1
2
LỜI MỞ ĐẦU
1.Sự cần thiết của nghiên cứu.
Thị trường Lào là một trong những thị trường đầu tư trọng điểm của các
doanh nghiệp Việt Nam. Tính đến 31.12.2014, Việt Nam đã đầu tư 218 dự án
vào Lào (chỉ tính các dự án còn hiệu lực), với tổng vốn đầu tư đăng ký lên tới
gần 3,93 tỷ USD, giải ngân ước đạt gần1,5tỷ USD. Tuy nhiên, thực tế hoạt
động đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Lào thời
gian qua cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Hàng loạt vấn đề về thiếu thông tin,
thiếu nguồn nhân lực, chưa có sự hiểu biết đầy đủ về luật pháp, phong tục nước
bạn Lào, chưa nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ phía Chính phủ và các Bộ, ngành liên
quan... đã được đặt ra. Thực tế này đã khiến không ít doanh nghiệp Việt Nam gặp khó
khăn khi “đem chuông đi đánh xứ người”, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, bỏ lỡ
nhiều cơ hội đầu tư có hiệu quả. Hơn thế nữa, nhiều dự án OFDI của Việt Nam vào
Lào, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp khai khoáng và công nghiệp chế biến còn
phải dừng hoạt động trước thời hạn. Tính riêng trong hai năm 2013-2014, đã có 38 dự
án phải dừng hoạt động, trong đó có tới 30 dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp. Đây là
vấn đề mới đòi hỏi sự quan tâm nghiên cứu của các cơ quan hữu quan và các nhà
nghiên cứu.Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả dòng vốn đầu tư của Việt Nam vào
thị trường Lào, rất cần có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan Bộ, ngành, sự hợp
tác chặt chẽ từ phía hai Chính phủ cũng như sự chủ động, tích cực tìm kiếm và
nắm bắt cơ hội đầu tư từ phía các doanh nghiệp Việt Nam. Để đạt được điều này,
cần có nhiều giải pháp cả ở tầm vĩ mô và từ phía các doanh nghiệp. Từ thực tế ấy,
nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt
- Những nhân tố nào ảnh hưởng tới dòng vốn đầu tư trực tiếp của các doanh
nghiệp Việt Nam vào thị trường Lào?
- Ảnh hưởng của từng nhân tố đó tới dòng vốn đầu tư trực tiếp của các
doanh nghiệp Việt Nam vào Lào như thế nào (nghiên cứu định lượng)? Trong
khuôn khổ luận án, sẽ tập trung đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô tới dòng
vốn OFDI của Việt Nam vào Lào.
- Các doanh nghiệp Việt Nam nên tập trung đầu tư vào lĩnh vực nào, địa bàn
nào tại thị trường Lào?
Nam vào Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào trong điều kiện hội nhập quốc
tế” làm lĩnh vực nghiên cứu.
2.Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận về OFDI, phân tích thực trạng hoạt
động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Lào, luận án sẽ chỉ ra
những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong dòng vốn OFDI hiện nay. Trên
cơ sở đó, luận án đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường dòng vốn
OFDI của Việt Nam vào Lào trong thời gian tới. Mục tiêu nghiên cứu được cụ thể
hóa bằng các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Các doanh nghiệp Việt Nam có nên tăng cường đầu tư vào Lào hay không?
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các dự án đầu tư trực tiếp của các
doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường Lào. Bên cạnh đó, để đánh giá rõ hơn thực
trạng của các dự án cũng như cơ hội đầu tư vào Lào trong thời gian tới, luận án sẽ
nghiên cứu về môi trường đầu tư tại Lào, các đối thủ cạnh tranh chính (Thái Lan
và Trung Quốc), các chính sách có liên quan tới hoạt động OFDI của Việt Nam và
Lào, các văn bản đã ký kết giữa các doanh nghiệp cũng như chính phủ hai nước.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là các dự án trong giai đoạn 1994–
2013. Về mặt không gian, phạm vi nghiên cứu là các dự án của doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư trực tiếp tại thị trường Lào.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản là thống kê mô tả, so
sánh và phỏng vấn chuyên gia. Về nghiên cứu định lượng, luận án sử dụng mô
hình Con đường phát triển của đầu tư (IDP) kết hợp với các kỹ thuật phân tích định
lượng như sử dụng SPSS, Eviews… để đánh giá ảnh hưởng của một số nhân tố vĩ
mô tới dòng vốn OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Lào.
6. Đóng góp mới của luận án.
Thứ nhất, luận án đã ứng dụng mô hình Con đường phát triển của đầu tư
(IDP: Investment Development Path) để đánh giá các nhân tố vĩ mô (GDP bình
quân đầu người, chi ngân sách cho khoa học công nghệ, lượng vốn FDI đầu tư vào
Việt Nam) ảnh hưởng tới dòng vốn OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị
trường Lào. Sau khi chạy các mô hình hồi quy, luận án đã chỉ ra với 1 triệu USD
FDI vào Việt Nam sẽ góp phần làm tăng 0,0115 triệu USD dòng vốn OFDI từ Việt
Nam vào Lào (tác động tràn của FDI). Đồng thời, khi tăng 1% chi ngân sách cho
KHCN sẽ góp phần làm tăng 3,32 triệu USD lượng vốn OFDI của Việt Nam vào
3
4
Lào. Trong khi đó, tác động của tăng trưởng GDP bình quân đầu người lên lượng
vốn OFDI vào Lào là không rõ ràng (biến PGDP trong mô hình không có ý nghĩa
thống kê).
Thứ hai, luận án đã cập nhật được những xu hướng và thay đổi gần đây
trong dòng vốn OFDI của Việt Nam vào Lào. Dòng vốn OFDI vào Lào đã có dấu
hiệu chững lại trong khoảng hai năm gần đây, đặc biệt là số lượng dự án bị rút giấy
phép, tạm ngừng hoạt động gia tăng đột biến trong khi lượng dự án cấp phép mới
lại suy giảm mạnh. Luận án cũng đã chỉ ra xu hướng tăng lên của dòng vốn đầu tư
đến từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và sự suy giảm lượng vốn đầu tư từ khu
vực kinh tế nhà nước trong lượng vốn OFDI vào Lào.
