Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tổng quan pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư và quỹ đầu tư chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.73 KB, 16 trang )

Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

MỤC LỤC

A / MỞ BÀI
Đầu tư vào chứng khoán ở nước ta hiện nay được coi là một lĩnh vực đầu tư
thời thượng vì tính mới mẻ và hấp dẫn của nó. Có thể nói thị trường chứng khoán
Việt Nam là một thị trường non trẻ so với sự phát triển của thị trường chứng khoán
thế giới. Tuy nhiên hiện nay thị trường chứng khoán nước ta đã có bước phát triển
vượt bậc so với giai đoạn hình thành ban đầu. Chứng khoán nước ta không chỉ thu
hút các nhà đầu tư chuyên nghiệp mà cả nhà đầu tư riêng lẻ, ít tiềm lực tài chính.
Thậm chí có thể nhận thấy nhiều doanh nghiệp mà chứng khoán không phải là
ngành nghề kinh doanh chính nhưng mức độ đầu tư vào lĩnh vực này là không nhỏ.
Hiện này có nhiều hình thức đầu tư chứng khoán được áp dụng tại Việt Nam
như công ty đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, đầu tư riêng lẻ…Bên
cạnh đó nhà đầu tư còn được cung cấp nhiều dịch vụ hỗ trợ như dịch vụ môi giới
chứng khoán, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán,

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

1

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

lưu ký chứng khoán và nhiều dịch vụ khác. Mỗi hình thức, mỗi dịch vụ có những ưu
nhược điểm khác nhau, phù hợp với nhu cầu và mức độ tham gia đầu tư khác nhau
của nhà đầu tư. Vì vậy, để lựa chọn cho mình hình thức đầu tư và sử dụng các dịch
vụ phù hợp thì nhà đầu tư cần nghiên cứu và cân nhắc những ưu điểm và hạn chế


của từng hình thức và dịch vụ để có được sự lựa chọn đúng đắn nhằm đem lại hiệu
quả đầu tư cao. Sau đây em xin phân tích đặc điểm pháp lý và nêu lên những ưu,
nhược điểm của một số dịch vụ và hình thức đầu tư, đó là dịch vụ môi giới chứng
khoán, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư và quỹ đầu tư chứng khoán.
B/ NỘI DUNG
I. Tổng quan pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán, quản lý danh
mục đầu tư và quỹ đầu tư chứng khoán.
1. Đối với hoạt động môi giới chứng khoán, theo định nghĩa tại khoản 20
Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì “môi giới chứng khoán là việc công ty
chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để
hưởng hoa hồng”. Về bản chất kinh tế, môi giới chứng khoán là loại hình hoạt động
kinh doanh chứng khoán, theo đó bên môi giới cam kết làm đại diện cho khách
hàng (người mua hoặc người bán chứng khoán) trong việc thực hiện các giao dịch
mua bansn chứng khoán trên thị trường chứng khoán, vì quyền lợi của khách hàng
để nhận hoa hồng.
Chủ thể của hoạt động môi giới chứng khoán chủ yếu là các công ty chứng
khoán được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Theo đó các công
ty này phải được cấp giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh chứng khoán
đồng thời phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh dịch vụ môi giới chứng khoán tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động
môi giới chứng khoán bằng cách sử dụng chuyên môn nghiệp vụ và những hiểu biết
sâu sắc của mình về lĩnh vực chứng khoán để mua hay bán hộ chứng khoán cho
khách hàng nhằm hưởng phí hoa hồng thông qua công cụ pháp lý là hợp đồng dịch
vụ môi giới chứng khoán. Như vậy, công ty chứng khoán có vai trò là người trung

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

2

Trường Đại học Luật Hà Nội



Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

gian giữa người mua và người bán chứng khoán. Công việc môi giới được coi là
hoàn thành khi người mua đã mua được chứng khoán cần mua và người bán đã bán
được chứng khoán cần bán.
Tại Việt Nam các công ty chứng khoán đều đăng ký thực hiện nghiệp vụ này
và là nghiệp vụ quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay. Qua 5 năm hoạt động, thị
trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển tuy không tạo được
những bước đột phá nhưng là sự phát triển vững chắc đều đặn, trong đó hoạt động
môi giới của các công ty chứng khoán đã từng bước song hành với hoạt động giao
dịch trên thị trường.
2. Đối với hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán được pháp luật
định như sau: quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu
tư chứng khoán thực hiện quản lý theo ủy thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán,
nắm giữ chứng khoán. Như vậy có thể hiểu nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán chính là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua,
bán và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng, theo hợp đồng được
kí kết giữa công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán với khách hàng là nhà đầu tư.
Chủ thể của hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán gồm có hai chủ
thể là công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán (gọi là bên được ủy quyền) và nhà
đầu tư là tổ chức hoặc cá nhân (bên ủy quyền). Các công việc chính của hoạt động
quản lý quỹ đầu tư là sử dụng nguồn vốn của nhà đầu tư chuyển giao để trực tiếp
đầu tư vào chứng khoán; trực tiếp nắm giữ và bán chứng khoán trên thị trường khi
xét thấy cần thiết vì lợi ích của nhà đầu tư. Tất cả các ông việc này phải được ghi rõ
trong hợp đồng dịch vụ ủy thác giữa công ty quản lý quỹ với nhà đầu tư. Hợp đồng
này chính là hình thức pháp lý của quan hệ ủy thác quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán.
3. Đối với quỹ đầu tư chứng khoán.

Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ tiền hình thành từ nguồn vốn góp của các nhà
đầu tư để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Công ty quản

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

3

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

lý quyc tạo lập quỹ đầu tư chứng khoán bằng cách pháp hành chứng chỉ hưởng lợi
để thu hút vốn từ nhiều nhà đầu tư trên thị trường. Tiền của quỹ sau đó sẽ được
công ty quản lý quỹ đem đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ của thị trường
tiền tệ và các chứng khoán hoặc tài sản khác phù hợp với mục tiêu đầu tư ghi nhận
trong điều lệ quỹ. Chứng khoán mà quỹ đầu tư phát hành dưới hình thức là chứng
chỉ quỹ mà không phải là trái phiếu, cổ phiếu hoặc các hình thức khác.
Như vậy, bản thân quỹ đầu tư chứng khoán không phải là một pháp nhân,
không có tổ chức bộ máy riêng mà chỉ là một lượng tiền của các nhà đầu tư đóng
góp. Quỹ được quản lý và điều hành bởi công ty quản lý quỹ đầu tư. Các nhà đầu tư
không trực tiếp quản lý quỹ mà ủy thác toàn bộ việc quản lý, điều hành quỹ cho
công ty quản lý và ngân hàng giám sát. Hiện nay ở nước ta có nhiều loại quỹ đầu tư
chứng khoán. Căn cứ vào số lượng nhà đầu tư góp vốn thành lập quỹ có thể chia
quỹ thành hai loại là quỹ đại chúng và quỹ thành viên. Nếu căn cứ vào thị trường
giao dịch chứng chỉ quỹ sau phát hành có thể chia thành quỹ đầu tư dạng đóng và
quỹ đầu tư dạng mở.
II. Ưu điểm và nhược điểm của việc sử dụng dịch vụ môi giới chứng
khoán; dịch vụ quản lý danh mục đầu tư và tham gia quỹ đầu tư chứng khoán.
1. Ưu điểm và nhược điểm của việc sử dụng dịch vụ môi giới chứng khoán.

a. Về ưu điểm
Trong thương mại, từ môi giới được sử dụng để chỉ một nghề nghiệp thương
mại do thương nhân thực hiện, với công việc chính là giúp cho các bên tiếp cận
được với nhau và đi đến ký kết các hợp đồng vì lợi ích của họ. Trong số các hành vi
môi giới thương mại, việc môi giới chứng khoán được xem là hoạt động môi giới
khá điển hình và có những điểm đặc thù riêng không hoàn toàn giống như các hành
vi môi giới khác trong lĩnh vực thương mại. Ban đầu khi người môi giới chưa xuất
hiện, các nhà đầu tư phải tự tìm đến nhau, hiệu quả và số lượng giao dịch thấp, hiện
tượng tranh mua tranh bán , không thực hiện nghĩa vụ dễ dàng xảy ra vì các bên vẫn
trực tiếp quản lý số chứng khoán của mình mà không có một phương thức giao dịch

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

4

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

đảm bảo thực hiện cho cả hai bên. Hoạt động môi giới chứng khoán cùng thị trường
chứng khoán góp phần làm hình thành nền văn hóa đầu tư. Thông qua dịch vụ môi
giới chứng khoán, các nhà đầu tư đã tìm đến nhau một cách dễ dàng và thực hiện
giao dịch hiệu quả.Với ý nghĩa là một loại hành vi thương mại, trên thế giới. từ lâu
dịch vụ môi giới chứng khoán đã từng được biết đến như là nghiệp vụ kinh doanh
truyền thống trong thị trường chứng khoán và có những ưu điểm nổi bật, cụ thể như
sau:
Thứ nhất là tính tiện lợi của người mua và người bán khi sử dụng dịch vụ môi
giới chứng khoán. Khi sử dụng dịch vụ môi giới chứng khoán, nhà đầu tư không
cần phải gặp nhau để tiến hành hoạt động giao dịch chứng khoán. Chính vì lẽ đó

