Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo – Nguyễn Văn Hộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 75 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN VĂN HỘ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


2

MỤC LỤC
Phần thứ nhất: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ..........................................................................................3
I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO......................................3
1. Khái niệm ........................................................................................................................... 3
2. Một số tính chất của QLNN về GD-ĐT. ............................................................................ 4
3. Một số đặc điểm của QLNN về GD-ĐT. ........................................................................... 4
4. Một số nguyên tắc QLNN về GD&ĐT cần lưu ý : ............................................................ 6

II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QLNN VỀ GD&ĐT. ...............................10
1. Những nội dung cơ bản của QLNN về GD-ĐT theo điều 86 Luật Giáo dục................... 10
2. Những nội dung chủ yếu của QLNN về GD&ĐT............................................................ 11
3. Thực trạng, phương hướng đổi mới và biện pháp thực hiện QLNN về GD&ĐT. ........... 13
4. Những nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đến năm 2010........................................ 14

Phần thứ 2: QUÁ TRÌNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC ..................................................16
I - CÁC CHỨC NĂNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC .......................................................17
1. Kế hoạch hoá trong quản lý giáo dục ............................................................................... 19
2. Tổ chức trong quản lý giáo dục ........................................................................................ 28
3. Điều khiển (chỉ đạo thực hiện) trong quản lý giáo dục .................................................... 37


4. Kiểm tra trong quản lý giáo dục ....................................................................................... 48

II - THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC .................................................53
1 . Mục đích của thông tin .................................................................................................... 53
2. Các loại thông tin quản lý giáo dục .................................................................................. 55
3. Những yêu cầu đối với thông tin quản lý giáo dục........................................................... 55
4.Thông tin dự đoán.............................................................................................................. 57

III - HỆ THỐNG NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ GIÁO DỤC.....................................59
IV- CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ................................................68
1. Khái niệm và yêu cầu của việc sử dụng phương pháp quản lý giáo dục......................... 68
2. Các phương pháp quản lý giáo dục chủ yếu..................................................................... 70

V - CÔNG CỤ QUẢN LÝ GIÁO DỤC .....................................................................73
1. Các loại công cụ trong quản lý giáo dục .......................................................................... 74
2. Yêu cầu đối với hệ thống công cụ quản lý giáo dục......................................................... 74
3. Đổi mới và nâng cao năng lực vận hành hệ thống công cụ quản lý giáo dục .................. 75


3

Phần thứ nhất: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Khái niệm
+ Định nghĩa: Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo (QLNN về GD& ĐT là
việc nhà nước thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ tác hoạt
đóng GD&ĐT trong phạm vi loàn ra hòi nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của Nhà
nước
QLNN về GD-ĐT là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà

nước đối với các hoạt động GD-ĐT do các cơ quan quản lí có trách nhiệm về giáo dục
của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
theo qui định của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT, duy trì kỉ cương? thoả
mãn nhu câu GD-ĐT của nhân dân, thực hiện mục tiêu GD-ĐT của nhà nước.
+ Những yếu tố chủ yếu trong quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
. Trong khái niệm QLNN về GD&ĐT nổi lên 3 bộ phận chính, đó là chủ thể của
QLNN về GD&ĐT; Khách thể cua QLNN về GD&ĐT; Mục tiêu giáo dục và đào tạo.
. Chủ thể QLNN về GD&ĐT là các cơ quan có thầm quyền (cơ quan lập pháp.
hành pháp) được quy định ở điều 87 của Luật Giáo dục.
. Khách thể của QLNN về GD&ĐT là HIGDQD và mọi hoạt động GD-ĐT trong
phạm vi toàn xã bội.
. Mục tiêu GD&ĐT: về tổng thể đó là việc bảo đảm trật tự kỷ cương trong các
hoạt động GD-ĐT, để thực hiếm được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho xã hội, hoàn thiện và phát triển nhân cách của công dân; Tuy nhiên
ở mỗi cấp học, bậc học đã được cụ thể hoá mục tiêu trong Luật GD và điều lệ các nhà
trường
+ Trong khái niệm QLNN về GD&ĐT còn phải kể tới 2 yếu tố quan trọng trong
việc điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, đó là công cụ và phương pháp
trong quản lý hành chính nhà nước về GD&ĐT:
. Công cụ chủ yếu trong QLHCNN là hệ thống các văn bản pháp luật, do đó công
tác thể chế tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động QLNN vế GD-ĐT
. Phương pháp QLHCNN chủ yếu là phương pháp Hành chính, tổ chức.
Như vậy ta có thể hiểu khái niệm QLNN về GD-ĐT dưới dạng phát biếu khác.
QLNN về GD-ĐT là sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của
bộ giáo dục từ trung ương đến cơ sở lên HTGĐQD và các hoạt động GD của xã hội
nhằm nâng cao dân trí - đào tạo lực- bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn


4


thiện nhân cách cho công dân.
Cần lưu ý rằng, QLNN là việc thực thi ba quyền : Lập pháp - Hành pháp - Tư
pháp để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của công dân. Còn QLNN về
GD&ĐT thực chất là thực thi quyền hành pháp để tổ chức, điều hành và điều chỉnh
mọi hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, để quản lý có hiệu lực
và hiệu quả, việc sử dụng quyền hành pháp phải kết hợp với quyền lập pháp, lập qui và
hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các hoạt động của toàn bộ hệ thống.
2. Một số tính chất của QLNN về GD-ĐT.
QLNN về GD-ĐT là QLNN về một ngành, một lĩnh vực cụ thể nhưng nó cũng có
những tính chất của QLNN và QLHCNN nói chung, ở đây chỉ xin nhắc lại năm tính
chất cần lưu ý, đó là:
+ Tính lệ thuộc vào chính trị: QLNN về GD phụ tùng và phục vụ nhiệm vụ chính
trị, tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước.
+ Tính XH: GD là sự nghiệp của NN và của toàn XH. Trong QLNN về GD cần
phải coi trọng tính XH hoá và dân chủ hoá GD (DCH GD). GD&ĐT luôn phát triển
trong mối quan hệ với sự phát triển của KT-XH vì vậy QLNN về GD cần lưu ý tính
chất này để có những điều chỉnh phù hợp.
+ Tính pháp quyền: QLNN là QL bằng pháp luật; QLNN về GD cũng phải tuân
thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy định cho mọi hoạt động QL các hoạt động
GD-ĐT. Tăng cường pháp chế XHCN.
+ Tính chuyên môn nghiệp vụ: Công chức hoạt động trong lĩnh vực GD-ĐT cần
phải được đào tạo với các trình độ tương ứng với các ngạch, bậc đã được quy định.
Việc tuyển chọn công chức cần đáp ứng các chuẩn mà nhà nước đã ban hành.
+ Tính hiệu lực, hiệu quả: Lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn-nghiệp vụ để
đánh giá cán bộ công chức, viên chức ngành GD-ĐT; Chất lượng, hiệu quả và sự bảo
đảm trật tự kỷ cương trong GD-ĐT là thước đo trình độ, năng lực, uy tín của các cơ sở
GD-ĐT và của các cơ quan QLNN về GD-ĐT.
3. Một số đặc điểm của QLNN về GD-ĐT.
Ở phần tính chất nêu trên chúng ta đã điểm qua một số tính chất của QLNN về
GD&ĐT, tuy nhiên trong mỗi tính chất có những nét đặc biệt riêng có thể được nhấn

mạnh hơn và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý. Trên cơ sở nhận thức đó cần
nhấn mạnh ba đặc điểm chủ yểu sau:
+ Đặc điểm kết hợp quản lý hành chính và quản lí chuyên môn trong các hoạt
động quản lý giáo dục (đặc điểm HC-GD). Nó vừa theo nguyên tắc quản lý hành
chính nhà nước đối với hoạt động của quản lý giáo dục, vừa theo nguyên tắc hành
chính giáo dục đối với một cơ sở giáo dục. Hành chính - giáo dục thực chất là triển