Thứ ba, khác với các nghiên cứu trước đây, luận án đã chỉ ra được đặc
điểm của các dự án OFDI của Việt Nam vào Lào chủ yếu là FDI theo chiều dọc
và hướng về xuất khẩu. Trong khi đó, chính phủ Lào hiện đang có những động
thái nhằm tăng cường thu hút FDI theo chiều ngang, với mục tiêu tăng hàm lượng
khoa học công nghệ của sản phẩm và hướng tới phát triển bền vững. Trên cơ sở
phân tích đặc điểm và xu hướng của các dự án OFDI, kết hợp với phân tích cập
nhật tình hình thị trường Lào, luận án đã chỉ ra được những lĩnh vực, địa bàn các
doanh nghiệp Việt Nam nên tập trung đầu tư vốn. Cụ thể, các lĩnh vực nên ưu
tiên đầu tư trong giai đoạn 2015-2020 là du lịch, đặc biệt là các sản phẩm du lịch
theo chuỗi Việt Nam- Lào hay Việt Nam- Lào- Campuchia, Việt Nam-Lào-Thái
Lan, phát triểnnông nghiệp công nghệ cao đặc biệt là trồng mía, ngô, chăn nuôi
bò công nghệ cao... Bên cạnh đó, cần đặc biệt chú ý triển khai nghiêm túc các dự
án đã được cấp phép trong lĩnh vực trồng cao su, khai khoáng.
tư, chúng ta gọi đó là hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài, còn đứng ở góc độ
quốc gia đi đầu tư, chúng ta gọi đó là hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Trong phạm vi luận án này, chỉ đề cập đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mà
cụ thể là hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt nam
vào thị trường Lào.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1 Tổng quan về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
1.1.1 Khái niệm
Đầu tư trực tiếp (FDI: Foreign Direct Investment) là một hình thức di
chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người quản lý và
điều hành hoạt động sử dụng vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư
dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở
sản xuất kinh doanh tại quốc gia nhận đầu tư. Đứng ở góc độ quốc gia nhận vốn đầu
1.1.2 Các hình thức của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, hoạt động OFDI ngày càng
sôi động và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nhiều tiêu chí để phân chia
các hình thức OFDI. Cụ thể như sau:
Theo tiêu chí “cách thức xâm nhập”, OFDI được chia thành hai hình thức:
- Đầu tư mới (GI: greenfield investment):
-Sáp nhập và mua lại (M&A: merger & acquisition):
Theo tiêu chí “quan hệ về ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối
tượng tiếp nhận đầu tư”OFDI được chia thành hai hình thức:
- OFDI theo chiều dọc (vertical FDI):
- OFDI theo chiều ngang (horizontal FDI).
Theo tiêu chí “định hướng của nước nhận đầu tư”, OFDI được chia thành
ba hình thức:
-OFDI thay thế nhập khẩu:
- OFDI tăng cường xuất khẩu:
-OFDI theo các định hướng khác của Chính phủ:
Theo tiêu chí “hình thức pháp lý”, có các hình thức OFDI phổ biến là:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- Doanh nghiệp liên doanh
- Hợp đồng, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
- Các hình thức khác: BOT (Xây dựng- kinh doanh- chuyển giao), BT, BTO...
1.1.3 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Một là, chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn đủ lớn vào vốn pháp
định, tùy theo quy định trong Luật Đầu tư của từng quốc gia.
Hai là, quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn.
Ba là, lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn
Bốn là, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế dài hạn,
không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn với chuyển giao công nghệ,
5
6
chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị trường mới cho cả phía
đầu tư và phía nhận đầu tư.
Năm là, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mặc dù cũng chịu sự chi phối của
chính phủ nhưng nó ít bị lệ thuộc hơn vào quan hệ chính trị giữa các bên so với
hình thức đầu tư quốc tế gián tiếp.
1.1.5 Các tiêu chí đánh giá tăng cường đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Để đánh giá tăng cường đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một quốc gia, có
thể xem xét trên hai giác độ là tăng cường về mặt quy mô và tăng cường về mặt
hiệu quả của các dự án (được đánh giá qua các chỉ tiêu cơ bản là: tốc độ tăng
doanh thu, lợi nhuận, số vốn tái đầu tư, số thuế nộp ngân sách…). Trong khuôn
khổ của luận án, chỉ xem xét việc tăng cường OFDI về mặt quy mô, được đánh giá
qua các tiêu chí cụ thể sau:
Thứ nhất, tính đa dạng của hình thức đầu tư.
Thứ hai, số lượng dự án OFDI cấp mới/ tăng vốn trong kỳ.
Thứ ba, lượng vốn OFDI đăng ký/dải ngân trong kỳ.
Thứ tư, số lượng dự án bị dừng hoạt động/ thu hồi giấy phép trong kỳ.
Thứ năm, tính đa dạng của địa bàn đi đầu tư/ địa phương tiếp nhận vốn.
1.2 Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các quốc gia đang phát triển trong
điều kiện hội nhập quốc tế.
1.2.1 Nhận thức của các doanh nghiệp ở các quốc gia đang phát triển về vấn đề
hội nhập và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Theo Báo cáo thường niên về Đầu tư quốc tế năm 2014 (WIR 2014) của
UNCTAD thì dòng vốn OFDI từ các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi có
sự tăng trưởng mạnh mẽ trong khoảng 10 năm trở lại đây, đạt 553 tỷ USD trong
năm 2013, chiếm 39% tổng lượng vốn OFDI toàn cầu (năm 2000, tỷ lệ này chỉ là
12%). Có 6 trong top 20 quốc gia thực hiện OFDI là các quốc gia đang phát triển
và chuyển đổi. Thực tế này chứng tỏ các doanh nghiệp ở các quốc gia đang phát
triển đã có vai trò ngày càng lớn, đóng góp ngày càng rõ nét vào sự phát triển
chung của kinh tế thế giới. Đối với Việt Nam, chúng ta đang rất tích cực đàm phán
với các quốc gia liên quan để gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Nếu đàm phán kết thúc thành công, Việt Nam hứa hẹn sẽ đón nhận làn sóng
đầu tư mới và đồng thời sẽ có nhiều cải cách mạnh mẽ về thể chế và đầu tư công
để hướng tới các chuẩn mực quốc tế. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng đã nhanh
chóng nắm bắt thời cơ, tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hội nhập và phải
hội nhập thành công là một tiến trình tất yếu mà các doanh nghiệp không có quyền
lùi bước. Các doanh nghiệp ở các quốc gia đang phát triển, dù quy mô lớn hay nhỏ,
cần nhận thức rõ thời cơ và thách thức mà quá trình hội nhập mang lại, từ đó tích
cực đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản lý để tăng sức cạnh tranh. Khi đó,
chắc chắn các doanh nghiệp sẽ vững vàng ở thị trường trong nước và sẽ có nhiều
cơ hội thành công khi vươn ra thị trường thế giới.
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1.4.1 Các nhân tố vĩ mô.
+ Các nhân tố từ phía chính phủ nước đi đầu tư.
Thứ nhất, Chính sách tài chính, tiền tệ, xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối.
Thứ hai, các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, thúc đẩy OFDI của chính phủ.
Thứ ba,các biện pháp hỗ trợ về vốn, cung cấp thông tin về thị trường, thông tin về
đối tác, cơ hội và kinh nghiệm kinh doanh, thành lập các hiệp hội, các trung tâm
nhằm hỗ trợ và khuyến khích việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Thứ tư, chính phủ có thể hỗ trợ hoạt động OFDI của các doanh nghiệp thông qua
việc xây dựng trực tiếp hoặc cho vay ưu đãi để hình thành những tuyến đường giao
thông xuyên quốc gia, hệ thống đường sắt, cảng biển… kết nối với các quốc gia
trong khu vực và thế giới.
+ Các nhân tố từ phía quốc gia nhận đầu tư.
Thứ nhất, sự ổn định chính trị - kinh tế- xã hội.
Thứ hai, các yếu tố về tài nguyên, điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý.
Thứ ba, các yếu tố về môi trường pháp lý, cơ chế chính sách, thủ tục
hành chính.
Thứ tư, các yếu tố về cơ sở hạ tầng.
Thứ năm, vị thế của quốc gia nhận đầu tư.