nên người mua chứng khoán và người bán chứng khoán không phải mất thời gian
và chi phí, công sức để tiến hành thương lượng về mua bán chứng khoán với nhau.
Trong thực tế cho thấy việc các nhà đầu tư (người mua) và các chủ thể bán chứng
khoán (người bán) gặp được nhau và tiến hành việc thương lượng để giao kết hợp
đồng mua bán chứng khoán khó khăn hơn nhiều so với với việc họ tìm một công ty
môi giới chứng khoán để ủy quyền cho họ thực hiện hành vi mua (bán) của mình.
Thay vì mất nhiều thời gian và công sức để chủ động tìm hiểu và trực tiếp thương
lượng với nhau về ý chí của mình thì các bên chỉ phải ký hợp đồng dịch vụ môi giới
với công ty môi giới chứng khoán thì sẽ bảo đảm sự thuận lợi hơn nhiều.
Theo quy định của pháp luật, nhà môi giới không có trách nhiệm phải thu xếp
cho người mua và người bán chứng khoán trực tiếp gặp nhau để tụ họ thương lượng
và ký kết hợp đồng với nhau. Nói cách khác, cả người mua và người bán chứng
khoán đều không cần biết nhau mà chỉ cần biết đến một người trung gian là nhà môi
giới và tìm cách ủy quyền cho nhà môi giới chứng khoán đại diện cho mình trong
việc thực hiện hành vi mua hay bán chứng khoán trên cơ sở ký kết hợp đồng dịch
vụ môi giới chứng khoán. Như vậy, cho dù không biết nhau và không hề trực tiếp
gặp nhau để thương lượng các điều khoản của hợp đồng mua bán chứng khoán
nhưng trên thực tế, giữa người mua và người bán chứng khoán vẫn tồn tại hợp đồng
mua bán chứng khoán, bởi lẽ hợp đồng này được xác lập một các gián tiếp thông

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

5

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

qua hành vi giao dịch của người đại diện là nhà môi giới chứng khoán. Điều này thể

hiện sự khác biệt đáng kể giữa hoạt động môi giới chứng khoán so với các loại hình
hoạt động môi giới thương mại khác (như môi giới hàng hóa, dịch vụ hay môi giới
bảo hiểm…).
Thứ hai, hoạt động môi giới chứng khoán luôn được thực hiện bởi chủ thể
đặc thù là các công ty chứng khoán nên mang tính hiệu quả cao. Để được tiến hành
hoạt động môi giới chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán phải được cấp giấy
phép thành lập, hoạt động kinh doanh chứng khoán và phải thực hiện việc đăng ký
kinh doanh dịch vụ môi giới chứng khoán tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Và
Giám đốc, Tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng
khoán phải có Chứng chỉ môi giới chứng khoán. Do vậy nên các công ty chứng
khoán được coi là một loại thương nhân đặc biệt, có chuyên môn nghiệp vụ, có
những hiểu biết sâu sắc về thị trường và có những thông tin quan trọng cùng với
những phân tích của các chuyên gia nên các công ty này thường rất chuyên nghiệp
trong lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của mình. Vì vậy, khi sử dụng dịch vụ môi
giới của họ, người mua và người bán chưng khoán sẽ bảo đảm được tỷ lệ thành
công cao hơn so với tự mình thực hiện việc mua bán.
Thứ ba, hiện nay trên thị trường xuất hiện ngày càng nhiều công ty môi giới
chứng khoán nên các chủ thể mua bán chứng khoán có nhiều sự lựa chọn hơn cho
mình. Nhiều công ty chứng khoán đã coi môi giới chứng khoán là nghiệp vụ kinh
doanh chủ đạo và tập trung đầu tư mạnh. Số lượng công ty chứng khoán hiện này
vào khoảng hơn 100 công ty trong khi quy mô thị trường còn nhỏ nên đã đẩy cuộc
chiến giành thị phần môi giới chứng khoán ngày càng quyết liệt. Như vậy, nếu chưa
tính đến sự phức tạp của nó thì có thể thấy dịch vụ môi giới chứng khoán ở nước ta
hiện nay phát triển khá mạnh, tạo thuận lợi cho sự lựa chọn của các chủ thể có nhu
cầu sử dụng dịch vụ để mua bán chứng khoán.
Thứ tư, các công ty môi giới chứng khoán hiện nay phát triển nhiều dịch vụ
để cung cấp cho khách hàng. Để nâng cao tính chuyên nghiệp và tăng tính cạnh
tranh chiếm lĩnh thị phần, ngoài việc ứng dụng công nghệ cao, phát triển hạ tầng và

