ FDI, khả năng kiềm chế bệnh truyền nhiễm được xem như hỗ trợ
cho thành phần của vốn nhân lực, và điều này coi như một yếu tố nhập lượng của
đầu tư. Mặt khác, ở góc nhìn từ bệnh truyền nhiễm, thì tác động đến FDI được xem
như sự hiện tượng ngoại tác, mà theo đó đầu tư như là một phần của cầu xã hội, bên
cạnh cầu cá nhân là cầu riêng của thị trường kiểm soát bệnh truyền nhiễm.
Trong quá trình tìm kiếm câu trả lời cho các mục tiêu như đã nói trên, nghiên
cứu phải đối mặt với một số thách thức. Thứ nhất, sự hạn chế về các nghiên cứu
liên quan đến mối quan hệ giữa hai khái niệm này làm cho việc tham khảo các tài


3

liệu gặp nhiều khó khăn về cả phương pháp lẫn dữ liệu. Tác giả phải khắc phục trở
ngại khách quan này phần lớn thông qua tìm kiếm mối quan hệ kinh tế bắc cầu thay
cho việc tổng quan các nghiên cứu tương quan trực tiếp giữa hai yếu tố. Thứ hai,
phạm vi nghiên cứu giới hạn trong các quốc gia nhóm thu nhập trung bình thường
không phong phú và đầy đủ về dữ liệu ở cả chiều dài và tính liên tục. Theo đó,
không giống như ở các quốc gia phát triển, dữ liệu không thể được thu thập từ tất cả
các quốc gia và lãnh thổ trong nhóm nghiên cứu và có nhiều trường hợp gặp phải sự

gián đoạn các quan sát liên tục ở từng quốc gia.
Kết cấu của phần nội dung chính của nghiên cứu được chia thành năm chương.
Theo trình tự, Chương một dẫn nhập vào nghiên cứu, qua đó cho thấy mục đích
nghiên cứu và hướng tiếp cận. Chương hai trình bày phần tổng quan về các nghiên
cứu thực nghiệm liên quan đến mối quan hệ giữa hai khái niệm sức khỏe và đầu tư,
và lý thuyết có tác dụng đính hướng cho toàn bộ mô hình. Nội dung của Chương ba
thể hiện mô hình kinh tế học và mô hình kinh tế lượng, bộ khung chính của bài viết,
và mô tả nguồn gốc dữ liệu mà trên đó các thao tác ước lượng được thực hiện. Trình
tự từng bước của ước lượng hồi quy, hiển thị kết quả và sự phân tích, giải thích kết
quả được trình bày ở Chương bốn, chương trọng tâm của nghiên cứu. Phần thảo
luận kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày ở Chương năm. Ngoại trừ chương một,
phần còn lại sẽ có mục tóm tắt nội dung được trình bày ở đoạn cuối mỗi chương.
Nghiên cứu này, mặc dù trong quá trình tìm câu trả lời cho quan hệ giữa các
biến thành phần của bệnh truyền nhiễm và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với
giả thuyết là có tác động nghịch biến, nhưng vẫn đảm bảo đây là một nghiên cứu
khách quan. Khi thực hiện các tác nghiệp, tác giả đảm bảo rằng không có ý định
thiên lệch, hoặc có lập trường ủng hộ hoặc phản đối gì đối với việc triển khai các
chính sách cải thiện điều kiện y tế vì động cơ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.


4

Chƣơng 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VÀ LÝ THUYẾT
2.1.

Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) và vốn nhân lực
Đóng vai trò là nguồn vốn bổ sung cho phát triển kinh tế, FDI đã trở thành

ngày càng quan trọng trong nguồn tài chính trên toàn thế giới (Bloom, Canning và
Sevilla, 2004). Trong 15 năm qua, dòng vốn FDI toàn cầu có tăng vọt từ 5.754,8 tỷ