5

khai chức năng, nhiệm vụ quyền hạn do Nhà nước qui định (phân cấp, phân công hoặc
uỷ quyền), Các cơ quan, tổ chức thay mặt Nhà nước triển khai sự nghiệp GD&ĐT và
điều hành, điều chỉnh các hoạt động GD-ĐT. QLHC thực chất là việc xây dựng các
văn bản pháp quy và chấp hành các văn bản. Kết hợp với quản lý giáo dục là đưa việc
xây dựng các văn bản cho các hoạt động chuyên môn của giáo dục và làm cho một
người hiểu, biết được các qui định của văn bản để thực hiện cho đúng.
Ví dụ: Từ quy định của Bộ GD&ĐT về việc soạn bài, giảng bài, chấm bài .v.v.
Cơ quan Sở, Phòng GD&ĐT thậm chí đến hiệu trưởng nhà trường sẽ có những quy
định chi tiết hơn về các vấn đề đó để đảm bảo tính cụ thể, thiết thực và phù hợp với địa
phương và cơ sở giáo dục, trên cơ sở đó giáo viên chấp hành thực hiện các quy định về
chuyên môn. Đó chính là cách làm “hành chính hoá” các hoạt động chuyên môn…
Như vậy, Đặc điểm HC- GD là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động quản lí
nhà nước về GD-ĐT nhằm bảo đảm môi trường sư phạm thuận lợi cho việc thực hiện
được mục tiêu giáo dục mà Nhà nước quy định.
Cần lưu ý rằng quan tâm thích đáng đến đặc điểm này sẽ giúp cho các CBQLGD
giải quyết tốt mối quan hệ ngành- lãnh thổ trong hoạt động QLGD. Chỉ đạo hay quản
lý các hoạt động GD-ĐT trên 1 địa bàn cần phải hiểu rõ nghiệp vụ SP, đặc điểm của
quá trình GD để chỉ đạo, quản lý chuyên môn. Chỉ trên cơ sở biết kết hợp QLHC và
QLCM thì mới có thể chỉ đạo, quản lý tốt hoạt động GD-ĐT tiến tới thực hiện tốt mục
tiêu GD-ĐT của Nhà nước.

+ Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí.
Đặc điểm thứ hai của QLNN về GD-ĐT cũng là đặc điểm nổi bật của QLNN và
QLHCNN nói chung ở mọi lĩnh vực, đó là tính quyền lực nhà nước trong các hoạt
đóng quản lí. Đặc điểm này biểu hiện ở 3 vấn đề cơ bản sau :
. Điều kiện để triển khai quản lí nhà nước là phải có tư cách pháp nhân và yêu
cầu về tính hợp pháp trong quản lí là yêu cầu trước hết. Muốn có tư cách pháp nhân để
quản lí phải được bổ nhiệm và khi đã được bổ nhiệm cần phải thực hiện đúng, đủ chức
năng, thẩm quyền. Không lạm quyền cũng không đùn đẩy trách nhiệm; thực hiện đúng
chế độ thủ trưởng trong việc ra quyết định và trong việc chịu trách nhiệm về các quyết
định quản lí trước tập thể và cấp trên. Trong QLNN sẽ không có tư cách pháp nhân để
"ra quyền” khi chưa được bổ nhiệm. Tuy nhiên, mỗi tư cách pháp nhân đều có trách
nhiệm và quyền hạn tương ứng, việc hiểu cho đúng, làm cho đủ “thẩm quyền” là
thước đo khả năng “sử dụng quyền lực nhà nước” của một tư cách pháp nhân. Trong
thực tế “Phép vua thua lệ làng”, “thủ kho to hơn thủ trưởng” đều phát sinh do không
nhận thức đúng “tính quyền lực nhà nước trong các hoạt động quản lí”. “Thoái
quyền” và “lạm quyền” là hai thái cực của sự vi phạm “thẩm quyền”, mặt khác khái
niệm “thẩm quyền” cũng gắn với sự phân cấp và tuân hủ thứ bậc chặt chẽ trong
QLNN.


6

. Phương tiện QLNN về GD-ĐT là các văn bản pháp luật và pháp qui. Phương
pháp chủ yếu để QLNN là phương pháp Hành chính - Tổ chức (HC-TC). Cần nhận
thức rằng tháp luật, pháp quy là sự cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và nhà
nước; phản ánh lợi ích của toàn dân, vì vậy đây chính là lành lang pháp lí cho việc
triển khai các hoạt động QLGD, bảo đảm tính quyền lực nhà nước trong quản lí. Việc
không tuân thủ hành lang pháp lí trong các hoạt động QLGD tức là vi phạm trật tự kỳ
cương và sẽ bị xử lí theo tuy định của pháp luật.
. Trong QLNN phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động quản lí theo sự phân cấp

rõ ràng và mệnh lệnh - phục tùng là biểu hiện rõ nhất của tính quyền lực trong QLNN.
Tính quyền lực nhà nước ở đây cũng chính là việc CBQL GD cấp phòng cần nhận
thức đầy đủ rằng cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung
ương trong quá rình QLGD.
+ Đặc điểm kết hợp Nhà nước-xã hội trong quá trình triển khai QLNN về GD.
Chúng ta đều biết GD&ĐT là một hoạt động mang tính xã hội cao và Đảng ta
cũng đã nhấn mạnh tư tưởng GD&ĐT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn
dân.
Rõ ràng, dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có tính
chiến lược và nó có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và QLGD
nói riêng; rất nhiều bài toán QLGD sẽ rất khó giải quyết nếu không có sự tham gia của
đông đảo lực trong xã hội. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong
QLGD.
Tóm lại : QLNN về GD&ĐT là thực hiện chức năng - nhiệm vụ thẩm quyền do
Nhà nước qui định, phân cấp trong các hoạt động QLGD. Ở một cơ sở giáo dục,
QLNN về GD&ĐT thực chất là quản lí các hoạt động HC-GD, vì vậy nó có hai mặt
quản lí thâm nhập vào nhau, đó là QLHC sự nghiệp giáo dục và QLCM trong quá trình
sư phạm: Chính vì vậy, QLNN về GD&ĐT cần lưu ý các đặc điểm nêu trên..
4. Một số nguyên tắc QLNN về GD&ĐT cần lưu ý :
Trong phần QLNN, QLHCNN và lí luận QLGD có nêu một số nguyên tắc cơ bản
trong quản lý. Ở đây xin nhấn mạnh hai nguyên tắc cần được lưu ý trong việc triển
khai các hoạt động QLNN về GD&ĐT.
+ Nguyên tắc kết hợp ngành - lãnh thổ.
Mọi cơ sở giáo dục - nhà trường thực hiện chức năng, nhiệm vụ GD-ĐT theo sự
chỉ đạo của các cơ quan quản lý giáo dục đóng trên một địa bàn cụ thể nào đó, vì vậy
cũng phải tuân thủ sự quản lí hành chính của địa phương theo qui định phân cấp của
Nhà nước. Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này dưới góc độ vĩ mô có thể diễn đạt
như sau: Sự nghiệp GD&ĐT, HTGDQD là một thể thống nhất. Bộ GD&ĐT là cơ quan
QLNN về GD&ĐT thống nhất trong phạm vi cả nước. Chính quyền địa phương



7

QLNN về GD&ĐT thông qua cơ quan chuyên môn của mình theo chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn do Nhà nước qui định phù hợp với cơ chế phân cấp. Để thực hiện được
điều đó Nhà nước đã quy định cụ thể nhiệm vụ quyển hạn của ngành và địa phương
như sau:
. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA BỘ GD-ĐT được qui định ở Nghị định
85/2003/NĐ-CP, ngày 18/7/2003. Ví dụ:
(1) Về giáo dục đại học.
. Trình Chính phủ: cơ cấu ngành đào tạo, cơ cấu đầu tư và các chính sách về bảo
đảm chất lượng đào đào CĐ, ĐH và sau ĐH; chỉ đạo, kiểm tra, tổ chức thực hiện sau
khi dược phê duyệt;
. Quy định chương trình khung GD ĐH, nội dung, phương pháp đào tạo SĐH,
chủ trì phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh
kiểm tra các trường đại học, cao đẳng trong việc xây dựng chương trình đào tạo theo
chương trình khung do Bộ GD&ĐT ban hành, kiểm tra các cơ sở đào tạo SĐH thực
hiện chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo;
(2) Về giáo dục trung học chuyên nghiệp.
. Trình Chính phủ: cơ cấu ngành đào tạo, cơ cấu đầu tư và các chính sách về bảo
đảm chất lượng đào đào THCN; chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện sau khi được phê
duyệt:
. Quyết định danh mục đào tạo ngành nghề đào tạo THCN: phối hợp với các bộ
chuyên ngành quy định chương trình khung về GDTHCN;
. Hướng dẫn, kiểm tra các bộ và UBND tỉnh thực hiện chức nang QLNN về
GDTHCN theo phân công, phân cấp của Chính phủ:
(3) Về giáo dục phổ thông.
. Trình Chính phủ về chủ trương cải cách nội dung, chương trình giáo dục, mục
tiêu quốc gia về PCGDPT và chỉ đạo thực hiện sau khi được phê duyệt;
. Quy định về việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành SGK và tổ chức biên

soạn, xét duyệt SGK trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định SCK;
. Hướng dẫn, kiểm tra UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN về GDPT theo
phân cấp cơ Chính phủ.
(4) Về giáo dục mầm non.
. Ban hành nội dung, chương trình và phương pháp GDMN; ban hành quy chế tổ
chức hoạt động;
. Hướng dẫn, kiểm tra UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN về GDMN theo
phân cấp của Chính phủ.