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027


6

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

đầu tư cho yếu tố nhân lực thì các nhà môi giới chứng khoán hiện nay đã cung cấp
nhiều dịch vụ hấp dẫn cho khách hàng. Trong đó có thể kể đến như dịch vụ tra cứu
tài khoản và tra cứu tình trạng lệnh giao dịch qua hệ thống tin nhắn tự động, qua
website…; dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư như ứng trước tiền bán chứng khoán, cho vay
cầm cố đối với chứng khoán niêm yết, repo cổ phiếu (repo là dịch vụ mua bán
chứng khoán có kì hạn).v.v..
b. Về nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm như đã nêu trên, dịch vụ môi giới chứng khoán còn
tồn tại những hạn chế nhất định sau:
Thứ nhất là những rủi ro của nhà đầu tư khi sử dụng dịch vụ môi giới chứng
khoán. Vì chứng khoán là một lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nên khi ủy quyền
việc thực hiện mua (bán) chứng khoán cho công ty môi giới chứng khoán, nhà đầu
tư không tránh khỏi những rủi ro nhất định. Thực tế cho thấy khách hàng thường
hay bị công ty môi giới chứng khoán gây thiệt hại đến lợi ích của họ. Vì được xem
như là một nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp, pháp luật và đạo đức kinh
doanh không cho phép công ty chứng khoán được lợi dụng chuyên môn và những
hiểu biết của mình để gây thiệt hại cho khách hàng. Tuy nhiên do những lợi ích về
vật chất đem lại nhiều hấp dẫn và nhiều nguyên nhân khác dẫn đến những hành vi
này xảy ra khá thường xuyên trên thị trường.
Rủi ro phát sinh từ sự thiếu chuyên nghiệp của công ty môi giới chứng khoán.
Có thể nói, một công ty môi giới chứng khoán chuyên nghiệp phải có khả năng
phán đoán, tổng hợp, cung cấp thông tin, tư vấn đầu tư, chăm sóc tốt khách hàng…

bởi họ là nhà tư vấn tài chính cá nhân cho khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay không
phải công ty môi giới chứng khoán nào cũng đáp ứng được những yêu cầu này.
Chính vì vậy, nhiều trường hợp những giao dịch mà họ thực hiện cho khách hàng bị
thua lỗ mà nguyên nhân chính xuất phát từ sự thiếu chuyên nghiệp nói trên. Trách
nhiệm nghề nghiệp của nhân viên chứng khoán không được tuân thủ, thực hiện giao
dịch tùy tiện gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Đây là vấn đề hết sức bức xúc cho nhà

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

7

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

đầu tư. Tình trạng nhân viên chứng khoán không thực hiện lệnh cho khách hàng dù
họ đã đăng ký hay thực hiện không đúng lệnh gây thiệt hại cho nhà đầu tư không
phải hiếm ở công ty chứng khoán. Thực trạng này đã được phản ánh nhiều trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Với tình hình giá chứng khoán luôn luôn thay đổi
việc thực hiện sai lệnh sai thời điểm có thể gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư thì việc
chuyển lệnh tới phiên giao dịch kế tiếp như vậy gây thiệt hại sẽ là khó tính toán.
Hơn nữa, nhà đầu tư chưa được tôn trọng đúng mức khi đến với công ty
chứng khoán. Nhà đầu tư bị phân biệt đối xử khi đến đặt lệnh tại các công ty chứng
khoán. Nguyên tắc công bằng bình đẳng giữa các nhà đầu tư không được nhiều
công ty chứng khoán thực hiện. Trong trường hợp này những nhà đầu tư riêng lẻ
thường là những người chịu thiệt thòi. Việc phân biệt đối xử thể hiện trong việc các
công ty chứng khoán thường ưu tiên thi hành lệnh của những nhà đầu tư lớn trước
các nhà đầu tư nhỏ không kể ai là người có yêu cầu đặt lệnh trước. Cá biệt có công
ty chứng khoán còn chỉ thực hiện lệnh cho một số nhà đầu tư có số giá trị đặt lệnh ở

một mức tối thiểu, những nhà đầu tư không đạt con số này sẽ không được phục vụ.
Trường hợp này là của công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương. Khi giao
dịch qua internet công ty chứng khoán này chỉ thực hiện lệnh cho những khách
hàng mua chứng khoán có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên.
Có những trường hợp công ty chứng khoán vì những lỗi kỹ thuật đã thực hiện
sai lệnh kết quả là các nhà đầu tư bị thiệt hại. Nhiều công ty chứng khoán còn
không hướng dẫn khách hàng thủ tục lấy cuống phiếu đặt lệnh, đến khi không thực
hiện được lệnh hay sai lệnh thì khách hàng không có chứng cứ để so sánh đòi bồi
thường. Nhà đầu tư bị thiệt hại rõ ràng mà không biết kêu ai vì bằng chứng thực
hiện lệnh họ nắm giữ.
Thứ hai, số lượng và chất lượng nhân viên môi của công ty chứng khoán
chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Theo số lượng thống kê đến đầu năm 2007,
số lượng nhân viên môi giới chứng khoán có chứng chỉ hành nghề là trên 300
người. Con số này thực sự không đáp ứng được nhu cầu đặt lệnh của số lượng nhà
đầu tư trong thời gian gần đây. Số lượng chiếm phần lớn các nhân viên trong các