USD vào năm 1998 đến 22.812,7 tỷ trong năm 2012 (UNCTAD, 2013). Thu hút
FDI là chiến lược của hầu hết các quốc gia ở tất cả các giai đoạn phát triển, đặc biệt
đối với các nền kinh tế thuộc nhóm thu nhập trung bình (Desbordes và Azémar,
2008). Cách lập luận hợp lý là các quốc gia đang phát triển có tỷ lệ tiết kiệm và mức
thu nhập thấp nên cần dựa vào ngoại lực (Alsan, Bloom và Canning, 2006). FDI
càng ngày càng mang tính đại diện cho nguồn vốn lớn nhất chảy vào các nước đang
phát triển, vượt qua hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư danh mục (portfolio
investment) và các khoản vay ngân hàng (Alsan, Bloom và Canning, 2006;
Miyamoto, 2003).
Bên cạnh thuộc tính cung cấp vốn rất cần thiết cho nhu cầu phát triển, đối với
các nền kinh tế thuộc nhóm thu nhập trung bình, FDI còn bao gồm theo nó là chức
năng giúp mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp và theo đó tạo điều kiện thuận
lợi cho việc chuyển giao công nghệ (Krugman, Obstfeld và Melitz, 2011; Alsan,
Bloom và Canning, 2006). FDI cũng có thể giúp tăng thuế doanh thu cho các nền
kinh tế nhận vốn và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp quốc nội thông qua
hiệu ứng lan tỏa (Alsan, Bloom và Canning, 2006; Loungani và Razin, 2001). Lợi
ích tiềm năng FDI đã được công bố rộng rãi, bao gồm cơ hội cho các nền kinh tế
nhận vốn được tham gia vào nhiều công đoạn sản xuất trong chuỗi cung ứng toàn
cầu (Antràs và Helpman, 2004).
Trên cách nhìn tổng quát, dòng vốn FDI hiện nay được phân bố không đều
(Desbordes và Azémar, 2008; Antràs và Helpman, 2004). Các nền kinh tế công
nghiệp hóa là điểm đến có khả năng nhất của FDI; và một số nước đang phát triển
nhận dòng vốn lớn nhiều hơn hẳn so với những nền kinh tế khác (Alsan, Bloom và


5

Canning, 2006). Dẫn chứng rõ rệt nhất là các nước Châu Phi hạ Sahara, nơi đặc biệt
đang phải vật lộn một cách khó khăn để thu hút dòng vốn từ các nhà đầu tư nước
ngoài (Desbordes và Azémar, 2008). Nhìn chung, có thể nói rằng các quốc gia đang

bất đồng về chính sách làm thế nào có thể thu hút FDI, họ cảm thấy cần phải hiểu rõ
những nhân tố có thể tác động đến dòng vốn, những gì là trong tầm tay để có thể cải
thiện hay thay đổi.
Theo giả định Tân Cổ Điển (theo đó xuất lượng của nền sản xuất có được từ
hai yếu tố nhập lượng là vốn và lao động), dòng vốn được dự đoán sẽ chảy từ
những nền kinh tế giàu có sang những quốc gia nghèo cho đến khi tỷ lệ vốn và lao
động cân bằng giữa các nước (Krugman, Obstfeld và Melitz, 2011). Nhưng các mô
hình quan sát FDI cách đây một thập kỷ lại nhận thấy hầu hết dòng vốn chảy từ một
quốc gia giàu này sang quốc gia giàu khác, ví dụ như FDI chảy từ Nhật sang Anh và
Mỹ. Lucas (1990) lập luận rằng chính sự khác biệt về vốn nhân lực (human capital)
có thể là nguyên nhân để giải thích cho điều đó. Theo ý tưởng này, bên cạnh vốn vật
chất và kỹ năng làm việc cấu thành nên yếu tố nhập lượng, thì sự hiện diện một lực
lượng lao động với thể trạng khỏe mạnh có thể làm tăng năng suất sử dụng vốn đầu
tư (Cohen và Soto, 2007; Alsan, Bloom và Canning, 2006).
Trên thực tế, FDI đang hướng đến các ngành công nghiệp có tri thức và kỹ
năng chuyên sâu. Có thể nói rằng các quốc gia nào có vốn nhân lực ở trình độ cao
sẽ là điểm đến hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư (Desbordes và Azémar, 2008;
Blomström và Kokko, 2003). Nghiên cứu của Noorbakhsh và Youseff (2001) đóng
góp xây dựng lý thuyết để giải thích vốn nhân lực là động lực quan trọng giúp một
nền kinh tế thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng hầu hết các điều
tra đa quốc gia dựa trên ý tưởng này lại đều xác định nguồn nhân lực chỉ hạn hẹp
với khía cạnh giáo dục. Tuy nhiên, vẫn có một số nghiên cứu hiếm hoi gần đây đã
thay đổi quan điểm và sức khỏe đã bắt đầu được xem là một thành phần không thể
tách rời của vốn nhân lực (Desbordes và Azémar, 2008; Alsan, Bloom và Canning,
2006; Dupasquier và Osakwe, 2006).


6

Theo tiến trình tự nhiên của việc tìm kiếm chủ đề nghiên cứu, bài viết này có

động cơ thông qua bằng chứng thực nghiệm để xác định xem tình trạng sức khỏe có
tác động khuyến khích các dòng vốn FDI hay không. Theo cách hiểu thông thường
thì khái niệm sức khỏe và bệnh truyền nhiễm có liên quan với nhau. Với những lý
thuyết chúng ta có được ngày hôm nay, sức khỏe có thể được xem như là một hình
thức phái sinh của nguồn vốn nhân lực, và hàm sản xuất Cobb-Douglas là nền tảng
cơ bản nhất để phân tích. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu này còn nhìn mối liên kết
giữa bệnh truyền nhiễm và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo giả định rằng đây là một
trường hợp hiện diện của ngoại tác và có thể giải thích thông qua lý thuyết đó.
2.2.