8

(4) Về phương thức giáo dục không chính quy.
. Ban hành chương trình xoá mù chữ;
. Quy định chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống GDQD theo hình
thức vừa học vừa làm, học từ xa, tự học có hướng dẫn.
. Ngoài các vấn đề trên, Bộ GD&ĐT còn trình chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
về các vấn đề chủ yếu sau:
. Các chế độ. chính sách đặc thù đối với nhà giáo và CBQLGD;
. Khung học phí, cơ chế thu và sử dụng học phí; các chính sách khuyến khích
khác đối với người học;
. Ban hành tiêu chuẩn cụ thể của nhà giáo và CBQLGD; các quy định về chương
trình đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ và chuẩn hoá nhà
giáo và CBQLGD
. Ban hành các quy định về tuyển sinh, quản lý học sinh, sinh viên, học viên.
NCS
. Quy định tiêu chuẩn bảo đảm chất lượng giáo dục; thống nhất quản lý việc kiểm
định chất lượng giáo dục;
. Tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ trong hoạt động GD&ĐT;

. Thực hiện chức năng thanh tra giáo dục trong cả nước;
. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Bộ theo
mục tiêu và nội dung chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước;
. Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, chỉ đạo thực hiện các chế độ tiền lương,
các chế độ chính sách đãi ngộ thuộc phạm vi quản lý của Bộ; đào tạo, bồi dương về
chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong lĩnh vực
giáo dục;
. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN HĐND ĐỊA PHƯƠNG (theo Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003)
(+) HĐND cấp tỉnh:
. Quyết định cho trương, biện pháp phát triển giáo dục, đào tạo ở địa phương.
. Quyết định qui hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp.
. Bảo đảm cơ sở vật chất và điều kiện cho các hoạt động giáo dục, đào tạo ở địa
phương.
. Giám sát việc tuân theo pháp luật về giáo dục, đào tạo của cơ quan nhà nước,


9

tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và của nông dân ở địa phương. .
(+) HĐND cấp huyện:
Quyết định các biện pháp và điều kiện cần thiết để xây dựng và phát triển mạng
lưới giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy hoạch chung.
(+) HĐND cấp xã:
. Quyết định biện pháp bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ em vào học tiểu
học đúng độ tuổi, hoàn thành chương trình PCGDTH; tổ chức các trường mầm non;
thực hiện BTVH và xoá mù chữ cho những người trong độ tuổi;
. Quyết định việc xây dựng, tu sửa trường lớp thuộc địa phương quản lý.
. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA UBND ĐỊA PHƯƠNG :

(+) Đối với cấp tỉnh;
. Quản lý các trường, các cơ sở giáo dục theo sự phân cấp;
. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong tỉnh từ trình độ CĐSP trở xuống;
. Quản lý và kiểm tra việc thực hiện về tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và
việc cấp văn bằng theo quy định của pháp luật;
. Thực hiện thanh tra, kiểm tra công tác giáo dục, đào tạo trên địa bàn tỉnh theo
quy đinh của pháp luật.
(+) Đối với cấp huyện:
. Xây dựng các chương trình, đề án phát triển giáo dục và tổ chức thực hiện sau
khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
. Tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phổ cập giáo
dục, quản lý các trường tiểu học, THCS, trường dạy nghề; tổ chức các trưởng mầm
non;
. Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục trên địa bàn; chỉ đạo việc xoá mù
chữ;
. Thực hiện các tiêu chuẩn về giáo viên, quy chế thi cử.
(+) Đối với cấp xã:
. Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương; phối hợp với
trường học huy động trẻ em vào lớp 1 đúng độ tuổi; tổ chức thực hiện các lớp bổ túc
văn hoá, thực hiện xoá mù cho những người trong độ tuổi;
. Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp mẫu giáo,
trường mầm non ở địa phương; phối hợp với UBND cấp trên quản lý trường tiểu học,
trường THCS trên địa bàn.
Nói chung, chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm môi trường KT-XH


10

lành mạnh cho các hoạt động giáo dục diễn ra đúng mục tiêu của Nhà nước, đáp ứng
nhu cầu phát triển của địa phương.

Trong hoạt động quản lý ở một cơ sở GD-ĐT phải tuân thủ những quy định, quy
chế chuyên môn của ngành học (thực hiện quy chế thi cử, văn bàng chứng chỉ, chỉ thị
năm… ). Sự kết hợp có hiệu quả sự chỉ đạo của ngành và lãnh thổ trong việc triển khai
các hoạt động QLGD là một nguyên tắc rất quan trọng trong QLNN về GD-ĐT.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ.
. Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước của nước ta. QLNN về GD&ĐT cũng tuân thủ nguyên
tắc này với góc độ vĩ mô nguyên tắc này có nghĩa là Nhà nước thống nhất quản lý
HTGDQD về mục tiêu chương trình, nội dung…. qui chế thi cử và hệ thống văn bằng
(Điều 13 - Luật giáo dục). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về QLGD cho địa phương và
tạo điều kiện để cơ phát huy chủ động và sáng tạo. Để hiểu đúng và có thể vận dụng
được trong hoạt động LNN về GD&ĐT, ở cơ sở, cần suy nghĩ trả lời câu hỏi: làm thế
nào giải quyết tốt mối lan hệ giữa chế độ thủ trưởng và thực hiện dân chủ cơ sở ở một
trường học ?
Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ đối với QLNN về GD&ĐT có nghĩa là
Nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo dục; về mục tiêu,
nội dung giáo dục và qui chế văn bằng… đồng thời tạo điều kiện cho cơ sở chủ động
sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động giáo dục và QLGD cụ thể, tránh việc ôm
đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân cấp, phân quyền về QLGD rõ ràng bằng một
hành lang pháp lí hợp lí, đồng bộ. Đối với cơ sở phát huy quyền làm chủ của tập thể sư
phạm, đồng thời đề cao trách niệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng đối với việc QLNN,
trong tổ chức điêu hành công việc hàng ngày cần thực hiện tốt chế độ thủ trưởng
nhưng phải bảo đảm thực hiện quy chế làm chủ ở cơ sở.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QLNN VỀ GD&ĐT.
Theo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước thống
nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch
giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng (Điều 36 Hiến
pháp nước CHXHCNVN đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Để thực hiện đưa
những vấn đề quản lý như trên, nội dung cơ bản của QLNN về GD&ĐT được quy định
trong Luật Giáo dục như sau:

1. Những nội dung cơ bản của QLNN về GD-ĐT theo điều 86 Luật Giáo dục.
(1) Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển giáo dục ;
(2) Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản qui phạm pháp luật kê giáo dục ; ban
hành Điều lệ nhà trường ; ban hành qui định về tổ chức và hoạt động của các cơ sở


11

giáo dục khác ;
(3) Qui định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục ; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu
chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học ; việc biên soạn, xuất bản; in và phát hành
sách giáo khoa, giáo trình ; qui chế thi cử và cấp văn băng ;
(4) Tỏ chức bộ máy quản lí giáo dục ;
(5) Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lí nhà giáo và cán bộ quản lí
giáo dục ;
(6) Huy động, quản lí, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục ;
(7) Tố chức, quản lí công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ trong ngành giáo
dục ;
(8) Tồ chức, quản lí công tác quan hệ quốc tế về giáo dục ;
(9) Qui định việc tặng các danh hiệu vinh dự cho những người có nhiều công lao
đối với sự nghiệp giáo dục ;
(10) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết, khiếu
nại, tố cáo và xử lí các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.
2. Những nội dung chủ yếu của QLNN về GD&ĐT.
+ Các nhóm nội dung chủ yếu.
Nếu nghiên cứu kĩ ta thấy khoản 1, 2, 3 của điều 86 thực chất là : Hoạch định
chính sách, lập pháp, lập qui cho các hoạt động GD-ĐT và thực hiện quyền hành pháp
trong các hoạt động ỌLGD. Khoản 4, 5, 9 của điều 86 thực chất là vấn đề tổ chức bộ
máy QLGD. Khoản 6, 7, 8 thực chất là huy động, quản lí các nguồn lực để phát triển

giáo dục, còn khoản 10 điều 86 đó chính là nội dung nói về thanh tra - kiểm tra việc
chấp hành pháp luật. Như vậy, có thể nói nội dung QLNN về GD&ĐT có thể nhóm lại
thành 4 nhóm nội dung chủ yếu:
(l) Hoạch định chính sách cho GD-ĐT. Lập pháp và lập qui cho các hoạt động
GD&ĐT. Thực hiện quyền hành pháp trong QLGD.
(2) Tổ chức bộ máy QLGD.
(3) Huy động và quản lí các nguồn lực để phát triển sự nghiệp GD.
(4) Thanh tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự kỉ cương pháp luật trong hoạt động
QLGD và phát triển sự nghiệp GD.
Tuy nhiên QLNN ở các cấp độ khác nhau được cụ thể hoá nội dung không hoàn
toàn giống nhau.
+ Đối với bộ GD&ĐT:
Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan thành viên của Chính phủ thực hiện quyền