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

8

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

công ty chứng khoán là những người chưa qua một lớp đào tạo nghiệp vụ chứng
khoán nào nhưng vẫn là nhân viên tư vấn chính thức, thực hiện việc mua - bán
chứng khoán cho khách hàng.
Thứ thứ ba, nhà đầu tư không được tiếp đón đúng mức khi đến các công ty
chứng khoán đặt lệnh. Với tư tưởng nhà đầu tư là người cần mình nên nhân viên các

công ty chứng khoán tại nhiều công ty chứng khoán đã thực hiện không đúng vai trò
của một nhân viên môi giới chứng khoán. Tình trạng để khách hàng đặt lệnh mà
không biết đến lúc nào sẽ được phục vụ, không hướng dẫn khách hàng các thủ tục
cần thiết khi đặt lệnh… đã xảy ra ở rất nhiều công ty chứng khoán.
Thứ tư, Mức phí dịch vụ môi giới hiện nay chưa hợp lý. Chi phí mà nhà đầu
tư phải trả cho nhà môi giới chứng khoán còn cao so với tính chuyên nghiệp và sự
phát triển của thị trường.
2. Ưu và nhược điểm của dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
a. Ưu điểm
Trong quá trình đầu tư chứng khoán, nhiều nhà đầu tư có những khoản vốn
lớn và có nhu cầu đầu tư khá đa dạng nhưng lại không có khả năng tự mình đưa ra
các quyết định đầu tư hợp lý. Thậm chí, họ đã tiến hành đầu tư nhưng lại không có
khả năng quản lý hiệu quả đối với các khoản mục đầu tư này. Vì thế, họ cần đến sự
trợ giúp từ phía các công ty hoạt động chuyên nghiệp trong quản lý danh mục đầu
tư, bằng cách ký kết và thực hiện một hợp đồng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư
với các công ty này. Như vậy, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán phải
có những ưu điểm nhất định của nó, đó là:
Thứ nhất, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư do một tổ chức kinh doanh chứng
khoán chuyên nghiệp thực hiện nên mang lại hiệu quả đầu tư cao cho nhà đầu tư
chứng khoán. Nhà đầu tư chứng khoán luôn mong muốn lợi nhuận cao nhất mà rủi
ro thua lỗ thấp nhất. Nếu dồn toàn bộ khoản tiền mình có vào một loại cổ phiếu thì
nguy cơ thua lỗ khi cổ phiếu đó giảm giá là rất rõ ràng. Và thực tế không phải nhà

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

9

Trường Đại học Luật Hà Nội



Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

đầu tư nào cũng đủ năng lực để vạch ra một danh mục đầu tư hợp lý và đủ sức để
thực hiện nó. Nhưng đối với công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thì công việc
đó thuộc về chuyên môn và là ngành nghề kinh doanh chính của họ. Do đó, họ là
chủ thể có khả năng đáp ứng được yêu cầu quản lý danh mục đầu tư của nhà đầu tư
chứng khoán.
Với vai trò là một công ty kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp, các công
ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được sự hỗ trợ về các thiết bị, công nghệ cao và
nghiệp vụ tiên tiến trong hoạt động của mình. Hơn nữa, công ty quản lý quỹ có đội
ngũ nhân viên chuyên nghiệp trong việc thiết lập danh mục đầu tư chứng khoán, các
chuyên gia phân tích thị trường, có kỹ năng kinh doanh chứng khoán, khả năng tiếp
cận nguồn thông tin quan trọng để ấn định thời điểm thích hợp để nắm giữ và bán ra
chứng khoán trên thị trường khi giá cao nhằm đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Chính vì tính chuyên nghiệp đó nên khi tiến hành hoạt động đầu tư vào vào nhiều
sản phẩm của thị trường chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư sẽ đem lại hiệu
quả cao hơn so với việc tự mình thực hiện của các nhà đầu tư.
Thứ hai, sử dụng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư được xem là một sự lựa
chọn nữa ngoài việc tham vào quỹ đầu tư chứng khoán. Nếu so với việc góp vốn
vào một quỹ đầu tư thì việc sử dụng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư có một số
khác biệt căn bản. Khoản tiền uỷ thác của nhà đầu tư có thể coi như một quỹ đầu tư
tư nhân dạng nhỏ, được thiết kế phù hợp với nhu cầu của từng người và bản thân
mỗi người có thể đưa ra những dữ liệu đầu vào (thời hạn đầu tư, mức độ chấp nhận
rủi ro, khoản phí phải trả…) cho công ty quản lý quỹ.
Hiện nay, các quỹ đại chúng phải thực hiện báo cáo hàng tuần, còn quỹ tư
nhân hay quản lý danh mục đầu tư sẽ thực hiện báo cáo với nhà đầu tư định kỳ theo
tháng. Nhà đầu có tiền nhưng thiếu kinh nghiệm hoặc thời gian để tự đầu tư, có thể
xem xét đến dịch vụ quản lý danh mục đầu tư để không bỏ lỡ cơ hội sinh lời hấp
dẫn nhờ thị trường chứng khoán. Các công ty quản lý quỹ với đội ngũ chuyên viên
nhiều kinh nghiệm sẽ giúp những nhà đầu tư tối ưu hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro

và tiết kiệm thời gian.