Thứ sáu, mối quan hệ chính trị, văn hóa, kinh tế giữa quốc gia nhận đầu tư
với các quốc gia tiến hành OFDI.
1.1.4.2. Các nhân tố từ phía doanh nghiệp tiến hành hoạt động đầu tư.
Thứ nhất, Năng lực tài chính.
Thứ hai, trình độ khoa học công nghệ.
Thứ ba, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ tư, nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý sản
xuất kinh doanh.
7
8
1.2.2 Tính tất yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các nước
đang phát triển.
1.3 Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài.
1.3.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản.
- Chính Phủ Nhật Bản đã rất thành công trong việc “dọn đường” cho dòng
vốn OFDI chảy vào các quốc gia khác, nhất là vào các quốc gia đang phát triển.
Với tiềm lực tài chính của mình, Nhật Bản đã trở thành quốc gia đi đầu trong viện
trợ ODA cho các nước đang phát triển.
- Nhật Bản đã tận dụng thành công những thay đổi trong chính sách tỷ giá.
- Nhật Bản đã linh hoạt trong việc chuyển đổi giữa các mục tiêu chiến lược
là “xuất khẩu” và “đầu tư”.
- Hoạt động hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản thông qua Ngân hàng Hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JBIC) và Phòng Thương mại và Công Nghiệp Nhật Bản
(JETRO) là rất hiệu quả đối với hoạt động OFDI của các doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp của Nhật Bản đã rất thành công trong việc áp dụng kinh
nghiệm quản lý độc đáo và tiên tiến.
- Tuy nhiên, chiến lược chuyển giao công nghệ không trọn gói của các tập
đoàn Nhật Bản và sự kiểm soát chặt chẽ của công ty mẹ đối với hoạt động của
công ty con đã có ảnh hưởng không tốt đối với hoạt động OFDI.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể được thực hiện bởi các quốc gia đang
phát triển bởi các lý do chủ yếu sau:
Thứ nhất, các quốc gia đang phát triển cũng có những thế mạnh riêng, có
thể tận dụng khi tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Thứ hai, Trong những năm gần đây, các quốc gia đang phát triển đã có sự
vươn lên mạnh mẽ về nhiều mặt như: Nguồn nhân lực, công nghệ kỹ thuật, hệ
thống pháp luật, hệ thống tài chính... Đó chính là bàn đạp, là tiền đề để doanh
nghiệp các nước này tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Thứ ba, xu thế hiện nay của thế giới là hợp tác và cạnh tranh. Việc thúc đẩy
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đem lại lợi ích cho cả quốc gia đi đầu tư và quốc gia
nhận đầu tư. Trong một “thế giới phẳng”, các rào cản về thương mại, đầu tư sẽ có xu
hướng giảm dần, giữa các quốc gia sẽ chỉ còn tồn tại “biên giới mềm”, thậm chí
không còn tồn tại biên giới về mặt kinh tế giữa các quốc gia. Các khu vực mậu dịch
tự do như AFTA, EU... các Hiệp địnhTPP, TIPP, RCEP... là minh chứng rõ ràng cho
điều đó. Khi các rào cản được giảm dần, dòng luân chuyển vốn giữa các quốc gia sẽ
dễ dàng hơn.
1.2.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các quốc gia đang phát
triển trong điều kiện hội nhập.
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp doanh nghiệp các nước đang
phát triển tiếp cận với những nguồn lực mới, tiếp cận với thị trường nguyên liệu
đầu vào dồi dào với giá rẻ.
Thứ hai, tránh được hàng rào bảo hộ.
Thứ ba, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp mở rộng thị trường xuất khẩu.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
trong nước.
Thứ năm, góp phần cơ cấu lại nền kinh tế trong nước theo hướng “xanh sạch - đẹp”, thân thiện với môi trường.
Thứ sáu, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp có thể nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực.
1.3.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Qua thực tiễn tìm hiểu về dòng vốn OFDI Trung Quốc, có thể rút ra một số
bài học chủ yếu sau:
Thứ nhất, dòng vốn OFDI của Trung Quốc đôi khi được quyết định theo lợi
ích của chính quyền trung ương hơn là vì mục tiêu kinh doanh thông thường.
Thứ hai, dòng vốn OFDI của Trung quốc, đặc biệt là vào các quốc gia đang
phát triển đã vấp phải nhiều than phiền của nước tiếp nhận vốn.
Thứ ba, trong nỗ lực thâm nhập thị trường các quốc gia phát triển, Trung
Quốc vấp phải những trở ngại ngăn cản việc nắm giữ thương hiệu và tiếp cận công
nghệ cao tại một số thị trường then chốt (châu Âu và Mỹ).
1.3.3 Bài học đối với Việt Nam
Từ những kinh nghiệm của Trung Quốc, Nhật Bản, có thể rút ra một số bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
- Thứ nhất, Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi, xây dựng hành lang pháp
lý rõ ràng, minh bạch, theo hướng đơn giản hóa nhằm tạo điều kiện cho các doanh
9
nghiệp có thể nhanh chóng tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tận dụng được
cơ hội đầu tư.
- Thứ hai, Chính phủ cần “dọn đường” cho dòng chảy của vốn vào các thị
trường tiềm năng bằng việc ký kết các Hiệp định thương mại, đầu tư... với các
nước đối tác. Với các thị trường trọng điểm, Chính phủ có thể thực hiện viện trợ
không hoàn lại, cho vay ưu đãi (ODA) để tạo tiền đề cho các doanh nghiệp trong
nước thuận lợi hơn khi sang đầu tư vốn.
- Thứ ba, Chính phủ cần phải linh hoạt trong việc thực hiện các mục tiêu
khuyến khích xuất khẩu hay thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Cần duy trì
một chính sách tỷ giá hợp lý, đảm bảo giá trị đồng nội tệ để khuyến khích các
doanh nghiệp xuất khẩu vốn.
- Thứ tư, chính phủ cần có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện để phát huy
vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong việc thực hiện OFDI.
- Thứ năm, về phía các doanh nghiệp, cần phải chủ động trong việc hội
nhập, tích cực tìm kiếm các cơ hội đầu tư, áp dụng các phương pháp quản lý tiên
tiến, tăng cường nội lực ở tất cả các mặt: tài chính, công nghệ, nhân lực...
- Thứ sáu, bên cạnh sự chủ động hội nhập của từng doanh nghiệp riêng lẻ,
cần tăng cường vai trò của các hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân ở
nước ngoài.
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1 Về cơ sở lý luận.
Nhóm lý thuyết kinh tế vĩ mô có các luận điểm chính sau:
Thứ nhất, Lý thuyết HOS (Heckscher ,Olin và Samuelson)
Thứ hai, Lý thuyết lợi nhuận cận biên của vốn(Macdougall- Kemp, 1960).
Thứ ba, Lý thuyết về quy mô thị trường của Balas.
Thứ tư, lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia - mô hình viên kim cương
của Porter (1990,2002).
Thứ năm, lý thuyết Con đường phát triển của đầu tư (Investment
Development Path, IDP, 1989, 1999, 2002) của Dunning. Đây được coi là lý thuyết
phổ biến nhất hiện nay để lý giải về dòng luân chuyển vốn giữa các quốc gia, bao
gồm cả FDI và OFDI.