12

QLNN về GD-ĐT ở cấp trung ương cần tập trung làm tốt những nội dung sau:
. Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển giáo dục; Xây dựng và ban hành hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ cho việc tổ chức và triển khai các hoạt
động mới giáo dục trong toàn hộ hệ thống giáo dục quốc dân;
. Xây dựng, củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy quản lý giáo dục tử
Trung ương đến cơ sở theo hướng đổi mới quản lý giáo dục, xác định lại chức năng
nhiệm vụ của từng quan quản lý, thực hiện phân công, phân cấp và đề cao tính tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cua sở nhằm nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả trong quản lý;
. Xây dựng chính sách và cơ chế huy động, sử dụng và quản lí các nguồn lực
nhằm bảo đảm các điều kiện cho việc thực hiện đổi mới giáo dục.
. Tổ chức thanh tra, kiểm tra các hoạt động giáo dục ở các bậc học, ngành học
trên phạm vi toàn quốc; đánh giá và thẩm định chất lượng giáo dục.
(+) Đối với cấp địa phương:

Theo Nghị định số 166/2004/NĐ-CP ngày 16/9/2004, Chính phủ đã quy định
trách liệm quản lý nhà nước về giáo dục của UBND các cấp. Cấp địa phương (tỉnh,
huyện thông qua cơ quan chuyên môn của mình là Sở và Phòng GD&ĐT) thì cẩn tập
trung làm tốt những nội dung chủ yếu sau :
. Xây dựng, trình và tồ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án
phát triển giáo dục ở địa phương.
. Giúp UBND quản lý công tác chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chức, biên chế nhân
sự, tài chính, tài sản và các hoạt động giáo dục khác của các cơ sở giáo dục theo đúng
quy định ra pháp luật.
. Xây dựng, trình HĐND, UBND các giải pháp thực hiện xã hội hoá giáo dục ;
chỉ đạo hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện ;
. Thực hiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành luật về giáo dục, xử lý vi phạm
hoặc kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử ]ý vi phạm trong lĩnh vực giáo dục theo quy
định của pháp luật..
+ Đối với cấp cơ sở giáo dục (cấp trường) tập trung làm tốt những nội dung chủ
yếu sau:
. Tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách GD&ĐT thông qua việc thực hiện
mục tiêu nội dung, kế hoạch giáo dục và bảo đảm các quí chế chuyên môn, thi cừ …
do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành ;
. Quản lí đội ngũ sư phạm, học sinh, CSVC, tài chính … theo các qui định của
pháp luật ;
. Điều hành các hoạt động của nhà trường theo điều lệ nhà trường, nội quy nhà
trường và giám sát sự tuân thủ đó;


13

. Kết hợp các hoạt động kiểm tra nội bộ trường học với thanh tra của các cấp
quán lý.
Như vậy, mặc dù nội dung QLNN về GD&ĐT đã được thể chế hoá thành điều 86

Luật Giáo dục, nhưng trong thực tiễn cần nhấn mạnh các nội dung theo cấp độ quản lí,
điều này xác định “trọng số quan tâm” ở mỗi cấp độ. Nếu ở cấp trung ương chú trọng
đến nội dung xây dựng cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển cho ngành ở
phạm vi cả nước thì ở cấp độ địa phương (Sở - Tỉnh, Phòng - Huyện) lại khu trú phạm
vi nội dung trên ở địa bàn được phân cấp, còn ở cơ sở (nhà trường) nơi mà QLNN
được hiểu rất cụ thể là thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do nhà nước uỷ
quyền triển khai các hoạt động quản lí nhà trường thì lại coi trọng việc tổ chức thực
hiện những qui định của nhà nước (mà cụ thể là điều lệ nhà trường) ở những hoạt động
giáo dục và QLGD cụ thể. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng QLNN cẩn làm tốt công
tác thể chế hoá và tăng cường giám sát việc thực hiện. Tuy cấp độ thể chế hoá ở mỗi
cấp không hoàn toàn giống nhau nhưng vai trò giám sát, thanh tra thì phải coi trọng ở
mỗi cấp độ theo sự phân cấp rõ ràng.
3. Thực trạng, phương hướng đổi mới và biện pháp thực hiện QLNN về GD&ĐT.
- Thực trạng
+ Nhìn chung, những vấn đề nêu ra ở trên đã được quan tâm thực hiện trong thực
tế. Tuy nhiên theo nhận định của NQTW 2 chúng ta chưa làm tốt chức năng QLNN về
GD-ĐT. Những yếu kém bất cập diễn ra đã minh chứng điều đó. Ví dụ : việc thực hiện
các mục liêu GD và QLGD còn thấp ; công tác kiểm tra, thanh tra chưa phát huy hết
tác dụng ; chức năng, nhiệm vụ đặc biệt chức năng, nhiệm vụ QLNN qui định thiếu rõ
ràng, chồng chéo, vì vậy QLNN còn vừa ôm đồm vừa buông lỏng…
+ Trong báo cáo về tình hình giáo dục trước Quốc hội (tại kỳ họp thứ 6, Quốc
hội XI), Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển đã xác định: nói chung, chất lượng giáo dục đại
trà còn thấp so với yêu cầu phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới; các
điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục còn bất cập ; một số tiêu cực trong giáo dục
chậm được giải quyết.
Bộ trưởng đã chỉ rõ những nguyên nhân của các yếu kém trong giáo dục là :
(+) Tư duy giáo dục chậm được đổi mới, chưa theo kịp thực tiễn phát triển của
đất nước, yêu cầu chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
. Các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục chưa được
quán triệt sâu sắc và cụ thể hoá kịp thời. Nguyên lý giáo dục chưa thực sự được coi

trọng. Giáo dục còn chưa gắn chặt với nhu cầu thực tiễn, chưa chú trọng thực hành,
chưa phát huy sự chủ động, sáng tạo của người học; phối hợp giáo dục gia đình - nhà
trường - xã hội còn lỏng lẻo.
Công tác nghiên cứu khoa học giáo dục và dự báo còn bất cập, chưa nhận thức và


14

lý giải được nhiều vấn đề đặt ra cho giáo dục trong tình hình mới.
Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa kế hoạch phát triển và thị trường lao động ;
giữa mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng; giữa đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng
cao của nhân dân và khả năng kinh tế xã hội của đất nước còn thấp ; giữa đầu tư của
Nhà nước và đóng góp của nhân dân ; giữa tình trạng phân hoá giàu nghèo và những
chính sách đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục.
. Quản lý về giáo dục còn yếu kém và bất cập :
. Cơ chế quản lý giáo dục chưa tương thích với nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và nhu cầu phát triển nhân lực của đất nước. Quản lý nhà nước về giáo dục còn
mang nặng tính tập trung quan liệt ; chưa thoát khỏi tình trạng ôm đồm, sự vụ.
. Chính phủ đã có chủ trương, nhưng còn chậm đưa ra những quyết sách đồng bộ
ở tầm vĩ mô nhằm thay đổi cơ chế đầu tư, huy động các nguồn lực phát triển giáo dục.
Trong chủ trương XHH giáo dục, còn chậm có chính sách giải quyết vướng mắc về đất
đai, về quyền sở hữu và thu nhập của các nhà đầu từ khi tham gia mở các trường ngoài
công lập.
. Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ, TB&XH chưa tập trung xây dựng các cơ chế chính sách
về công tác quản lý ngành. Các văn bản pháp quy còn thiếu, chưa ban hành kịp thời,
một số còn chồng chéo ; trong khi đó lại trực tiếp quản lý một số công việc cụ thể
mang tính sự vụ.
. Việc phân công, phân cấp và cơ chế phối hợp giữa Bộ GD&ĐT với các bộ,
ngành, địa phương chưa được thể chế hoá một cách cụ thể, nhất là trong việc phối hợp
giải quyết một số vấn đề bức xúc của giáo dục. Một số địa phương vẫn còn ỷ lại, thiếu

chủ động trong việc giải quyết các vấn đề về giáo dục.
Như vậy, nguyên nhân quản lý giáo dục còn yếu kém, bất cập và các cấp quản lý
giáo dục còn chậm đổi mới tư duy và phương thức quản lý… có thể là nguyên nhân
cơ bản của nhiều vấn đề bức xúc, hạn chế trong giáo dục, do đó, đổi mới quản lý giáo
dục đang tà vấn đề bức bách hiện nay đối với sự phát triển giáo dục Việt Nam. Đây là
yêu cầu do nhiều năm trước để lại và bây giờ yêu cầu dài mới ngày càng nhiều lên.
4. Những nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đến năm 2010.
Để khắc phục những vấn đề yếu kém bất cập nêu trên cần quán triệt tinh thần của
NQTW và tinh thần CCHC và những đề xuất của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT trước Quốc
hội, những nhiệm vụ và giải pháp phát triển giáo dục chủ yếu tập trung vào các vấn đề
sau :
+ Tiếp tục đổi mới tư duy giáo dục :
. Cần nhận thức sâu sắc hơn về mục tiêu giáo dục trong thời kỳ mới. Thế hệ trẻ
do nhà trường đào tạo phải trung thực năng động và sáng tạo, biết hợp tác và cạnh