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

10

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

Thứ ba, là tính an toàn pháp lý trong quan hệ ủy thác quản lý danh mục đầu
tư chứng khoán. Về nguyên tắc, để thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán, pháp luật đòi hỏi công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán phải thỏa
mãn một số điều kiện nhất định. Chẳng hạn, công ty quản lý quỹ phải có giấy phép
thành lập và hoạt động kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán nhà nước
cấp; có người đại diện hợp pháp đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết và thực hiện
các hợp đồng với khách hàng. Việc quy định những điều kiện này chính là nhằm
đảm bảo sự an toàn cho quyền lợi của khách hàng giao dịch với công ty quản lý quỹ
đồng thời cũng là để bảo đảm sự an toàn cho chính công ty quản lý quỹ và cho nền
kinh tế nói chung.
Với hợp đồng dịch vụ ủy thác quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, nhà đầu
tư có thể thỏa thuận các điều khoản của hợp đồng với công ty quản lý quỹ về phạm
vi ủy quyền, thời hạn ủy quyền, phí dịch vụ và quyền, nghĩa vụ của các bên. Hợp
đồng này được ký trực tiếp với công ty quản lý quỹ nên nhà đầu tư có cơ hội nắm
bắt thông tin về công ty cũng như quá trình thực hiện hợp đồng. Vì vậy, nhà đầu tư
đã loại bỏ đi nhiều rủi ro khi giao tiền cho công ty quản lý quỹ. Khi xảy ra tranh
chấp hợp đồng thì nhà đầu tư có thể sử dụng các phương án giải quyết theo quy
định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình. Như vậy, hợp đồng dịch vụ ủy
thác quản lý danh mục đầu tư là một sự bảo đảm về mặt pháp lý cho sự an toàn tài

chính của nhà đầu tư.
Thứ tư, khi sử dụng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư của công ty quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư còn có cơ hội nhận được sự tư vấn, khuyến cáo của
công ty về khả năng mở rộng hay thu hẹp phạm vi đầu tư về vốn và lĩnh vực của thị
trường. Ngoài ra, nhà đầu tư cũng được cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, các ưu đãi
khác từ công ty.
b. Nhược điểm
Mặc dù có những ưu điểm nêu trên, hoạt động quản lý danh mục đầu tư cũng
có những nhược điểm như:

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

11

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

- Công ty quản lý quỹ có thể vi phạm các nghĩa vụ của mình. Các công ty
quản lý quỹ đã đối xử một cách không công bằng đối với các nhà đầu tư hoặc có
thiên vị, mất bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư lớn luôn luôn được ưu
tiên, ngược lại, nhà đầu tư nhỏ, ít vốn bị đối xử kém công bằng. Có trường hợp
công ty quản lý quỹ đã sử dụng tài sản ủy thác theo danh mục đầu tư do mình quản
lý để đầu tư vào các quỹ đại chúng. Đó là một cách đi đường vòng bởi nhà đầu tư
có thể tham gia quỹ đại chúng mà không cần phải thông qua dịch vụ quản lý danh
mục đầu tư.
- Nhiều nhà đầu tư ít có cơ hội tham gia giám sát quá trình hoạt động của
công ty quản lý quỹ đầu tư và không được báo cáo thông tin kịp thời khi chưa đến
thời hạn báo cáo định kì. Vì vậy, việc theo dõi về tình hình đầu tư của nhà đầu tư sẽ

gặp khó khăn.
- Hiện nay những công ty không phải là công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán vẫn tham gia cung cấp dịch vụ quản lý danh mục đầu tư cho tổ chức, cá nhân
mặc dù Ủy ban chứng khoán nhà nước đã có văn bản yêu cầu các công ty dừng hoạt
động này. Do đó, khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện và xử lý những công ty này
thì không tránh khỏi những quyền lợi của nhà đầu tư bị ảnh hưởng.
3. Những ưu điểm và hạn chế của việc tham gia quỹ đầu tư chứng khoán.
a. Ưu điểm
Kể từ khi ra đời, quỹ đầu tư chứng khoán đã chứng tỏ được những ưu điểm
của mình. Khi tham gia quỹ đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư có thể thực hiện được
việc đầu tư khi không có thời gian và kiến thức. Không phải nhà đầu tư nào cũng có
được những kiến thức chuyên sâu về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đặc
biệt là những nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ khắc phục được
những nhược điểm đó của nhà đầu tư.
- Quỹ đầu tư chứng khoán giúp đa dạng hóa danh mục đầu tư là nhu cầu của
người đầu tư, có trường hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