Nhóm lý thuyết kinh tế vi mô có các luận điểm chính sau:
Thứ nhất, Lý thuyết vòng đời sản phẩm của Raymon Vernon.
10
Thứ hai, Lý thuyết lợi thế độc quyền (Stephen Hymer).
Thứ ba, Lý thuyết chiết trung (OLI) của Dunning (1977).
2.2. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam liên quan đến đề
tài luận án.
2.2.1 Các công trình trên thế giới.
Ngoài Báo cáo quốc tế về Đầu tư (WIR) của UNCTAD, đã có nhiều học giả,
nhà nghiên cứu phân tích về dòng vốn OFDI từ các quốc gia đang phát triển và
chuyển đổi. Các nghiên cứu đáng chú ý là:
Về dòng vốn OFDI của Trung Quốc, Wang (2011) trên cơ sở nghiên cứu
dòng vốn OFDI của Trung Quốc vào các quốc gia đang phát triển ở châu Phi và
một số nước tại châu Á, khẳng định hỗ trợ của chính phủ và cấu trúc ngành của
quốc gia đi đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện OFDI, trong khi đó,
yếu tố công nghệ và quảng cáo tỏ ra ít quan trọng hơn.Wang cũng khẳng định môi
trường chính sách và cơ sở hạ tầng tại các nước nhận đầu tư có vai trò quan trọng
trong việc thu hút FDI. Wong (2011) khẳng định mặc dù khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh đã từng bước được “cởi trói”, xong hoạt động OFDI của Trung Quốc
vẫn chịu sự ảnh hưởng nặng nề của các doanh nghiệp nhà nước. Sylvie Laforet
(2011) phân tích thực trạng dòng vốn OFDI của Trung Quốc vào các quốc gia giàu
tài nguyên nhưng thể chế chính trị yếu kém.
Về dòng vốn OFDI của Nhật Bản, Tamami Okawa (2001) đã phân tích mối
quan hệ giữa tỷ giá của đồng Yên Nhật với USD và dòng vốn OFDI của Nhật vào
khu vực châu Á. Okawa khẳng định việc tăng giá đồng Yên từ những năm giữa
thập kỷ 80s của thế kỷ trước đã mở đường cho làn sóng OFDI của Nhật ra nước
ngoài. Herzer (2008) khẳng định Nhật Bản đã thành công trong việc duy trì một
đồng Yên mạnh trong suốt những thập niên 1990 để thúc đẩy hoạt động OFDI.
Linda Low(2010) nghiên cứu vai trò của chính phủ tới dòng vốn OFDI tại các
quốc gia Châu Á. LOW chỉ ra rằng trong mô hình Đông Á, chính phủ đã khuyến
khích hoạt động OFDI dựa trên mức độ thành công trong kinh doanh của doanh
nghiệp, chứ không phải dựa vào các mối quan hệ chính trị của doanh nghiệp.
Về dòng vốn OFDI của Nga, Kalman Kolatay (2010) nghiên cứu dòng vốn
OFDI giai đoạn 1990-2010, Kolatay khẳng định sự thay đổi trong chiến lược đầu
tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Nga. Trong những năm đầu 1990, hoạt
động OFDI được thực hiện chủ yếu bởi các công ty tư nhân, hướng đến các quốc
gia “an toàn”, nhằm làm giảm ảnh hưởng của bất ổn kinh tế trong nước. Khoảng 10
11
12
năm gần đây, OFDI của Nga được thực hiện chủ yếu bởi các công ty thuộc sở hữu
Nhà nước hoặc Nhà nước chi phối.
Với dòng vốn OFDI của Malaysia, Soo Khoon Goh, Koi Nyen Wong (2010)
khẳng định mối quan hệ dài hạn giữa dòng vốn OFDI của Malaysia với các yếu tố
ảnh hưởng chủ yếu: Quy mô của thị trường nước nhận đầu tư, tỷ giá thực hiệu lực,
độ mở của nền kinh tế.
bất cập, chưa đồng bộ. Lào vẫn còn thiếu và yếu cả về đội ngũ nhân lực có chất
lượng cao lẫn lao động phổ thông...
Bài nghiên cứu “Đẩy mạnh đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam
sang CHDCND Lào” của tác giả Đào Thị Phương Liên (2011). Tác giả đã có
những đánh giá khá toàn diện về những kết quả cũng như hạn chế của dòng vốn
OFDI của Việt Nam vào Lào giai đoạn 2000-2010. Tác giả khẳng định hoạt động
OFDI của Việt Nam vào Lào là quan hệ “đôi bên cùng có lợi”.
Đề tài “Thúc đẩy hoạt động đầu tư từ các tỉnh duyên hải miền Trung vào
khu vực tam giác phát triển Campuchia, Lào,Việt Nam: Định hướng và giải pháp”.
Trong bài viết này, tác giả Nguyễn Đình Hiền (2013) đã khẳng định liên kết, hợp
tác phát triển kinh tế vùng trên phạm vi quốc tế là xu hướng ngày càng phổ biến
trên thế giới.
Đề tài “FDI và phát triển kinh tế: Nghiên cứu tại Cộng hòa dân chủ Nhân
dân Lào giai đoạn 1990-2012” của hai tác giả Khamsen Sisavong và Nguyễn Thị
Tuyết Mai (2014). Các tác giả khẳng định FDI có tác động tích cực tới các chỉ tiêu
về GNI bình quân đầu người, vốn tài chính, trình độ khoa học công nghệ, vốn con
người, giao thông vận tải và truyền thông.
2.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước.
Thứ nhất, về các nghiên cứu mang tính tổng hợp các vấn đề lý thuyết, đáng
chú ý là nghiên cứu của TS. Đinh Trọng Thịnh (2006) và TS. Phùng Xuân Nhạ
(2001). Đây có thể coi là những nghiên cứu ban đầu, gợi mở những định hướng
chính sách cho hoạt động OFDI của Việt Nam. Thực tế hoạt động OFDI cũng như
các chính sách về OFDI của Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi trong khoảng thời
gian từ năm 2006 đến nay.
Các nghiên cứu thực tiễn về dòng vốn OFDI của Việt Nam nói chung hoặc
dòng vốn OFDI của Việt Nam vào một số ngành, thị trường cụ thể bao gồm cả thị
trường Lào. Đáng chú ý là các nghiên cứu của Phùng Thanh Quang (2010),
Nguyễn Văn An (2010), Bùi Huy Nhượng (2011), Đào Thị Phương Liên (2011),
Nguyễn Đình Hiền (2013), Nguyễn Thị Tuyết Mai (2014).
Phùng Thanh Quang (2010) nghiên cứu về dòng vốn OFDI của các doanh
nghiệp Việt Nam giai đoạn 1993- 2009. Tác giả đã khẳng định đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của các doanh nghiệpViệt Nam hiện tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dầu
khí, thủy điện, trồng cây công nghiệp… Tác giả cũng đề xuất một số giải pháp
nhằm thúc đẩy OFDI trong thời gian tới.
Đề tài luận án “nghiên cứu phát triển đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp
Việt Nam vào lĩnh vực công nghiệp tại CHDCND Lào” (Nguyễn Văn An, 2012).