15

tranh lành nạnh có hoài bão, có ý chi vươn lên, tự lập thân, lập nghiệp, làm giàu cho
bản thân và góp thần đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu.
. Nền giáo dục Việt Nam trong giai đoạn tới phải lý nền giáo dục cho mọi người.
hướng tới một xã hội học tập. HTGDQD không chỉ dành cho tuổi trẻ, mà cho mọi
người để học tập suốt đời. XHHGD là giải pháp cơ bản để huy động mọi nguồn lực
nhằm phát triển giáo dục và xây dựng xã hội học tập.
. Giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải đáp
ứng đòi hỏi của các đối tượng khác nhau với các mục tiêu khác nhau. Nhà nước cần
tạo cơ chế, mạnh dạn huy động nguồn lực và trí tuệ từ nhân dân để phát triển giáo dục,
đồng thời với việc tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục, cần có sự điều chỉnh phân
bổ để tập trung giải quyết các mục tiêu ưu tiên.
. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia cho giáo dục bao gồm : chuẩn

kiến thức, kỹ năng đối với cấp học, bậc học và trình độ đào tạo và chuẩn các điều kiện
bảo đảm chất lượng giáo dục (đội ngũ nhà giáo, CBQLGD, công nhân viên, SGK, giáo
trình và tài liệu tham khảo ; trường sở, thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện, sân chơi,
bãi bập .v.v…); các yêu cầu cơ bản về đạo đức, tác phong và trách nhiệm của người
học trước gia đình và xã hội. Hệ thống chuẩn là căn cứ để chỉ đạo thực hiện và đánh
giá chất lượng giáo dục.
. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo chỉ thị
40- CT/TW của Ban Bí Thư và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 09/2005/QĐTTg. Mở rộng phương thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên với nội dung chủ yếu là đổi
mới pháp dạy học, làm cho mọi giáo viên đều quán triệt yêu cầu coi trọng vai trò chủ
động của người học, phát huy vai trò chủ động của người học, phát huy năng lực sáng
tạo trong cách tiếp thu và vận dụng tri thức vào cuộc sống ; phát triển ở người học
năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự đánh giá và khả năng lập nghiệp. Rà soát, bố trí, sắp
xếp lại đội ngũ CBQLGD. Tổ chức đào tạo bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ CBQLGD
tận tân, thạo việc và có năng lực điều hành.
. Đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện mạnh mẽ việc phân cấp trong quản lý giáo
dục. Triển khai Nghị định 166/2004/NĐ-CP của Chính phủ, thực hiện phân cấp cho
chính quyền địa phương quyết định và chịu trách nhiệm cụ thể hoá các chính sách giáo
dục, huy động nguồn lực, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát
triển giáo dục, đảm bảo phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục tại địa
phương. Bộ GD&ĐT xây dựng cơ chế để các địa phương cũng được quyết định một
phần chương trình, nội dung giáo dục phổ thông phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ
thể của mình.
+ Ban hành các quy định cụ thể để tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của cơ sở giáo dục về sản phẩm đào tạo, tài chính, nhân lực, tuyển sinh… Các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp giáo dục đại học được tự quyết định nội dung và chương trình


16

đào tạo trên cơ sở chuẩn thống nhất về kiến thức, kỹ năng và quy định về chương trình

khung.
Phần thứ 2: QUÁ TRÌNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Quá trình giáo dục là một quá trình. Sở dĩ nói quản lý giáo dục là một quá trình.
giáo dục là quá trình vì quản lý là hoạt động mang tính hướng đích, là sự vận động, sự
nối tiếp các trạng thái, có độ dài về thời gian, chịu tác động của các nhân tố bên trong
và bên ngoài, tuân theo những quy luật khách quan, biểu hiện thông qua hoạt động của
con người. Quá trình quản lý giáo dục là hoạt động của các chủ thể và đối tượng quản
lý thống nhất với nhau trong một cơ cấu nhất định nhằm đạt mục đích đề ra của quản
lý bằng cách thực hiện các chúc năng nhất định và vận dụng các biện pháp, nguyên
tắc, công cụ quản lý thích hợp.
Quá trình quản lý giáo dục được thể hiện theo sơ đồ dưới đây :
a) Thu nhận và phân tích thông tin về trạng thái của đối tượng bị quản lý ;
b) Ra quyết định quản lý ;
c) Đưa ra những tác động quản lý lên đối tượng bị quản lý :
d) Thu nhận và phân tích thông tin về trạng thái mới của các đối tượng bị quản
lý.
Quá trình quản lý được bắt đầu từ việc phân tích thông tin về trạng thái của hệ
thống bị quản lý. Thông tin này có thể biểu hiện dưới hình thức là những chỉ tiêu chất
lượng và số lượng đặc trưng cho trạng thái của hệ thống bị quản lý tại thời điểm trước
khi ra quyết định. Thông tin phải được nêu lên dựa trên cơ sở những mục tiêu cụ thể
đặt ra cho hệ thống bị quản lý.
Giai đoạn tiếp theo là chủ thể quản lý xây dựng quyết định quản lý dựa trên
những thông tin thu nhận được . Quyết định quản lý là phương tiện chủ yếu để chủ thể
quản lý tác động vào hệ thống bị quản lý, hướng các tổ chức vào việc phấn đấu đạt
mục tiêu giáo dục, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Quyết định quản lý phải bảo đảm tính
tối ưu. Những yếu tố cấu thành quyết định quản lý là : vạch ra kế hoạch chiến lược;
xác định mục tiêu, chỉ tiêu và kết quả của quyết định ; giải pháp và biện pháp cụ thể;
thu thập thông tin cần thiết về diễn tiến của đối tượng quản lý ; v.v…
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn dựa trên cơ sở quyết định đã chọn, chủ thể quản lý
dùng những biện pháp tác động đến đối tượng bị quản lý, làm cho nó chuyển từ trạng

thái này sang trạng thái khác bảo đảm việc thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Cuối cùng giai đoạn thứ tư, chủ thể quản lý thu thập thông tin về trạng thái của
đối tượng bị quản lý sau tác động. Từ đó có quyết định điều chỉnh hoặc chuyển sang
quá trình kế tiếp.


17

Điều vừa trình bày được thể hiện bằng sơ đồ 3.1 dưới đây

Sơ đồ 3.1. Quá trình quản lý giáo dục
Sơ đồ trên cho thấy quá trình quản lý cụ thể nào đó là quá trình khép kín. Nhưng
nhìn toàn cục thì quan niệm này là tương đối. Điều này thể hiện ở chỗ : giai đoạn sau
cùng của quá trình nào là khởi đầu cho quá trình kế tiếp. Ví dụ, quá trình quản lý năm
học được chia ra thành các quá trình quản lý từng học kỳ. Theo sơ đồ trên, quá trình
quản lý hoạt động giáo dục ở học kỳ hai là sự tiếp nối quá trình quản lý ở học kỳ một.
Sự phân tích quá trình quản lý lẽ ra phải theo sơ đồ trên: song, tác giả cuốn sách
này sẽ trình bày theo luật một logic hơi khác, tức là đi sâu vào các yếu tố của quá trình
quản lý như : các chức năng quản lý, các nguyên tắc quản lý, các phương pháp quản
lý: các hình thức quản lý, thông tin và các công cụ quản lý trong quản lý giáo dục. Như
vậy, bạn đọc có thể thấy các yếu tố này có điều kiện được trình bày cụ thể hơn và khi
liên hệ với sơ đồ trên cũng thấy rõ hơn.
Dưới dây sẽ phân tích cụ thể từng yếu tố của qui trình quản lý giáo dục, phần nội
dung quan trọng của cuốn sách này.
I - CÁC CHỨC NĂNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Khái niệm "chức năng" được dùng với nhiều nghĩa khác nhau. Trong Từ điển
Tiếng Việt, thuật ngữ này có hai nghĩa : "1/ Hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc
trưng của một cơ quan, một hệ cơ quan nào đó trong cơ thể ; 2/Tác dung, vai trò bình
thường hoặc đặc trưng của một người nào, một cái gì đó" 1 . Đương nhiên, ở đây nghĩa
thứ hai không thuộc lĩnh vực ta đang xét. Trong khi đó, G.Kh. Pôpôp viết : “Trước .