Tác động của sức khỏe lên phát triển và đầu tƣ
Sức khỏe có thể được xem như là nội dung quan trọng của vốn nhân lực, và nó

giúp tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế ở góc độ các cá nhân lẫn góc độ kinh tế
(Bloom, Canning và Sevilla, 2004). Có nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng sức
khỏe dân cư, hay nói cụ thể là y tế, trở thành yếu tố dự báo chính xác cho tăng
trưởng thu nhập bình quân đầu người (Desbordes và Azémar, 2008; Alsan, Bloom
và Canning, 2006; Bloom, Canning, và Sevilla, 2004; Barro và cộng sự, 1991). Tuy
nhiên, đang có sự khác biệt giữa các quốc gia trong mức độ hưởng lợi ích từ việc
cải thiện sức khỏe dân cư, và sự tăng trưởng kinh tế nhờ vào điều này được thể hiện
rõ nét ở các nền kinh tế đang phát triển hơn so với các quốc gia thuộc nhóm thu
nhập cao (Alsan, Bloom và Canning, 2006).
Y tế có thể ảnh hưởng đến hiệu suất kinh tế thông qua các cơ chế tác động cả
trực tiếp và gián tiếp (Alsan, Bloom và Canning, 2006). Một quốc gia có được nền
y tế tốt có thể sẽ gián tiếp cải thiện tuổi thọ tương lai của người lao động. Một khi
xã hội có tuổi thọ bình quân tăng lên, như trường hợp ở Nhật và Ý chẳng hạn, có
thể dẫn đến nhu cầu cần thiết phải tích lũy tiền tiết kiệm để dành cho thời gian hưu
trí, từ đó dẫn đến xã hội có thêm nguồn vốn tạo nên sự bùng nổ đầu tư (Bloom,
Canning và Graham, 2003). Về mặt tác động trực tiếp, cách lập luận hợp lý là nếu
người lao động trong trạng thái mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh thần sẽ có năng suất



7

làm việc chắc chắn vượt trội hơn so với những công nhân đang mắc bệnh tật hoặc
mang khuyết tật (Savedoff và Schultz, 2000). Hơn nữa, một nền kinh tế kiểm soát
dịch bệnh tốt thì hoạt động sản xuất sẽ không bị trở ngại do công nhân có khả năng
phải nghỉ việc, hoặc giảm năng suất thấp làm việc khi chính họ hoặc thân nhân của
họ bị bệnh. Ngược lại, sức khỏe yếu kém có thể dẫn đến thu nhập bình quân đầu
người thấp, nền kinh tế sẽ vướng vào bẫy nghèo (Alsan, Bloom và Canning, 2006).
Phát hiện từ nghiên cứu của Alsan, Bloom và Canning (2006) cho thấy việc
tăng thêm một năm tuổi thọ bình quân cho người dân sẽ giúp một quốc gia thuộc
nhóm thu nhập trung bình và thấp nhận tăng thêm 9% nguồn vốn FDI. Các tác giả
phân tích dữ liệu của 74 quốc gia công nghiệp và đang phát triển trong giai đoạn
1980-2000. Phát hiện này là bằng chứng phù hợp với quan điểm đặt yếu tố y tế sức
khỏe là một phần không thể thiếu của vốn nhân lực.
Tác động của y tế, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, đều có thể ảnh hưởng đến dòng
vốn đầu tư nước ngoài thông qua một số cơ chế. Theo cách nhìn trên hiệu quả sử
dụng vốn của nhà đầu tư, người lao động có thể trạng tốt và sức khỏe lành mạnh có
thể nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều hơn xuất lượng trên cùng một nhập
lượng và đó là động lực thu hút dòng vốn FDI (Desbordes và Azémar, 2008; Gallup
và Sachs, 2001). Mặt khác, theo cách nhìn trên giá cả của nhập lượng, mà lao động
là một nhập lượng quan trọng, doanh nghiệp FDI sẽ cảm thấy lợi nhuận có thể bị
ảnh hưởng nếu các chi phí liên quan đến sức khỏe tăng cao. Các công ty đa quốc gia
hoạt động tại một nơi mà cơ sở hạ tầng y tế thiếu thốn có thể cần phải phát triển
hoặc trợ cấp đáng kể cho một hệ thống chăm sóc sức khỏe cho nhân viên của họ,
đưa đến tạo nên gánh nặng chi phí cho dòng vốn đầu tư (Alsan, Bloom và Canning,
2006; Gallup và Sachs, 2001). Ngoài ra, vì sợ gây nguy hiểm sức khỏe cho chính
mình và cho những nhân viên người nước ngoài của mình, nhà đầu tư có thể tránh
xa những quốc gia mà bệnh dịch tràn lan và người dân gặp hạn chế trong việc truy

cập vào hệ chăm sóc sức khỏe công cộng (Desbordes và Azémar, 2008; Alsan,
Bloom và Canning, 2006).