Trong luận án, tác giả khẳng định OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào lĩnh
vực công nghiệp của Lào chủ yếu được thực hiện bởi các doanh nghiệp có quy mô
vốn lớn (doanh nghiệp có quy mô vốn trên 50 tỷ đồng chiếm 81,25%), khẳng định
giá trị vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào còn rất thấp,
chỉ đạt 18,4% so với vốn đầu tưđăng ký.
Bài nghiên cứu “Quan điểm và một số giải pháp tăng cường đầu tư trực tiếp
sang thị trường Lào của các doanh nghiệp Việt Nam” của tác giả Bùi Huy Nhượng
(2011). Tác giả đã khẳng định các chính sách đầu tư của Lào hiện nay còn nhiều
Khoảng trống cần nghiên cứu:
Hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn khá là mới mẻ, và
thiếu nhiều những nghiên cứu hệ thống. Các tác giả trong nước mới chỉ dừng lại ở
những đánh giá định tính, chưa có những phân tích chuyên sâu về những nhân tố
nào ảnh hưởng chủ yếu đến hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam tại
những địa bàn cụ thể, trong những lĩnh vực cụ thể. Chưa có tác giả nào phân tích
định lượng ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô như GDP/người, FDI vào, Đầu tư cho
KHCN... tới dòng vốn OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, đề tài
sẽ đi sâu nghiên cứu những nhân tố tác động đến OFDI của các doanh nghiệp Việt
Nam vào thị trường Lào, phân tích định lượng ảnh hưởng của một số nhân tố vĩ mô
tới dòng vốn OFDI thông qua mô hình IDP.
13
14
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA CÁCDOANH NGHIỆP VIỆT
NAM VÀO CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Thông tư số 05/2001/TT-BKH ngày 30/08/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
hướng dẫn hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.
Quyết định số 116/2001/ QĐ- TTg ngày 02/08/2001 của Thủ tướng Chính phủ
về một số quy định đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí.
Thông tư 97/2002/ TT- BTC ngày 24/10/2002 của Bộ Tài chính về việc
hướng dẫn thi hành nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Luật Đầu tư (có hiệu lực từ ngày 01/07/2006). Trong đó, chương VIII của
Luật này quy định về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam.
Nghị định 78/2006/ NĐ- CP quy định về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.
Nghị định 121/2007/NĐ- CP ngày 25/07/2007 quy định về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí - một lĩnh vực đặc thù mà các doanh nghiệp
Việt Nam có nhiều lợi thế khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
Quyết định 482/ QĐ- TTg ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích phát
triển kinh tế đối ngoại vùng biên giới Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia.
Luật Đầu tư mới (chính thức có hiệu lực từ 01/07/2015) thay thế cho luật
đầu tư năm 2005. Trong đó, chương năm của luật này quy định về hoạt động đầu
tư ra nước ngoài. So với các văn bản trước đây, luật Đầu tư 2014 đã có nhiều thay
đổi theo hướng thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện
OFDI.
3.1 Tổng quan về tình hình kinh tế- xã hội và hệ thống pháp luật của
CHDCND Lào liên quan đến hoạt động thu hút FDI.
3.1.1 Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội của CHDCND Lào.
CHDCND Lào có diện tích 236,800 km2, với dân số 6,56 triệu người. Lào
hiện là nền kinh tế nhỏ bé nhất trong Asean, với GDP năm 2013 đạt 10,1 tỷ USD,
GDP bình quân đầu người năm 2013 đạt hơn 1485USD/năm. Lào cũng là một
trong những nền kinh tế có tốc độ tăng GDP nhanh nhất khu vực châu Á, với mức
trung bình của giai đoạn 2010-2013 là 8,2%/năm.Các đối tác chủ yếu của Lào
trong quan hệ thương mại cũng như đầu tư là Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam. Ba
quốc gia này chiếm tới gần 70% kim ngạch xuất khẩu và trên 85% kim ngạch nhập
khẩu của Lào. Với việc gia nhập WTO vào đầu năm 2013, chính phủ Lào đang nỗ lực
thu hút đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao hơn như sản xuất
hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến, chế tạo và đặc biệt là phát triển du lịch.
3.1.2 Tổng quan hệ thống pháp luật của CHDCND Lào liên quan tới hoạt động
thu hút FDI.
Hiện nay, hệ thống pháp luật của CHDCND Lào nhìn chung là còn thiếu và
chưa đồng bộ, hiệu lực thực thi chưa cao. Một số luật và các văn bản dưới luật của
Lào có liên quan trực tiếp tới hoạt động OFDI của các doanh nghiệp nước ngoài tại
Lào là: Luật khuyến khích đầu tư ban hành năm 2010. Chỉ thị số 13 được thủ tướng
chính phủ Lào ban hànhnăm 2012 về việc dừng xem xét và cấp phép dự án đầu tư
mới vào lĩnh vực tìm kiếm và khảo sát khoáng sản, dự án trồng cao su và bạch đàn
trong toàn quốc.
3.2 Hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Việt Nam.
Hiện nay, các văn bản pháp lý chính của Việt Nam điều tiết hoạt động
OFDI là:
Thông tư số 01/2001/TT- NHNN ngày 19/01/2001 của NHNN Việt Nam về
hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam.
3.3 Thực trạng đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các doanh nghiệp Việt
Nam.
3.3.1 Đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào theo thời gian.
Trong giai đoạn 1994-1998, trước khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP
ngày 14/4/1999 của Chính phủ quy định về hoạt động OFDI của các doanh nghiệp
Việt Nam, chỉ có vỏn vẹn 3 dự án đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị
trường Lào. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào giai đoạn
này mang tính thăm dò, thí điểm, chưa có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân
vào việc thực hiện OFDI vào Lào.
Trong giai đoạn 1999-2005 sau khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP,
hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Nếu chỉ tính những dự án còn hiệu lực, trong giai đoạn này có 36 dự án
15
16
OFDI với tổng vốn đăng ký đạt trên 466 triệu USD, quy mô vốn đầu tư bình quân đạt
12,94 triệu USD/dự án.
Trong giai đoạn 2006-2010, với việc Chính phủ ban hành Nghị định
78/2006/NĐ-CP ngày 09/9/2006 quy định về ĐTRNN của doanh nghiệp Việt
Nam, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Lào đã có sự
bùng nổ cả về quy mô vốn và số lượng dự án.
Trong giai đoạn 2011-2014, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt
Nam vào thị trường Lào đang có dấu hiệu chững lại. Trong giai đoạn này chỉ có
56 dự án được đăng ký mới với tổng vốn đầu tư của phía Việt Nam là 981,3 triệu
USD, quy mô vốn trung bình đạt 17,5 triệu USD.
3.3.3 Đầu tư trực tiếp vào Lào phân theo hình thức đầu tư.
Tính đến cuối tháng 12/2014, các doanh nghiệp Việt Nam đã có 218 dự án
đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào. Trong đó, chiếm tỷ trọng lớn nhất là các dự án
100% vốn Việt Nam với 163 dự án, chiếm tỷ trọng 74,8%. Số dự án đầu tư dưới
hình thức doanh nghiệp liên doanh có 55 dự án, chiếm tỷ trọng 25,2%.
3.3.2 Đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào phân theo ngành.
-Về lĩnh vực công nghiệp.