hết, một bộ phận của hoạt động quản lý. Hai là, một bộ phận đã được tách riêng ra của
hoạt động quản lý… Chức năng quản lý đó là một loại hoạt động quản lý đặc biệt, sản
phẩm của quá trinh phân công lao động và chuyên môn hoá trong quản lý, tiêu biểu
bởi tính chất tương đối độc lập của những bộ phận của quản lý” 2 . Thực chất, chức
năng quản lý là hình thức tồn tại của các tác động quản lý. Chức năng quản lý là hình
thái biểu hiện sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý
Trong quản lý, chức năng quản lý là một phạm trù quan trọng, mang tính khách quan,
có tính độc lập tương đối.
1 GS Hoàng Phê (Chủ biên) : Từ điển Tiếng Việt. Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ, Hà Nội. 1992
2 G.Kh.Pôpôp : Những vấn đề lý luận của quản lý, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.150


18

Chức năng quản lý nảy sinh và là kết quả của quá trình phân công lao động, là
bộ phận tạo thành hoạt động quản lý tổng thề, được tách riêng, có tính chất chuyên
môn hoá.
Về số lượng các chức năng quản lý nói chung, những tác gia nghiên cứu về quản
lý có ý kiến không giống nhau. Có tác giả thì nói ba, có tác giả nói bốn, có tác giả nói
năm, thậm chí có tác giả nói mười hai. Tuy nhiên, hầu hết đều đề cập tới bốn chức
năng chủ yếu sau :
• Kế hoạch hoá ;
• Tổ chức ;
• Điều khiển (chỉ đạo thực hiện) ;
• Kiềm tra.
Để thực hiện một chủ trương / chương trình / dự án… kế hoạch hoá là hành động
đầu tiên của người quản lý, là việc làm cho tổ chức phát triển theo kế hoạch. Trong
quản lý, đây là căn cứ mang tính pháp lý quy định hành động của cả tổ chức. Kế đó là
chức năng tổ chức. Thực hiện chức năng này, người quản lý phải hình thành bộ máy /
cơ cấu các bộ phận (tuỳ theo tính chất công việc, có thể tiến hành phân công, phân

nhiệm cho các cá nhân), quy định chức năng, nhiệm vụ từng bộ phận, mối quan hệ
giữa chúng. Điều hành (chỉ đạo, tổ chức thực hiện) là nhiệm vụ tiếp theo của người
quản lý. Đây là khâu quan trọng tạo nên thành công của kế hoạch dự kiến. Chính ở
khâu này, đòi hỏi người quản lý phải vận dụng khéo léo các phương pháp và nghệ
thuật quản lý. Cuối cùng, người quản lý phải thực hiện chức năng kiểm tra, nhằm đánh
giá việc thực hiện các mục tiêu đề ra. Điều cần lưu ý là khi kiểm tra phải theo chuẩn.
Chuẩn phải xuất phát từ mục tiêu, là đòi hỏi bắt buộc đối với mọi thành viên của tổ
chức.
Cuối cùng, tất cả các chức năng trên đều cần đến yếu tố thông tin. Thông tin đầy
đủ, kịp thời, cập nhật, chính xác là một căn cứ để hoạch định kế hoạch; thông tin cũng
cần cho các bộ phận trong cơ cấu tổ chức, là chất liệu tạo quan hệ giữa các bộ phận
trong tổ chức ; thông tin chuyển tải mệnh lệnh chỉ đạo (thông tin xuôi) và phản hồi
nhũng tin ngược) diễn tiến hoạt động của tổ chức ; và thông tin từ kết quả hoạt động
của tổ chức giúp cho người quản lý xem xét mức độ đạt mục tiêu của toàn tổ chức.
Các chức năng nêu trên lập thành chu trình quản lý. Chủ thể quản lý khi triển
khai hoạt động quản lý đều thực hiện chu trình này. (Xem sơ đồ 3.2):


19

Sơ đồ 3.2. Chu trình quản lý
Sau đây, ta sẽ xem xét từng chức năng cụ thể trong quản lý giáo dục.
1. Kế hoạch hoá trong quản lý giáo dục
Một tập thể lao động, trong đó mọi người liên kết với nhau hoạt động thực hiện
nhiệm vụ của tập thể mình và của bản thân mình. Nhiệm vụ cốt yếu của người quản lý
là làm thế nào đề mọi người biết nhiệm vụ của mình, biết phương pháp hoạt động
nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu của tổ chức. Đấy là chức năng kế hoạch hoá của
nhà quản lý. Kế hoạch hoá bao gồm việc xây dựng mục tiêu, chương trình hành động,
xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất
định của cả hệ thống quản lý và bị quản ]ý. Về chức năng này, có thể đề cập tới hai

vấn đề : các loại kế hoạch và việc lập kế hoạch trong giáo dục.
a) Các loại kế hoạch giáo dục
Có bốn cách phân loại chủ yếu :
- Dựa vào yếu tố thời gian, có : kế hoạch dài hạn 10 - 15 năm (còn gọi là kế
hoạch chiến lược, chiến lược giáo dục chẳng hạn), kế hoạch trung hạn 5 - 7 năm và kế
hoạch ngắn hạn 1 - 2 năm (ví dụ kế hoạch năm học).
- Dựa vào quy mô quản lý, có : kế hoạch tổng thể (ví dụ kế hoạch đổi mới giáo
dục phổ thông), kế hoạch bộ phận (ví dụ kế hoạch đổi mới giáo dục tiểu học).
Dựa vào nguồn lực giáo dục, có : kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất, kế hoạch
quản lý tài chính, kế hoạch phát triển đội ngũ, v.v…
- Dựa vào hoạt động giáo dục, có : kế hoạch dạy học, kế hoạch hoạt động ngoài
giờ lên lớp, v.v…
Sự thực, quan niệm về dấu hiệu phân chia và việc phân chia các loại kế hoạch
như trên cũng như chỉ là tương đối. Chẳng hạn, chiến lược giáo dục cũng có thể coi là
kế hoạch tổng thể, vừa có thể coi là kế hoạch chiến lược.
b) Lập kế hoạch trong giáo dục
- Lập kế hoạch trong quản lý nói chung cũng như trong quản lý giáo dục nói
riêng rất quan trọng: vì :


20

+ Nó có khả năng ứng phó với sự bất định và sự thay đổi. Ta biết rằng, giáo dục.
trong đó có quản lý giáo dục thường xuyên chịu sự chi phối của các nhân tố bên trong
và bên ngoài. Những thay đổi về số lượng, chất lượng liên quan đến giáo viên, học
sinh ; những tác động của kinh tế thị trường, của mở cửa, hội nhập ; những mặt tích
cực, tiêu cực của xã hội ; những thiên tai, bão lụt, v.v… là những biến đổi không
lường hết. Chính những biến đổi đó tác động đến giáo dục và quản lý giáo dục, làm
cho việc lập kế hoạch trở thành tất yếu. Mặt khác, nếu lập kế hoạch cho một thời gian
càng dài, người cán bộ quản lý càng ít có điều kiện kiểm tra tính đúng đắn của kế