8

Một ví dụ cổ điển cho thấy bệnh dịch can thiệp vào các quyết định đầu tư, điều
đã xảy ra trong quá trình xây dựng kênh đào Panama vào thế kỷ XIX. Khi đó, bệnh
sốt vàng da (yellow fever) và các tác nhân gây bệnh đã cướp đi sinh mạng của
10.000-20.000 người lao động trong thời gian 1882-1888, buộc Ferdinand de
Lesseps1 và người Pháp phải từ bỏ dự án xây dựng (Alsan, Bloom và Canning,
2006). Cách đây hơn một thập niên, hội chứng suy hô hấp cấp tính (SARS) làm 774
người tử vong (WHO, 2004), đã làm dấy lên mối lo ngại rằng nếu bùng phát thêm
một đợt dịch bệnh truyền nhiễm nữa có thể làm suy yếu hội nhập kinh tế toàn cầu.
Các nghiên cứu thực nghiệm nhận thấy ảnh hưởng của bệnh truyền nhiễm đối
với nền kinh tế được còn biểu hiện một cách dài hạn và ở tầm mức sâu xa hơn các
tính toán lợi ích đơn thuần của một dòng vốn đầu tư trong một thời kỳ cụ thể. Đối
với một nền kinh tế, đại dịch AIDS đã gây ảnh hưởng lên việc tích lũy nguồn vốn
nhân lực và làm giảm tăng trưởng của cải xã hội do nó dẫn đến việc tạo ra rất nhiều
trẻ em mồ côi (Corrigan, Glomm và Mendez, 2005). Điều này được giải thích rằng,
khi người lớn phải đối mặt với tử vong sớm vì AIDS thì hình thành số lượng lớn
của một thế hệ trẻ có nguy cơ bị mồ côi, dẫn đến thời gian đầu tư vào việc học hành
sẽ bị giảm đi, và điều đó làm giảm tiềm năng cho tăng trưởng kinh tế trong tương
lai (Ferreira và Pessóa, 2003). Bởi vì thông thường sau cái chết của cha mẹ, trẻ em
mồ côi phải từ bỏ việc học để dùng thời gian đi làm nhằm bổ sung cho thu nhập của
gia đình. Hơn nữa, trong thời gian cha mẹ của chúng đã nhiễm HIV nhưng vẫn còn
sống, thì yêu cầu cần chi tiêu thêm cả về thời gian lẫn tài chính cho hoạt động chăm
sóc bệnh nhân AIDS chắc hẳn sẽ dẫn đến gia đình còn lại ít nguồn lực sẵn có để đầu
tư cho học hành và cho các khoản tiết kiệm hay tiêu dùng khác (Corrigan, Glomm
và Mendez, 2005).


1

Ferdinand-marie, tử tƣớc de Lesseps (1805–1894): Nhà ngoại giao và tổng công trình sư người Pháp

từng xây tuyến kênh đào Suez ở Ai Cập. Sau công trình này, ông nỗ lực bất thành trong việc thực hiện dự án
xây dựng kênh đào Panama nối liền Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Theo Encyclopædia Britannica.


9

Corrigan, Glomm và Mendez (2005) phân tích thấy rằng AIDS làm gia tăng
chi phí y tế bao gồm việc điều trị bệnh nhân nhiễm HIV, và điều này có thể làm
chuyển hướng nguồn lực công, thay vì dành để đầu tư và chi tiêu cho giáo dục và
phát triển cơ sở hạ tầng. Các doanh nghiệp trong một nền kinh tế như vậy có thể sẽ
phải miễn cưỡng tuyển dụng công nhân có điều kiện sức khỏe ngày càng suy sụp để
làm việc, và có một xác suất cao là họ phải đối mặt với việc sẽ phải đầu tư đào tạo
nhân sự mới nếu như công nhân mà họ đang thuê bị chết vì AIDS. Ở góc độ thị
trường, bệnh tật làm tăng thêm chi phí sức khỏe và tất nhiên nó ăn mòn vào khả
năng chi trả cho các hàng hóa khác. Nói chung, đại dịch AIDS có thể ảnh hưởng bất
lợi đến tỷ lệ hoàn vốn đầu tư lẫn khả năng tích lũy vốn.
Tương tự như AIDS, giữa bệnh sốt rét và nghèo cũng có sự liên quan mật
thiết. T. H. Weller2 đã từng kết luận: “… được công nhận từ lâu, cộng đồng nào
mang dịch sốt rét thì cộng đồng đó nghèo khó …” (Gallup và Sachs, 2001), nghĩa là
sốt rét lan rộng ở đâu thì sau đó nơi này sẽ rơi vào nghèo đói. Theo đó, mật độ ca
bệnh sốt rét cao ở các nước nghèo không nói lên rằng sốt rét là hậu quả của cái
nghèo, nó chỉ là nguyên nhân. Sốt rét là bệnh truyền nhiễm mang tính chất rất cụ
thể về mặt địa lý, vì chính điều kiện sinh thái hỗ trợ cho các giống muỗi mang mầm
sốt rét đã dẫn đến sự phân bố địa bàn và tạo nên mật độ của bệnh (Gallup và Sachs,
2001). Kết quả khảo sát của Gallup và Sachs năm 2001 cho thấy phạm vi phổ biến