Tính đến cuối tháng 12 năm 2014, công nghiệp là lĩnh vực các doanh nghiệp
Việt Nam đầu tư vào Lào chiếm tỷ trọng lớn nhất. Lĩnh vực công nghiệp chiếm tới
44,5% vốn đầu tư và 51,8% về số dự án OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam.
Các dự án lớn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực xây dựng nhà máy thuỷ điện và công
nghiệp khai khoáng.
-Về lĩnh vực nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong những lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam. Chính vì
vậy, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào lĩnh vực nông nghiệp
Lào đã ngày càng mở rộng về quy mô vốn và số dự án qua các năm. Tính lũy kế
đến cuối tháng 12/2014, tổng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đạt 691,708
triệu USD, với 46 dự án. Quy mô vốn trung bình mỗi dự án đạt khoảng 15,1 triệu
USD/dự án.
-Về lĩnh vực dịch vụ
Đây là lĩnh vực có sự tăng trưởng đột biến trong thời gian qua. Mặc dù thị
trường Lào tương đối nhỏ bé, chỉ với khoảng hơn 6,56 triệu dân, quy mô chỉ bằng
một thành phố của Việt Nam. Tuy nhiên, lĩnh vực dịch vụ ở Lào vẫn còn nhiều
“khoảng trống thị trường” là cơ hội để các nhà đầu tư Việt Nam có thể bỏ vốn.
Tính luỹ kế đến cuối năm 2014, Việt Nam đã có 59 dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch
vụ ở Lào, với tổng vốn đầu tư là 1484 triệu USD. Quy mô vốn trung bình đạt
25,15triệu USD/ dự án.
3.3.4 Đầu tư trực tiếp vào Lào phân theo địa phương của Việt Nam.
Tính đến cuối năm 2014, Việt Nam đã có 32 tỉnh thành có các dự án đầu tư
vào 16/17 tỉnh của Lào (trừ tỉnh Bò Kẹo). Trong đó, nhiều nhất là Hà Nội với 92
dự án, Thành phố Hồ Chí Minh với 43 dự án, Nghệ An với 17 dự án và Gia Lai với
11 dự án... Ngoài bốn địa phương này, các tỉnh thành khác thực hiện đầu tư sang
Lào mới chỉ dừng lại ở quy mô từ 1 đến 7 dự án.
3.4Đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các doanh
nghiệp Việt Nam.
3.4.1 Những kết quả đạt được
3.4.1.1. Những kết quả ở tầm vĩ mô.
Thứ nhất, đã góp phần quan trọng thúc đẩy việc hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực của Việt Nam; tạo điều kiện để nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực
và trên thế giới.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp vào Lào đã giúp phát huy một cách hiệu quả các
lợi thế so sánh của Việt Nam, giúp kinh tế trong nước phát triển một cách nhịp
nhàng và bền vững.
Thứ ba,nhiều dự án đầu tư trực tiếp vào Lào đã góp phần làm tăng thu cho
NSNN.
Thứ tư, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào đã góp
phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và giải quyết một
lượng lớn lao động tại chỗ của nước bạn Lào.
3.4.1.2. Những kết quả ở tầm vi mô.
Thứ nhất, việc đẩy mạnh đầu tư vào Lào đã giúp nhiều doanh nghiệp sử
dụng nguồn vốn hiệu quả hơn, thu được lợi nhuận cao hơn.
Thứ hai, việc mở rộng đầu tư vào Lào cũng đồng nghĩa với việc mở rộng thị
trường, giúp các doanh nghiệp đến gần hơn với người tiêu dùng.
Thứ ba, thực hiện đầu tư trực tiếp vào Lào cũng góp phần giúp các doanh
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
17
18
3.4.2 Những hạn chế.
Thứ nhất, FDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Lào hiện nay
chủ yếu được thực hiện dưới hình thức FDI theo chiều dọc.
Thứ hai, số lượng dự án còn ít. Sau hơn 20 năm, Việt Nam đã có 218 dự án
đầu tư trực tiếp vào Lào. Như vậy trung bình mỗi năm chỉ có khoảng10 dự án đăng
ký mới. Con số này thật sự nhỏ bé so với con số khoảng 650.000 doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, lĩnh vực đầu tư còn chưa đa dạng, còn nhiều thế mạnh chưa được
khai thác hiệu quả.
Thứ tư, tỷ lệ vốn thực hiện thấp, hiệu quả nhiều dự án chưa cao. Theo Cục
đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện trên vốn đầu
tư đăng ký của các dự án FDI đầu tư vào Việt Nam là 49,37% (giai đoạn 20002014). Trong khi đó, tỷ lệ giải ngân của các dự án OFDI của các doanh nghiệp Việt
Nam tại thị trường Lào mới chỉ đạt khoảng 38,2%. Tính đến cuối năm 2014, số
vốn dải ngân tại thị trường Lào mới đạt khoảng 1500 triệu USD trên 3,93 tỷ USD
vốn đăng ký.
Thứ năm, nhiều dự án OFDI vào Lào đã bị rút giấy phép hoặc phải tạm
ngừng hoạt động. Tính riêng trong năm 2013, đã có 38 dự án của Việt Nam tại Lào
phải dừng hoạt động, chủ yếu là các dự án trong lĩnh vực khai khoáng (20 dự án),
chế biến chế tạo (7 dự án), bán buôn, bán lẻ, sửa chữa (5 dự án), xây dựng (4 dự
án) và nông nghiệp (4 dự án).
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt
Nam còn nhiều hạn chế.
Thứ hai, chưa có sự hỗ trợ thỏa đáng từ phía Nhà nước cho các doanh
nghiệp Việt Nam. Mối liên hệ giữa các cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ
của Việt Nam tại nước ngoài với các doanh nghiệp vẫn còn rất lỏng lẻo…
Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ trong việc
quản lý các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn hạn chế.
Thứ tư, chưa có các cơ quan chuyên môn hỗ trợ đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài nói chung và đầu tư vào Lào nói riêng.
3.4.3.3. Từ phía các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ nhất, tiềm lực tài chính còn hạn chế, trình độ khoa học công nghệ còn
lạc hậu.
Thứ hai, thiếu kỹ năng quản lý, kinh nghiệm thương trường, chưa thực sự
chủ động tìm kiếm các cơ hội đầu tư tốt.
Thứ ba, sự liên kết của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường
Lào còn chưa được như kỳ vọng.
3.4.3 Nguyên nhân của những hạn chế.
3.4.3.1 Từ phía nước bạn Lào.
Thứ nhất, nguồn nhân lực tại Lào còn rất nhiều hạn chế, cả về lao động
trình độ cao và lao động phổ thông.
Thứ hai, các chính sách kinh tế nói chung và quy định về đầu tư nói riêng
tại Lào còn nhiều phức tạp, gây khó khăn cho quá trình xin cấp phép và triển khai
dự án của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng của Lào vẫn còn rất hạn chế, gây khó khăn cho việc
đầu tư vốn của các doanh nghiệp Việt Nam. Theo đánh giá của WEF về môi
trường kinh doanh của Lào năm 2015, sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng là một trong ba
khó khăn lớn nhất khi đầu tư tại Lào (cùng với vấn đề nhân lực và tiếp cận vốn).