hoạch. Thậm chí ngay trong tương lai gần, cũng không dám chắc là không có đột xuất
xảy ra. Đó là khi nhà quản lý không thấy được xu thế vận động do những tác động
quản lý của mình gây ra. Trong khi đề, nhà quản lý vẫn phải tìm cách tốt nhất để đạt
mục tiêu. Đó là những lý do cần thiết thứ nhất của việc lập kế hoạch đối với nhà quản
lý.
+ Việc lập kế hoạch cho phép nhà quản lý tập trung chú ý vào các mục tiêu.
Thực chất của việc lập kế hoạch là nhằm đạt mục tiêu của tổ chức, cũng là mục tiêu
của hoạt động quản lý. Kế hoạch sẽ giúp nhà quản lý có cái nhìn tổng thể, toàn diện,
qua đó thấy được hoạt động tương tác giữa các bộ phận. Mặt khác nhà quản lý qua
việc lập kế hoạch có thể nhìn thấy tương lai, có thể phải điều chỉnh những quyết định
trước đó, bảo đảm hướng vào mục tiêu đã định.
+ Việc lập kế hoạch cho phép lựa chọn những phương án tối ưu, tiết kiệm nguồn
lực tạo hiệu quả hoạt động cho toàn bộ tổ chức. Kế hoạch không cho phép hoạt động
tuỳ tiện, tản mạn, rời rạc và cũng không chấp nhận sự quyết định vội vàng, thiếu cân
nhắc.
+ Tầm quan trọng thứ tư của việc lập kế hoạch là tạo điều kiện dễ dàng cho việc
kiểm tra. Người quản lý không thể kiểm tra cấp dưới nếu không có mục tiêu xác định
để đo lường. Điều này còn gây hậu quả là không xác định được các trạng thái trung
gian cũng như cuối cùng của đối tượng quản lý. Và, đó cũng đồng nghĩa với việc quản
lý không theo kế hoạch.
Trên đây là bốn lý do để khẳng định tầm quan trọng của việc lập kế hoạch, điều
kiện tiên quyết của bất kỳ nhà quản lý cấp nào : vi mô cũng như vĩ mô.
- Những đặc điểm của việc lập kế hoạch
Lập kế hoạch, theo một khía cạnh nào đó có thể coi nó như là một thứ dự báo.
Tính chất dự báo càng thể hiện rõ trong việc lập kế hoạch chiến lược (Strategic
Planning). Nói đến "kế hoạch chiến lược", không chỉ ở cấp quản lý vĩ mô (như Bộ
Giáo dục và Đào tạo) mới có kế hoạch chiến lược mà nhà trường, với tư cách là đơn vị
cơ sở của hệ thống giáo dục quốc dân cũng có thể và có khả năng lập kế hoạch chiến
lược (ví dụ kế hoạch cho một cấp học).
+ Nhà quàn lý cần phải đặt trọng tâm vào tư duy và hành động mang tính chiến



21

lược, nghĩa là tư duy và hành động có tính toàn cục, cơ bản, quán xuyến suốt quá trình
quản lý. Tránh tình trạng cục bộ, thiển cận, chắp vá.
+ Việc lập kế hoạch phải chú trọng vào tương lai. Đối với giáo dục, có cả tương
lai gần (sau một năm học) và tương lai xa (sau một cấp học) và đều quan trọng như
nhau. Tương lai gần chính là những nấc thang đến tương lai xa. Điều khó khăn là phải
xác định "bóng dáng" của lương lai gần. Ví dụ chất lượng giáo dục sau một năm nọc.
năm kế tiếp là gì và năm cuối cấp là gì để có chất lượng của cả cấp học. Phải chăng
điều này đặt ra yêu cầu đối với nhiều nhà quản lý phải thay đổi thói quen chi vạch ra
kế hoạch của một năm học, mà không quan tâm đến kế hoạch các năm kế tiếp, nhất là
kế hoạch dài hạn cho cả một cấp học ?
+ Kế hoạch phải định hướng hoạt động không những của nhà quản lý mà của cả
tổ chức vào các kết quả đạt được. Đấy chính là cái đích của toàn bộ tổ chức, trong đó
có nhà quản lý.
+ Kế hoạch phải thể hiện tập trung sự quan tâm và nguồn lực vào các vấn đề
bức xúc nhất mà tổ chức đang quan tâm. Chẳng hạn, chất lượng giáo dục là vấn đề
bức xúc buộc nhà quản lý các cấp đều phải quan tâm và dành mọi nguồn lực cho nó.
+ Đặc điểm cuối cùng, trong kế hoạch phải quan tâm đến quan hệ hợp tác. Đây
cũng là điều xuất phát từ đặc điểm của giáo dục, một dạng hoạt động mang đậm tính
chất xã hội. Xã hội hoá công tác giáo dục chính là sự thể hiện đặc điềm này.
- Các bước của việc lập kế hoạch giáo dục
Đây là những bước mang tính chất kỹ thuật, giúp cho nhà quản lý dễ dàng thực
hiện chức năng kế hoạch hoá. Cụ thể :
Bước một : Nhận thức đầy đủ về yêu cầu của cấp trên thông qua những chỉ thị,
nghị quyết, v.v… Chẳng hạn, để lập kế hoạch phát triển giáo dục trong một năm học
cho một tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo phải nghiên cứu chủ trương: chỉ thị của Bộ, chủ
trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ, chính quyền địa phương về kinh tế - xã hội,

về giáo dục v.v…
Bước hai: Phân tích trạng thái xuất phát của đối tượng quản lý. Để làm việc
này, thường người ta dùng phương pháp phân tích theo SWOT: nghĩa là phải thấy
được nhưng điểm mạnh (Strength5), điểm yếu (Weaknesses), thời cơ (Opportunities)
và nguy cơ (Threats) của cả hệ thống. Đây là căn cứ quan trọng để hoạch định kế
hoạch. Trong quản lý giáo dục, đây là việc không mới lạ gì. Thông thường, trước khi
bước vào năm học, phần đầu của kế hoạch, người quản lý nhà trường nêu đặc điểm
tình hình nhà trường, những nhân tố thuận và không thuận bên trong và bên ngoài tác
động đến nhà trường. Điều muốn nói ở đây là sự phân tích những đặc điểm trên, nếu
theo phương pháp SWOT sẽ cho bức tranh toàn diện, khách quan, đặc biệt về chất
lượng giáo dục của năm học trước, về chất lượng học sinh mới vào trường, về nguồn
lực chủ yếu là thực trạng đội ngũ giáo viên nhà trường. Đây là căn cứ vững chắc,


22

thuyết phục làm căn cứ cho việc lập kế hoạch hành động, tạo khả năng huy động sự
tham gia tự giác, tích cực của đông đảo giáo viên và học sinh trong nhà trường.
Bước ba : Xác định nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch. Đây là điều
kiện làm cho kế hoạch khả thi. Nguồn lực giáo dục có hai dạng : nguồn lực bên trong
và nguồn lực bên ngoài. Nhưng quan trọng hơn là nguồn lực bên trong, bởi chỉ khi nội
lực bên trong mạnh mới có khả năng tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên
ngoài. Trong nguồn lực bên trong, chất lượng của đội ngũ giáo viên, trong đó có cán
bộ quản lý là yếu tố quyết định.
Bước bốn : Xây dựng “sơ đồ khung” 1 của việc lập kế hoạch, nhất là kế hoạch
chiến lược. Dưới đây bạn đọc có thể tham khảo sơ đồ khung về việc lập kế hoạch
chiến lược (Strategic Planning - Sp) 2 theo quan điểm của các nhà nghiên cứu quản lý
phương Tây. (Xem Sơ đồ 3.3).
Xin được diễn giải sơ đồ trên đây để bạn đọc hiểu rõ hơn.
Khi xây dựng kế hoạch chiến lược, cần:

Thứ nhất, phải xác định mục đích (Goal) và mục đích đó phải thoả mãn các điều
kiện sau :
• Các mục đích cần hài hoà với tuyên bố tầm nhìn, sứ mạng và giá trị của tổ
chức ;
3

• Các mục đích cần phản ánh các vấn đề chiến lược và các ưu tiên :

1. Thuật ngữ này do tác giả đề xuất.
2. Tài liệu tập huấn do Viện nghiên cứu phát triển giáo dục tổ chức tại Hạ Long, tháng 6
năm 2000 được tổng hợp từ các nguồn : J. Koteen : Stralegic Managent in Public and
Nonprofir Organizallons : John Bryson : Stralegic Planning for Public and Nonprofit
Organizalion (San Francisco. Jossey - Bas. 1990): Manageware: A Practical Guide to
Managing for Results (Baton Rouge : Louisiana Office of Planning and Budget. 1995) ; W.
Bennis and B. Nanus. Leader : The Stategies for Taking Charge (New York : Harper & Row
Publisher. 1985) : Wiuiam Dodge and Kim Montgomery : Shaping a Region’ s Future
(Asheville. NC : Land-of-Sky Regional Council. 1995) : v. v…
3. Tầm nhìn (vision) được hiểu là phát biểu về trạng thái tương lai có thể xảy ra. biểu
hiện mong muốn của tổ chức và cộng đồng. Tầm nhìn là mục tiêu kỳ vọng. Nó chỉ ra cầu nối
giữa hiện tại và tương lai.
Sứ mạng (mission) được hiểu là việc xác định chúng ta là ai, phục vụ ai, ta tồn tại vì các
mục tiêu nào, ta muốn đạt được các gì ?
Giá trị của tổ chức (Organizational values) được hiểu là ích lợi, có ý nghĩa đáng quý
của tổ chức đối với sự phát triển chung của xã hội cũng như của từng cá nhân trong tồ chức.