bệnh sốt rét được giới hạn trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Điều này
nói lên rằng bệnh sốt rét không phải là một hệ quả trực tiếp của đói nghèo, mà phạm
vi và mức độ nghiêm trọng của nó được quyết định chủ yếu bởi điều kiện khí hậu
và sinh thái. Một số quốc gia có thu nhập rất cao vẫn còn phải đối mặt với vấn đề
bệnh sốt rét nghiêm trọng do vị trí địa lý của họ, ví dụ như Oman, với thu nhập bình

2

Thomas Huckle Weller (1915–2008): Bác sĩ và nhà vi trùng học người Mỹ, đồng đoạt giải Nobel về Y-

Sinh năm 1954 do công trình cấy thành công virus bại liệt trong mô ghép, tiền đề cho việc nghiên cứu virus
trong ống nghiệm. Ông có nhiều nghiên cứu về phòng chống bệnh truyền nhiễm. Theo Encyclopædia
Britannica.


10

quân đầu người gần 10.000 USD vào thập niên 90 của thế kỷ trước, đã có bệnh sốt
rét lan tràn toàn quốc, ngoại trừ vùng sâu vùng xa trong sa mạc.
Gallup và Sachs (2001) phân tích hồi quy với dữ liệu đa quốc gia cho giai
đoạn 1965-1990 và xác nhận có mối quan hệ giữa bệnh sốt rét và tăng trưởng kinh
tế. Tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người của các quốc gia có bệnh sốt rét nặng
trong giai đoạn này là 0,4% mỗi năm, trong khi tốc độ tăng trưởng trung bình của
các quốc gia khác được 2,3%, nghĩa là cao hơn gấp năm lần. Hơn một phần ba
trong số những quốc gia có bệnh sốt rét nặng đã tăng trưởng âm trong thời kỳ này.
Mặt khác, nếu một quốc gia giảm đi được 10% số người bệnh sốt rét thì nền kinh tế
theo đó sẽ tăng trưởng thêm 0,3% nữa. Cũng trong nghiên cứu này, kết quả cho hệ
số còn lớn lớn hơn nữa trong giai đoạn 1980-1996, nhưng với đo lường sốt rét theo
cách khác.
Cơ chế giải thích sốt rét là nguyên nhân dẫn đến sự đói nghèo là bởi vì bệnh

truyền nhiễm này gây tác động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và mạng lưới kinh tế
trong nước (Gallup và Sachs, 2001). Phân tích mang tính loại suy cho thấy, một số
ít các quốc gia trước từng có sốt rét và sau đó loại bỏ căn bệnh này, như Tây Ban
Nha và Hy Lạp vào đầu thập niên 50 của thế kỷ vừa qua, đã trải qua giai đoạn kinh
tế tăng trưởng nhanh chóng ngay sau đó, nhanh hơn so với các nước láng giềng.
Bằng chứng tương tự như thế, từ khu vực nghèo nhất nước với dịch sốt rét, nền kinh
tế của các bang ở miền Nam Hoa Kỳ sau khi kiểm soát bệnh dịch cuối thập niên 40
đã tăng trưởng ấn tượng và bắt kịp phần còn lại của đất nước (Gallup và Sachs,
2001; Barro và cộng sự, 1991).
Một điều đáng nói là sự phân bổ cái nghèo cũng mang tính cụ thể về mặt địa
lý, theo đó các nước nghèo vẫn chiếm ưu thế về số lượng thống kê trong khu vực
tương tự như khu vực phân bổ của bệnh sốt rét, trong khi hầu như tất cả các quốc
gia giàu đều tọa lạc bên ngoài giới hạn địa lý của nguy cơ sốt rét (so sánh trực quan
qua đồng thời phụ lục 5 và phụ lục 6).