3.4.3.2. Từ phía nhà nước Việt Nam.
CHƯƠNG 4
ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂNCỦA ĐẦU TƯ ĐỂ
ĐÁNH GIÁ CÁC NHÂN TỐVĨ MÔ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG OFDI
CỦA VIỆT NAM VÀOCỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
4.1. Giới thiệu mô hình con đường phát triển của đầu tư (IDP: Investment
Development Path).
Để đánh giá các yếu tố vĩ mô của Việt Nam có tác động như thế nào tới hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam, luận án sử dụng mô hình IDP (Investment
development path – mô hình con đường phát triển của đầu tư) được xây dựng bởi
Dunning (Dunning, 1981, 1986, 1988). Đây là mô hình được sử dụng rộng rãi trong
nghiên cứu, đánh giá sự phát triển tại nước xuất khẩu vốn tới hoạt động OFDI của
nước đó. Theo IDP, OFDI và IFDI của một nước đều phụ thuộc vào sự trình độ
phát triển của một nước đó (thường được tính bằng GDP trên đầu người); dựa vào
cơ sở đó, các nước sẽ quyết định con đường đầu tư (Investment Development Path)
cho mình. Trong luận án, ba biến vĩ mô đại diện cho sự phát triển của một nền kinh tế
dùng để đánh giá tác động tới OFDI của Việt Nam vào Lào được sử dụng là: tốc độ
19
20
tăng trưởng GDP trên đầu người (PGDP), tỷ lệ chi NSNN đầu tư cho khoa học công
nghệ (RDSB) và dòng vốn FDI vào Việt Nam (IFDI). Các giả thuyết của mô hình
được tóm tắt trong sơ đồ như sau:
Sự phát triển nền kinh tế - tăng trưởng GDP trên
đầu người (PGDP)
Trình độ phát triển khoa học công nghệ - Tỷ lệ chi
KHCN trên tổng chi NSNN (RDSB)
FDI vào trong nước (IFDI)
+
+
Dòng vốn
đầu tư
trực tiếp
nước
ngoài của
Việt Nam
vào Lào
+
Hình 4.1: Mô hình IDP đánh giá các nhân tố vĩ mô
của kinh tế Việt Nam tác động tới OFDI của Việt nam vào Lào
4.2 Phương pháp nghiên cứu.
Để đo lường mối quan hệ giữa biến OFDIL và các biến mức độ phát triển
kinh tế, trình độ khoa học công nghệ của quốc gia và dòng vốn IFDI vào Việt
Nam, nghiên cứu sinh lựa chọn phương pháp phân tích dữ liệu bảng kết hợp với
phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS).
4.3. Mô hình đề xuất và kết quả nghiên cứu.
Để nghiên cứu mối quan hệ giữa OFDIL với các biến vĩ mô của nền kinh tế,
nghiên cứu sinh đề xuất bảy mô hình kinh tế lượng dự kiến: mô hình hồi quy cơ
bản, mô hình hồi quy parabol, mô hình loga, mô hình bán loga, mô hình hồi quy có
biến giả, mô hình hồi quy có biến trễ, mô hình hồi quy có biến xu thế. Sau khi ước
lượng và kiểm định khuyết tật của các dạng mô hình đề xuất, dạng mô hình được lựa
chọn là dạng mô hình tuyến tính có biến trễ (mô hình 5). Mô hình hồi quy tuyến tính
đề xuất với bốn biến: một biến phụ thuộc: OFDIL và ba biến độc lập: IFDI,
GDPCAP, RDSB. Mô hình được sử dụng để đánh giá tác động của các nhân tố: đầu
tư trực tiếp vào trong nước, GDP bình quân đầu người, tỉ lệ chi KHCN/NSNN lên số
vốn đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào Lào.
OFDILt = β1 + β2 GDPCAPt + β3IFDIt + β4RDSBt + Ut (I)
Kết quả hồi quy bội cho thấy, tỷ lệ chi NSNN cho khoa học công nghệ và
mức vốn FDI đầu tư vào Việt Nam là nhân tố ảnh hưởng thuận chiều tới dòng vốn
OFDIL.
Kết quả mô hình hồi quy
Biến phụ thuộc
DOFDIL
C
362.6804
OFDILt-2
0.274270
PGDPt-1
-6.865489
RDSBt
3.324366*
DIFDIt-1
0.011478**
Quan sát
25
2
R
0.720465***
Ghi chú: - Ký hiệu *) p< 0.1, **) p<0.05, ***) p<0.01
Nguồn: Tác giả tính toán trên Eviews
Trong khi đó, hệ số của biến tỷ lệ tăng trưởng GDP trong mô hình hồi quy
bội không có ý nghĩa thống kê. Điều này cho biết hoạt động đầu tư trực tiếp của
Việt Nam vào Lào không bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ tăng GDP trên đầu người. Điều
này được giải thích là do ảnh hưởng của lượng vốn khu vực Nhà nước vẫn giữ vai
trò chi phối trong dòng vốn OFDI của Việt Nam vào Lào. Sự tăng trưởng của GDP
trong nước chưa đi kèm với sự tăng trưởng OFDI vào Lào là do vẫn còn nhiều “rào
cản” liên quan tới việc xuất khẩu vốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
CHƯƠNG 5
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG DÒNGVỐN OFDI CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAMVÀO THỊ TRƯỜNG LÀO.
5.1 Triển vọng đầu tư trực tiếp vào Lào của các doanh nghiệp Việt Nam trong
điều kiện hội nhập.
5.1.1 Những thuận lợi và khó khăn.
5.1.1.1 Thuận lợi.
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới.
Cùng với việc mở cửa hội nhập, hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung và đầu
tư vào Lào nói riêng chắc chắn sẽ có sự tăng trưởng nhanh. Cùng với sự gia tăng
của dòng vốn OFDI, các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam tham gia đầu tư tại
nước ngoài cũng đã có sự liên kết ngày càng chặt chẽ hơn. Ngày 10/8/2009, Hiệp
hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài chính thức được thành lập. Ngày
10/9/2011, Hội doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và đầu tư tại Lào (AVIL) đã chính
thức được thành lập.
21
22
Hình 5.1 Hội nhập khu vực của Lào và Việt Nam thời gian tới.
chỗ” sang mục tiêu “chậm mà chắc”, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, không hiệu
quả, đặc biệt là đối với khu vực kinh tế nhà nước.
Đối với thị trường Lào, cạnh tranh ngày một gay gắt. Trung Quốc, Thái
Lan đang ngày càng quan tâm tới thị trường Lào. Hiện các doanh nghiệp Trung
Quốc đang ngày càng tăng cường hoạt động OFDI để “tiêu hoá” lượng dự trữ
ngoại hối khổng lồ của mình.
Nguồn: Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam , 2014.
Hiện nay, Việt Nam và Lào đều là thành viên của Asean, WTO và đều đang
trong tiến trình mở cửa thị trường theo các cam kết mạnh mẽ của AFTA,
FTAAP,ACFTA, AKFTA... Việt Nam cũng đang trong quá trình đàm phán tích
cực để gia nhập TPP, RCEP... Hội nhập và phải hội nhập thành công là một tiến
trình bắt buộc mà Việt Nam và Lào chắc chắn đều phải tích cực và chủ động tham
gia. Cùng với tiến trình hội nhập, các rào cản kỹ thuật đã được giảm dần, các
doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động, tích cực vượt qua các “rào cản tâm lý”, tích
cực tìm hiểu và nắm bắt các cơ hội đầu tư ở thị trường Lào.