23

• Mỗi mục đích cần tập trung vào một sấn đề ;
• Các mục đích cần có định hướng hành động rõ ràng

• Các mục đích không bị ràng buộc vào thời gian ;
• Tổng số các mục đích càn giới hạn ở mức tối thiểu.

Sơ đồ 3.3. Sơ đồ khung của việc lập kế hoạch chiến lược
Thứ hai, phải xác định mục tiêu (Objective) trong sơ đồ là mục tiêu chung (hay
mục tiêu của toàn hệ thống). Nó có vị trí trong lập kế hoạch chiến lược như sau :
Là bước định lượng trung gian nhằm đạt dược tầm nhìn, sứ mạng và mục đích ;
- Nó liên kết trực tiếp với mục đích ;
• Nó là lời phát biểu (thành văn) về dự định có thể đo được và được định mốc
thời gian :
• Nội dung của nó thể hiện sự chú trọng tới các kết quả tại thời điểm kết thúc;
Mục tiêu quản lý giáo dục là cái đích phải đạt tới của quá trình quản lý. Nó được
xem là trạng thái mong muốn, khả thi và cần thiết trong tương lai đối với hệ thống giáo
dục, đối với cơ sở giáo dục là trường học hoặc đối với một vài thành tố / bộ phận của
hệ thống giáo dục, của nhà trường. Điều cần lưu ý các nhà quản lý là mục tiêu giáo
dục chỉ là một mục tiêu quản lý giáo dục. Đối với nhà quản lý, ngoài mục tiêu này còn
có nhiều mục tiêu khác nữa. Chẳng hạn : mục tiêu phát triển đội ngũ, mục tiêu bảo
đảm các điều kiện thực hiện các hoạt động giáo dục, v.v…
Đối với hoạt động quản lý, việc xác định mục tiêu ngay từ đầu quá trình quản lý
là một việc cực kỳ quan trọng, bởi nó là điểm xuất phát, định hướng, chi phối sự vận
động của toàn bộ quá trình quản lý. Do đó, có thể coi chất lượng và hiệu quả công tác


24

quản lý phụ thuộc một phần rất quan trọng vào việc xác định đúng đắn và cụ thể mục
tiêu quản lý. A.M. Ômarôp, nhà nghiên cứu quản lý cho rằng đây "là cơ sở, là tiền đề
quan trọng nhất để tổ chức quản lý có hiệu quả" 1 .
Việc xác định mục tiêu quản lý thường được tiến hành theo các phương pháp
như: ngoại suy thích ứng, chuyên gia, hoặc phối hợp với nhau. Phương pháp ngoại suy

dựa trên yêu cầu phân tích kinh nghiệm quá khứ trong việc thực "hiện mục tiêu quản
lý, từ đó loại trừ thiếu sót, xác định trình độ phát triển của hệ quản lý có thể chấp nhận
trong tương lai. Phương pháp thích ứng yêu cầu xác định lại hệ mục tiêu quản lý cho
hợp với tương lai. Phương pháp chuyên gia dựa trên trí tuệ tập thể các nhà khoa học và
các nhà hoạt động thực tiễn đề hoàn thiện mục liêu quản lý được đề xuất.
Cần lưu ý rằng, khi trình bày mục tiêu thường có hai loại : mục tiêu chung và
mục tiêu chi tiết cho từng bộ phận. Đối với từng bộ phận lại có thể chia ra nhiều cấp
(mục liêu cấp 1, mục tiêu cấp 2,…). Như vậy, nhà quản lý phải cụ thể hoá mục tiêu,
bảo đảm sự thống nhất của hệ mục tiêu, tránh sự chồng chéo, lại vừa thiết lập được
quan hệ ràng buộc giữa các bộ phận trong tổ chức. Vì vậy các tài liệu quản lý thường
nói đến việc trình bày các mục tiêu thành "cây mục tiêu" bao cảm mục tiêu chiến lược
tổng quát được cụ thể hoá thành các "cành", các "nhánh" là các mục tiêu cấp thấp.
Điều nữa là, có thể trình bày mục tiêu theo dạng định tính hoặc theo dạng định
lượng, cũng có thể là sự kết hợp hai dạng. Tốt nhất, nếu có thể, nên trình bày mục tiêu
dưới dạng định lượng. Các tác giả phương Tây thường đề ra năm tiêu
chuẩn 2 (SMART) của một mục tiêu dược viết tốt như sau :
• Đặc biệt (Specific) ;
• Đo được (Measurable) ;
• Tấn công (nhưng thành công) (Aggressive) (but Anainable) ;
• Định hướng tới kết quả (Results - oriented) ;
• Giới hạn thời gian (Time - bound).
Ví dụ mục tiêu sau đây : chẳng hạn năm học 2003 - 2004 giảm tỷ lệ lưu ban ở lớp
9 xuống còn 1% được xem là mục tiêu tốt vì nó bao hàm năm tiêu chuẩn SMART.
Mục tiêu là một khái niệm luôn luôn biến đổi và hoàn thiện cùng với sự phát
triển của xã hội, của hoạt động quản lý cũng như khoa học - công nghệ. Điều hiển
nhiên là việc xác định mục tiêu quản lý giáo dục là sự kết hợp các yêu cầu của kinh tế
- xã hội, các tính quy luật của giáo dục, của quản lý giáo dục với hoạt động có mục
1. Hà Thế Ngữ : Giáo dục hoc - một số vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội, 2001.
2. Manageware : A practial Guide to Managing for Results (Boton Rouge, LA :

Louisiana Office of Planning and Budget, 1995).


25

đích của chủ thể quản lý. Như vậy, sự thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ
quan thể hiện rõ trong vấn đề này.
Như đã trình bày ở trên, mục tiêu quản lý giáo dục cũng có nhiều cấp, ít ra có hai
cấp : vĩ mô và vi mô. Trong mỗi cấp cũng có nhiều loại. Chẳng hạn :
- Đối với cấp vĩ mô :
• Nếu dựa vào qui luật phát triển giáo dục (hay phát triển học vấn) và quy luật
quá trình giáo dục (hay quá trình sư phạm) 1 , ta có ví dụ như mục tiêu : nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài (mục tiêu phát triển giáo dục), hình thành và
phát triển nhân cách của học sinh trong nhà trường (mục tiêu sư phạm) ;
• Theo quy mô quản lý có mục tiêu tổng thể (ví dụ mục tiêu chung của cả hệ
thống giáo dục quốc dân) và mục tiêu bộ phận (ví dụ mục tiêu tiểu học, mục tiêu trung
học cơ sở,…) ;
• Nếu dựa theo thời gian, có mục tiêu dài hạn (thường 10, 15 năm), mục tiêu
trung hạn (thường 5, 7 năm) và mục tiêu ngắn hạn (thường 1, 2 năm) ;
• Nếu đưa vào yếu tố địa lý, có mục tiêu phát triển giáo dục theo vùng, miền;
• Nếu dựa vào đối tượng người học, có mục tiêu phát triển giáo dục cho trẻ em,
cho người lớn, cho trẻ em dân tộc thiểu số: cho trẻ em khuyết tật, v.v…
• Nếu dựa vào nguồn lực giáo dục, có các mục tiêu như quản lý phát triển đội
ngũ, mục tiêu quản lý cơ sở vật chất, mục tiêu quản lý ngân sách, mục tiêu thu hút đầu
tư cho giáo dục, v.v…
• v.v…
Điều trình bày trên không có nghĩa là trong kế hoạch giáo dục nhất thiết phải
phân biệt rạch ròi và đề ra đủ các loại mục tiêu như đã nêu. Vấn đề là ở chỗ việc phân
loại đó giúp cho người quản lý có tầm nhìn tổng thể, toàn diện khi hoạch định kế
hoạch hoạt động của tổ chức. Sự thực, nội dung của các mục tiêu phụ thuộc nhiều vào

đối tượng quản lý, cái mà chủ thể quản lý tác động vào.
- Đối với cấp vi mô (ví dụ như nhà trường) :
• Mục đích cao nhất, tạp trung nhất của người lãnh đạo nhà trường là thực hiện
cho được mục tiêu giáo dục mà xã hội đã đặt ra cho giáo dục. Đây là mục tiêu tối
thượng của người hiệu trưởng nhà trường.
• Dựa theo loại hình hoạt động giáo dục, có các mục tiêu như : mục tiêu quản lý
hoạt động dạy và học, mục tiêu quản lý hoạt động thẩm mỹ, mục tiêu quản lý hoạt
1. Hà Thế Ngữ : Giáo dục hoc - một số vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội, 2001.


×