11

Bệnh sốt rét làm giảm chất lượng lao động trong ngắn hạn, nhưng khác với
AIDS, nó có vẻ hoàn toàn không để lại những hậu quả dài hạn cho sức khỏe. Nhưng
dù vậy, đứng ở góc độ doanh nghiệp, nhà đầu tư vẫn sẽ phải chi trả nhiều hơn cho
các công nhân đang nhiễm bệnh sốt rét để có thể sớm phục hồi nguồn lực lao động.
Một nền kinh tế có nhiều trường hợp sốt rét chứng tỏ chính sách y tế chưa hiệu quả
trong việc ngăn chặn bệnh dịch lây lan, và cũng là một dấu hiệu của khả năng kiểm
soát y tế. Ở những nơi này, nhà đầu tư nước ngoài buộc phải tăng chi phí bảo hiểm
y tế để bù đắp lại khiếm khuyết từ quản lý y tế của chính quyền sở tại.
Căn bệnh truyền nhiễm thứ ba trong sự quan tâm của Tổ Chức Y Tế Thế Giới,
bệnh lao (TB), vẫn là một trong những bệnh nguy hiểm nhất trên thế giới, có ảnh
hưởng đến mọi người ở mọi lứa tuổi trên toàn cầu. Theo Grimard và Harling
(2004), bệnh lao là một loại bệnh xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại đa số các

trường hợp được phát hiện lại ở các nước nghèo. Nếu như bệnh sốt rét không có
nguyên nhân từ đói nghèo mà lại phụ thuộc vào vị trí địa lý nơi các loài muỗi truyền
bệnh dễ dàng phát triển (Corrigan, Glomm và Mendez, 2003), bệnh lao xuất phát từ
sự quản trị tổng thể xã hội yếu kém, là một dấu hiệu của trình độ phát triển nói
chung (Grimard và Harling, 2004), dẫn đến điều kiện vệ sinh yếu kém của cơ sở hạ
tầng vật chất. Lập luận của Grimard và Harling (2004) về mối tương quan giữa lao
và tăng trưởng kinh tế rằng, có lý do để hy vọng sự gia tăng thu nhập bình quân có
thể làm giảm số người mắc bệnh lao ngoài hành động điều trị trực tiếp căn bệnh
này. Ở chiều tác động ngược lại, kết quả hồi quy của hai tác giả năm 2004 trên quan
sát ở 91 quốc gia phát hiện rằng nếu giảm đi 10% tỷ lệ trung bình của bệnh lao sẽ
mang lại tăng trưởng kinh tế 0,4% mỗi năm.
Đồng thời, lao là căn bệnh có nguy cơ hàng đầu tấn công những bệnh nhân
AIDS (Grimard và Harling, 2004), nghĩa là bệnh lao làm tăng thêm tính tác động
của AIDS đến kinh tế xã hội. Theo uớc tính của Corbett và cộng sự (2002), có 9%
các trường hợp nhiễm lao phổi ở người trưởng thành và 13% tử vong vì bệnh lao là
do đồng nhiễm với HIV.


12

Nhìn chung, một số bệnh truyền nhiễm có thể ảnh hưởng đáng kể đến năng
suất làm việc và thời gian cống hiến cho công việc của người lao động, trong khi
việc cải thiện hạ tầng y tế để ngăn chặn bệnh dịch sẽ đem lại kết quả tích cực cho
chất lượng nguồn nhân lực. Rõ ràng từ đó, triển vọng tăng trưởng kinh tế và năng
suất lao động sẽ làm cho một đất nước hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài
(Borensztein, Gregorio, và Lee, 1998).
Hiện vẫn chưa tìm thấy nghiên cứu nào phân tích tác động trực tiếp của bệnh
dịch tả đến dòng FDI hay đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhìn vào các
báo cáo của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (2013, 2012, 2011) đều thấy dịch tả là bệnh
truyền nhiễm phổ biến thứ ba sau bệnh sốt rét và bệnh lao ở các nền kinh tế đang

phát triển. Dịch tả một khi xảy ra cũng làm giảm năng suất của người lao động do
vấn đề vệ sinh cá nhân bất lợi trong khi họ cần phải dành thời gian liên tục để làm
việc. Tương tự như bệnh lao, mật độ bệnh dịch tả cao cũng liên quan mật thiết với
nghèo đói và vệ sinh công cộng yếu kém.
2.3.

Tham khảo mô hình kinh tế học của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Alsan, Bloom và Canning (2006) lập luận với một mô hình FDI định hướng

xuất khẩu, theo đó giả định các yếu tố nhập lượng được lựa chọn ở dạng tối ưu. Giả
sử lợi nhuận theo quy mô là bất biến và thị trường là cạnh tranh, đồng thời chi phí
vận chuyển hàng hóa giữa các thị trường là không đáng kể, thì lợi nhuận thu được
của một đơn vị FDI được thể hiện theo hàm lợi nhuận sau:
π = f (py0, pk, px, z, ω)
Trong đó, Py0 là giá thế giới của xuất lượng, Pk là chi phí vốn tại địa phương,
px là giá địa phương của nhập lượng (với nhiều yếu tố nhập lượng cho sản xuất), z
đại diện cho các yếu tố mang tính chính sách của các quốc gia nhận vốn có khả
năng cản trở hay thu hút đầu tư, và ω đại diện cho các yếu tố có ảnh hưởng khác
của đơn vị quan sát như tổng FDI ròng toàn cầu của năm hiện tại, xu hướng FDI
ròng của năm qua, cấp độ của xung đột vũ trang, hoặc cấp độ của quyền sở hữu tài