Về phía nước bạn Lào, có thể khẳng định, Lào đã có nhiều ưu đãi đặc biệt,
dành riêng cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào thị trường Lào. Các doanh
nghiệp Việt Nam hiện đang được hưởng nhiều ưu đãi về miễn hoặc giảm thuế với
thời hạn xác định trong các lĩnh vực như trồng cây công nghiệp, làm đường, thủy
điện... Thời hạn thuê đất của các doanh nghiệp Việt Nam cũng được ưu đãi hơn các
nhà đầu tư nước ngoài khác.
5.1.1.2. Một số khó khăn.
Hiện nay, chính phủ đang tích cực đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, một trong
những trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư. Do đó, cần thay đổi từ mục tiêu “đầu tư giữ
5.1.2 Dự báo về tình hình đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các doanh
nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
Theo dự báo, dòng vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị
truờng Lào trong những năm tới sẽ có sự tăng trưởng mạnh vì những lý do sau đây:
- Thứ nhất, Chính phủ đã có nhiều biện pháp tích cực, cụ thể về cơ chế,
chính sách nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Luật Đầu tư năm
2014 đã được Quốc hội Việt Nam thông qua được đánh giá là “thông thoáng”, tạo
điều kiện thuận lợi để khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam thực hiện OFDI.
- Thứ hai, Chính phủ Việt Nam và Lào, cộng đồng doanh nghiệp hai nước
đang ngày càng củng cố quan hệ mật thiết trên nhiều mặt.
- Thứ ba, cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế, ngày càng có nhiều
doanh nghiệp Việt Nam có đủ tiềm lực tài chính và công nghệ để thực hiện OFDI.
5.2 Các giải pháp đẩy mạnh đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các
doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
5.2.1 Giải pháp từ phía Chính phủ Việt Nam.
-Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Tập trung vào các vấn đề sau:
+ Đơn giản hóa thủ tục cấp đăng ký và cấp phép cho các dự án OFDI. Mở
rộng hơn các dự án thuộc diện đăng ký, giảm bớt sự can thiệp bằng các biện pháp
hành chính ngay cả với các dự án có sử dụng vốn ngân sách, tăng quyền chủ động,
tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Từng bước phân cấp việc cấp giấy chứng
nhận đầu tư ra nước ngoài cho các tỉnh.
+ Ban hành các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư gián tiếp ra
nước ngoài.
- Thứ hai, Chính phủ cần có các hỗ trợ cần thiết để khuyến khích đầu tư của
các doanh nghiệp vào Lào: hỗ trợ về vốn, hỗ trợ về thuế, về đào tạo lao động.
-Thứ ba, tăng cường công tác ngoại giao, kể cả ở cấp chính phủ và cấp địa
phương.
23
24
-Thứ tư, tăng cường công tác hỗ trợ, tư vấn, cung cấp thông tin cho các
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vốn tại Lào.
- Thứ năm, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư tại Lào.
- Thứ sáu, Chính phủ nên tiến tới việc hình thành Quỹ thúc đẩy doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để có thể hỗ trợ về vốn cho các doanh
nghiệp một cách nhanh chóng và thuận tiện hơn.
- Thứ bảy, tăng cường công tác quản lý đối với doanh nghiệp thực hiện
OFDI vào Lào, thực hiện nghiêm chế độ báo cáo định kỳ.
- Thứ tám, nhanh chóng hoàn thiện và ban hành “chiến lược đầu tư vào Lào
đến năm 2020”.
- Thứ chín, cần có những giải pháp vĩ mô hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp
đầu tư ra nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp đầu tư vào Lào nói riêng.
Thứ năm,cần đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo sự kết
nối về giao thông giữa các vùng miền chính của Lào với các quốc gia trong khu
vực, trong đó có Việt Nam.
Thứ sáu, chính phủ Lào cần nhanh chóng cải cách chính sách theo hướng
minh bạch, đơn giản hóa và phù hợp với thông lệ quốc tế.
5.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp
-Thứ nhất, Doanh nghiệp cần chủ động, thường xuyên cập nhật về hệ thống
luật pháp, chính sách về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam và các chính
sách liên quan của nước bạn Lào.
-Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh.
-Thứ ba, các doanh nghiệp cần tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến đầu
tư để tìm kiếm các cơ hội đầu tư ở Lào, tìm ra các khoảng trống thị trường.
-Thứ tư,cần tăng cường vai trò của Hiệp hội các doanh nghiệp Việt Nam
hợp tác và đầu tư tại Lào (AVIL), các doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với
nhau và với các cơ quan đại diện của Việt Nam tại Lào để nâng cao tiếng nói và
sức mạnh của mình.
-Thứ năm, các doanh nghiệp cần tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ
năng lực để thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
-Thứ sáu, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường đầu tư cho KHCN,
ứng dụng công nghệ tiên tiến trong các dự án tại thị trường Lào.
5.3 Kiến nghị đối với Chính phủ Lào:
Thứ nhất, cần có những biện pháp quyết liệt để đáp ứng nhu cầu nhân lực
cho các dự án FDI.
Thứ hai, mở rộng các hình thức đầu tư được cấp phép.
Thứ ba, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo sự thống nhất từ Trung ương
đến địa phương trong các thủ tục đăng ký, cấp phép.
Thứ tư, minh bạch và đơn giản hóa các quy định về quản lý đất đai.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, dòng vốn OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào
Lào có thể nói là tăng trưởng nhanh nhưng không ổn định, chưa có tính định
hướng và hiệu quả mang lại chưa cao. Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý
thuyết và tổng quan nghiên cứu về OFDI, nghiên cứu sinh đã cố gắng trình bày
một cách rõ nét nhất thực trạng dòng vốn OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam
vào Lào giai đoạn 1994-2013. Trên cơ sở đó, chỉ ra những thành công, hạn chế và
nguyên nhân. Luận án cũng đã tiến hành nghiên cứu định lượng ảnh hưởng của các
nhân tố vĩ mô (GDP bình quân đầu người, chi ngân sách cho khoa học công nghệ,
lượng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam) tới dòng vốn OFDI của các doanh nghiệp
Việt Nam vào thị trường Lào. Sau khi chạy các mô hình hồi quy, luận án đã chỉ ra
với 1 triệu USD FDI vào Việt Nam sẽ góp phần làm tăng 0,0115 triệu USD dòng
vốn OFDI từ Việt Nam vào Lào (tác động tràn của FDI). Đồng thời, khi tăng 1%
chi ngân sách cho KHCN sẽ góp phần làm tăng 3,32 triệu USD lượng vốn OFDI
của Việt Nam vào Lào. Trong khi đó, tác động của tăng trưởng GDP bình quân đầu
người lên lượng vốn OFDI vào Lào là không rõ ràng (biến PGDP trong mô hình
không có ý nghĩa thống kê). Trên cơ sở các nghiên cứu định tính và định lượng,
nghiên cứu sinh đã đề xuất các giải pháp với chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam
cũng như các kiến nghị với chính phủ Lào để đẩy mạnh dòng vốn OFDI của các
doanh nghiệp Việt Nam vào Lào trong thời gian tới.