12

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

mỗi chứng khoán vẫn chứa đựng rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua
việc đa dạng hóa danh mục đầu tư.
- Lợi ích khác do các quỹ đầu tư mang lại là trình độ quản lý chuyên nghiệp.
Nhiều nhà đầu tư nhỏ khó đạt hiệu năng quản lý các hoạt động đầu tư của mình một

cách khôn ngoan nhất, họ cũng không có khả năng hoặc thấy không còn có lợi nếu
phải trả các khoản phí cần thiết để “mua” sự quản lý chuyên nghiệp riêng cho mình.
Bằng cách chung vốn tập thể vào các quỹ đầu tư, những cá nhân này có thể yên tâm
sẽ được các nhà điều hành chuyên nghiệp quản lý số tiền đầu tư của mình với một
chi phí thấp hơn so với việc họ phải tự lo liệu.
- Một lợi ích nổi bật nữa của quỹ đầu tư là các cổ phần góp vốn vào quỹ này
có tính thanh khoản. Điều này có nghĩa là nếu nhà đầu tư muốn rút lui khỏi tổ chức
đầu tư này, họ có thể bán lại phần tài sản của họ với một giá phải chăng để chuyển
thành tiền mặt trong một thời gian ngắn. Do các chứng khoán mà các quỹ đầu tư
mua bán thường thuộc những loại đầu tư có điều kiện bán nhanh nhất, nên những
người mua cổ phần quỹ đầu tư không phải lo bị chôn vốn. Họ có thể thực hiện thanh
lý việc nắm giữ cổ phần của họ vào bất cứ ngày nào có giao dịch, ở mức giá được
công bố hiện hành và nhận tiền sau một khoảng thời gian qui định, thường là một
tuần. Việc tính toán giá cổ phần của quỹ đầu tư rất đơn giản, vì tổng tài sản của quỹ
đầu tư hầu hết là các chứng khoán có độ linh hoạt cao, giá của nó được cập nhật vào
sau mỗi phiên giao dịch và dựa vào thị trường chứng khoán.
- Nhà đầu tư có thể giảm thiểu thiệt hại bằng cách phân tán rủi ro khi tham
gia quỹ đầu tư. Bằng việc sử dụng tiền thu được từ những nhà đầu tư để đầu tư phân
tán vào các danh mục chứng khoán mà không chỉ tập trung vào một hay hai loại
chứng khoán, các quỹ đầu tư làm giảm rủi ro cho các khoản đầu tư và làm tăng cơ
hội thu nhập cho các khoản đầu tư và làm tăng cơ hội thu nhập cho các khoản đầu
tư đó.
- Tiết kiệm chi phí đầu tư. Vì là những danh mục đầu tư lớn được quản lý
chuyên nghiệp, quỹ đầu tư chịu chi phí giao dịch thấp hay được hưởng những ưu

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

13

Trường Đại học Luật Hà Nội



Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

đãi về phí giao dịch hơn các cá nhân đầu tư, kể cả những người mua bán thông qua
những công ty môi giới có mức phí hoa hồng thấp nhất.
- Tăng cường tính chuyên nghiệp của việc đầu tư. Thay cho việc người đầu tư
phải đi thuê tư vấn để quản lý tài sản của mình thì họ chỉ cần đầu tư vào một quỹ
với chi phí giảm đi rất nhiều. Tiền tập hợp trong các quỹ đầu tư chứng khoán được
đặt dưới sự quản lý của các nhà đầu tư chuyên nghiệp là các công ty quản lý quỹ.
- Nhà đầu tư sẽ bảo đảm mức được mức độ an toàn cao trước các hành vi
không công bằng. Người đầu tư có thể bị thiệt hại nếu danh mục đầu tư của quỹ bị
giảm giá trị do sự biến động giá chứng khoán trên thị trường, nhưng xác suất bị tổn
thất do gian lận, bê bối hoặc phá sản liên quan đến công ty quản lý quỹ là rất nhỏ.
Khuôn khổ pháp lý và việc quản lý chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền đối với quỹ
đầu tư đem lại những đảm bảo cơ bản.
b. Hạn chế
Những lợi ích mà nhà đầu tư có được khi tham gia quỹ đầu tư là rõ ràng, tuy
nhiên nhà đầu tư cũng gặp phải một số khó khăn từ những nhược điểm của hình
thức đầu tư này. Có thể thấy rằng nhà đầu tư rất khó có thể giám sát được hoạt động
của các quỹ đầu tư và rất dễ xảy ra gian lận tại các quỹ này. Với một mức phí quản
lý dành cho các nhà quản lý lên tới 20% mức tăng giá trị hàng năm của quỹ, rất có
thể đây là động cơ thúc đẩy các nhà quản lý quỹ chấp nhận mạo hiểm một cách thái
quá. Hơn nữa, hầu như không bao giờ nhà quản lý quỹ phải chịu bất cứ một hình
thức phạt nào vì việc đã làm cho giá trị của quỹ bị giảm và nhà quản lý hoàn toàn có
thể thu hẹp quy mô của quỹ để làm lại từ đầu. Khi tiền đổ vào các quỹ đầu tư càng
nhiều thì việc kiếm được các nhà quản lý quỹ có tài năng thực sự càng khó khăn và
khả năng để kiếm được một cơ hội đầu tư là không lớn.
Điểm qua các thị trường trên thế giới cho thấy rất nhiều quỹ đầu tư ở những
nước có thị trường chứng khoán lâu đời đã áp dụng chiến lược nắm giữ cổ phiếu