13

sản. Bốn thành phần ban đầu của phương trình thể hiện sự cân bằng giữa thu nhập
và chi phí nói chung, trong khi thành phần thứ năm, ω, bao gồm những yếu tố đại
diện cho tính chất rủi ro của dòng vốn đầu tư.
Theo mô hình này, một cách hợp lý thì dòng FDI sẽ chảy vào địa phương nào
có khả năng mang lại tỷ suất lợi nhuận tối đa với nguy cơ rủi ro tối thiểu. Có thể giả
định rằng, chi phí đầu tư tăng sẽ lên tỷ lệ thuận với sự gia tăng của lượng vốn FDI

(ký hiệu của FDI là I) tùy thuộc vào khả năng hấp thụ của quốc gia nhận vốn S. Khi
đó, hàm chi phí đầu tư bình phương hiệu chỉnh của địa phương theo biến FDI có
công thức như sau:
C(I) = pk

0

(

ζI2
I+
2S

)

Trong đó, pk0 ngụ ý rằng chi phí vốn tại địa phương, với ký hiệu 0 giả định về
tính đồng nhất giữa các quốc gia; ζ thể hiện hệ số của FDI biên; trong khi S tượng
trưng cho khả năng hấp thụ vốn đầu tư, với giả định có hệ số là 2.
Các tác giả đưa ra giả định rằng sự gia tăng FDI sẽ dẫn đến một số nguồn lực
ngày càng trở nên khan hiếm và điều đó sẽ làm tăng chi phí đầu tư (ζ có giá trị >0).
Cần nhấn mạnh rằng trong mô hình kinh tế này, FDI được tính là dòng FDI gộp
(gross FDI inflows), và nó thường sẽ không cân bằng với dòng FDI ròng (net FDI
inflows) của quốc gia nhận vốn, (ngoại trừ vào thời điểm quan sát, quốc gia đó hoàn
toàn không có bất kỳ FDI outflows nào).
Chi phí cực tiểu của vốn (ở địa phương) mà một công ty chuyển vốn FDI phải
đối mặt sẽ phụ thuộc vào tổng lượng FDI. Đó chính là đạo hàm theo I và có dạng
phương trình cụ thể như sau:

(


Pk = C’(I) = pk0 1 +

ζI
S

)

Trong nghiên cứu của tác giả, các lập luận về mô hình kinh tế học chủ yếu là
diễn dịch dựa trên mô hình này là chủ đạo.


14

2.4.

Mô phỏng về lý thuyết ngoại tác
Ngoại tác là một hình thức phổ biến xảy ra trong xã hội loài người (Cornes và

Sandler, 1996). Ngoại tác của vốn nhân lực nói chung và sức khỏe nói riêng có thể
giúp giải thích một phần sự khác biệt giữa các quốc gia trong phát triển kinh tế
(Ciccone và Peri, 2006; Azariadis và Drazen, 1990). Khái niệm ngoại tác và mức độ
mà ngoại tác gây ra có nguyên nhân từ hành vi không tối ưu của thị trường hàng
hóa (Arrow, 1969), theo đó còn có những lĩnh vực ngoài thị trường chịu sự tác động
từ hành vi mua bán của các đối tượng tham gia thị trường. Giả định của nghiên cứu
cho rằng việc giảm thiểu số ca bệnh truyền nhiễm và hạ thấp tử suất bệnh là hoạt
động mang ý nghĩa cung cấp sức khỏe tốt hơn cho một nền kinh tế, và một nền kinh
tế bất kỳ ở thời điểm quan sát nhận được nhiều dòng vốn đầu tư nước ngoài hơn là
một điều lợi ích. Tác giả không đo lường và không xem xét tác động xã hội của
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra điều tốt hay xấu cho địa phương nhận
vốn. Bình luận về tính chất hai mặt của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không

nằm trong mục đích nghiên cứu của tác giả.
Lập luận dựa trên tham khảo định lý Coase (Coase, 1960), nghiên cứu trình
bày biến thể đồ thị minh họa cho giả thuyết về sự hiện diện ngoại tác, điều xảy ra từ
hoạt động kiểm soát và giảm thiểu bệnh truyền nhiễm, và nó gây ảnh hưởng trên sự
dịch chuyển của dòng vốn đầu tư nước ngoài, với giả định rằng các tác nghiệp y tế
này có cơ chế vận hành mang đặc tính của thị trường cạnh tranh, không có chi phí
ngoại tác, và do đó chi phí xã hội bằng chi phí riêng của hai bên cung và cầu.
Trong Hình 2.1, trục hoành biểu thị mức độ kiểm soát bệnh truyền nhiễm, với
giả định là đơn vị tính được đo bằng chất lượng sức khỏe, theo đó ngụ ý càng đi về
phía bên phải của trục hoành thì môi trường sức khỏe y tế sẽ càng tốt hơn, đồng
nghĩa số ca bệnh hoặc tử suất bệnh truyền nhiễm được giảm thiểu hơn. Đường cung
S của thị trường này biểu thị chi phí của nhóm các đối tượng được trị bệnh (giả định
rằng gọi chung họ là bệnh nhân); đó là một đường dốc lên nhẹ bởi vì nhìn chung
hoạt động ngăn chặn bệnh dịch mang nặng yếu tố nhân đạo. Đường cầu D biểu thị


15

lợi ích riêng biên của việc kiểm soát bệnh truyền nhiễm đối với bệnh nhân; đó là
đường rất dốc ngụ ý nhu cầu cực kỳ cấp thiết đối với việc cứu chữa. Cung và cầu
của thị trường này sẽ gặp nhau tại lượng là Qd. Nhưng hoạt động kiểm soát bệnh
truyền nhiễm này lại tạo ra lợi ích cho các bên thứ ba, biểu thị bằng đường lợi ích
ngoại tác biên MEB. Do việc kiểm soát bệnh truyền nhiễm tạo ra giá trị lan tỏa rất
lớn trên mọi hoạt động kinh tế xã hội, lớn hơn nhiều so với lợi ích riêng của bệnh
nhân, nên đường MEB nằm bên phải của đường D. Cũng từ lập luận đó, đặc thù của
thị trường kiểm soát bệnh truyền nhiễm làm cho đường MEB sẽ ít dốc hơn đường
D, hàm ý rằng môi trường sức khỏe y tế càng được cung cấp nhiều hơn thì lợi ích
biên cho bên thứ ba càng lớn.
Hình 2.1. Ngoại tác tích cực của thị trường kiềm chế bệnh truyền nhiễm


Chú thích: Biểu đồ hiển thị ngoại tác tích cực của thị trường kiểm soát bệnh truyền nhiễm.
Đường cầu riêng D gần như dựng đứng phản ảnh tính ít co giản theo giá của thị trường


16

đặc thù này. Lợi ích xã hội biên MSB cao hơn cầu riêng D. Chênh lệch đó là lợi ích ngoại
tác biên MEB. Đường MSB được hiển thị lài hơn đường D, phản ảnh các lĩnh vực chịu tác
động ngoại tác, ví dụ như FDI, có tính co giãn nhiều hơn.

Đường lợi ích xã hội biên MSB được tính bằng cách cộng lợi ích riêng biên và
lợi ích ngoại tác biên tại mỗi mức sản lượng, nói chung là MSB = D + MEB. Nếu
chỉ tính trên lợi ích riêng biên của thị trường kiểm soát bệnh truyền nhiễm, cung và
cầu sẽ cân bằng tại mức giá Pd và lượng Qd, thay vì phải cân bằng hiệu quả tại mức
giá PE và lượng QE. Trên ý tưởng rằng các lợi ích xã hội biên phải bằng chi phí xã
hội biên, lượng cung cần được tăng thêm miễn là lợi ích xã hội biên vẫn vượt quá
chi phí xã hội biên. Do lợi ích xã hội biên là lớn hơn lợi ích riêng biên, kết quả là,
trong một thị trường cạnh tranh, điểm cân bằng sẽ không hiệu quả ở lượng Qd, khi
mà tại đó chi phí xã hội thực sự sẽ ở mức quá cao là Qd2. Điều này có thể được xem
là cung và cầu riêng của thị trường đang không tính đến sự hiện diện của ngoại tác
tích cực (positive externality) của hành vi kiểm soát bệnh truyền nhiễm. Giả sử rằng
ngoại tác này được tính vào thị trường thì điểm cân bằng hiệu quả sẽ tại lượng Q E,
khi đó lợi ích xã hội lớn hơn chi phí xã hội. Vì vậy, toàn thể xã hội sẽ nhận được
nhiều lợi ích hơn nếu cung thêm nhiều sản phẩm dẫn tới tăng khả năng kiềm hãm
bệnh truyền nhiễm hơn. Trường hợp này được gọi là ngoại tác tiêu dùng tích cực
(positive consumption externality).
Nghiên cứu của tác giả nếu xét ở góc nhìn sự hiện diện ngoại tác sẽ chủ yếu
được lập luận trên quan điểm nói trên. Theo đó, sự phân tích về nhận diện ngoại tác
sẽ được trình bày ở chương tiếp theo.
Tóm tắt

Tổng quan các nghiên cứu gần đây cho thấy đang có xu hướng gia tăng sự
dịch chuyển dòng vốn đầu tư trên phạm vi toàn cầu, và sức khỏe y tế được xem là
một thành phần của vốn nhân lực. Một số nghiên cứu thực nghiệm xác định rằng
quy mô bệnh truyền nhiễm có quan hệ tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh tế. Sự
tương quan giữa bệnh truyền nhiễm và đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được giải


×