của một số công ty nhất định, trong khi bán khống những loại cổ phiếu khác để
giảm thiểu rủi ro. Không thiếu cổ phiếu để cho các quỹ đầu tư này đầu tư vào, vì

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

14

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

vậy không cần lo lắng về việc những luồng vốn đầu tư mới sẽ thổi phồng một cách
quá đáng “quả bong bóng” giá của các quỹ đầu tư được nhiều người ưa chuộng.
Nhiều quỹ đầu tư có thâm niên đã không tiếp nhận thêm các nhà đầu tư mới, nhờ đó
kìm hãm được phần nào sự tăng giá do các luồng đầu tư mới gây ra. Tuy nhiên,
cũng có nhiều quỹ đầu tư không cưỡng nổi sự cám dỗ của việc phát triển quá lớn.
Các quỹ này thường gặp khó khăn hơn trong việc đầu tư vốn một cách hiệu quả và
những vấn đề về mặt quản lý khi đội ngũ nhân viên của mình tăng lên.

C/ KẾT LUẬN
Trong thực tiễn các dịch vụ và hình thức đầu tư chứng khoán có mức độ phát
triển khác nhau do vai trò của chúng trên thị trường trong từng giai đoạn, thời kì là
khác nhau. Và nhiều yếu tố khác tác động đến sự phát triển đó như hành lang pháp
lý, trình độ, thói quen, quan điểm của nhà đầu tư… và mức độ hiệu quả mang lại
cho nhà đầu tư. Có thể kể đến như dịch vụ môi giới chứng khoán hiện nay phát triển
mạnh mẽ vì nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên ở nước ta chưa có một cơ sở đào tạo
chuyên sâu về nghề môi giới chứng khoán nên hầu hết đội ngũ môi giới trên thị
trường không được đào tạo bài bản, trình độ chuyên môn không đều và chưa đáp
ứng được yêu cầu về tính chuyên nghiệp.

Qua phân tích trên cho thấy mỗi hình thức đầu tư chứng khoán đều có những
ưu và nhược điểm khác nhau. Hình thức đầu tư này là sự lựa chọn tốt đối với nhà
đầu tư riêng lẻ nhưng lại không phù hợp với nhà đầu tư chuyên nghiệp và ngược lại.
Do đó, mỗi nhà đầu tư cần nghiên cứu và cân nhắc các hình thức đầu tư và lựa chọn
hình thức phù hợp với nhu cầu cũng như đặc điểm của mình để có thể tránh rủi ro
và đem lại lợi nhuận cao nhất khi tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán.

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

15

Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kì – Môn Luật chứng khoán

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật chứng khoán, Nxb.
CAND, Hà Nội – 2008;
2. Luật chứng khoán năm 2006;
3. Phạm Thị Giang Thu, Một số vấn đề về pháp luật chứng khoán và thị
trường chứng khoán, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004
4. Đỗ Thị Hiên, Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán ở
Việt Nam hiện nay , Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2007;
5. Quy chế tổ chức và hoạt động của công ti quản lí quỹ ban hành kèm
theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính số 35/2007/QĐ-BTC
ngày 15/05/2007.
6. Quyết định của Bộ tài chính số 125/2008/QĐ-BTC ngày 26/12/2008 về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ chức và hoạt động

của công ti quản lí quỹ ban hành kèm theo Quyết định số 35/2007/QĐBTC ngày 15/5/2007.
7. ;
8. www.ssc.gov.vn
9. www.vneconomy.com.vn.

Lâm Văn Tài, H1N1-KT32H027

16

Trường Đại học Luật Hà Nội



×