Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bình luận các quy định về đối tượng chịu thuế thuế thu nhập cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.78 KB, 14 trang )

Đề Bình luận các quy định về đối tượng chịu thuế thuế thu nhập cá nhân.
LỜI NÓI ĐẦU
Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc
thu thuế của các cá nhân trong xã hội khi đáp ứng những điều kiện theo quy định
của pháp luật. Luật thuế thu nhập cá nhân xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát
triển những quy định trong pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao. Bên cạnh những quy định về đối tượng nộp thuế thì thuế thu nhập cá nhân
cũng dành khá nhiều điều khoản quy định về thu nhập chịu thuế hay còn gọi là
đối tượng chịu thuế. Việc tìm hiểu những quy định về đối tượng chịu thuế thu
nhập cá nhân phần nào giúp chúng ta xác định được thu nhập nào thì bị đánh
thuế, thu nhập nào thì không.
I. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập của
các tổ chức kinh doanh và các cá nhân có thu nhập phát sinh từng lần hoặc
thường xuyên từ một nguồn nhất định. Thuế thu nhập cá nhân phân biệt với các
loại thuế khác ở các điểm sau:
- Thuế thu nhập có đối tượng đánh thuế là thu nhập. Khác với thuế giá trị
gia tăng đánh vào phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ; thuế xuất nhập
khẩu đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu, thì thuế thu nhập cá nhân nói riêng
thuế thu nhập nói chung, đối tượng chịu thuế không phải là hàng hóa mà là “
phần thu nhập” chịu thuế của cá nhân đó phát sinh. Việc quan trọng trong chính
sách pháp luật đó là phải xác định đúng đối tượng chịu thuế hay đó là thu nhập
chịu thuế.
- Thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu, ngoài mục tiêu tạo nguồn thu
cho ngân sách nhà nước, nó còn có mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hòa thu nhập
xã hội nên thường gắn liền với chính sách kinh tế xã hội của nhà nước. Bởi vậy,
pháp luật thuế thu nhập của cá nhân ở các nước thường có những quy định về
chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng khuyến khích của thuế
thu nhập.



- Thuế thu nhập là loại thuế phức tạp nên việc quản lý thuế, thu thuế
tương đối khó khăn, chi phí quản lý thuế thường lớn hơn so với các loại khác.
Đối với thuế thu nhập, ngoài việc xác định các khoản thu nhập chịu thuế còn
phải xác định nguồn gốc thu nhập, địa điểm phát sinh thu nhập, thời hạn cư trú
của chủ sở hữu thu nhập, tính ổn định của thu nhập…Trong phần xác định thu
nhập chịu thuế, phải xác định được các khoản khấu trừ hợp trừ (các khoản miễn
trừ gia cảnh) để tiền hành khấu trừ khi tính thuế nhằm đảm bảo mục tiêu công
bằng và khuyến khích đối với đối tượng nộp thuế, tránh thất thoát thuế.
- Nguồn luật điều chỉnh thuế thu nhập gồm các văn bản pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế. Bởi thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu nên nó là đối
tượng điều chỉnh của các hiệp định tránh đánh thuế hai lần.
Tóm lại, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu với đối tượng chịu
thuế là phần thu nhập chịu thuế phát sinh từng lần hoặc thường xuyên của các
nhân. Luật này có diện đánh thuế rộng và luôn gắn với chính sách xã hội của
mối quốc gia.
II. SỰ KẾ THỪA ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ CỦA LUẬT THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN SO VỚI PHÁP LỆNH THUẾ THU NHẬP CAO
Đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân thực chất cũng chính là thu nhập
chịu thuế.
Theo quy định của pháp luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành thì có 10
loại thu nhập thuộc diện đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân

gồm:

thu nhập từ

hoạt động sản xuất kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công mà người lao
động nhận được từ người sử dụng lao động; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ
chuyển nhượng vốn; chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ trúng thưởng
bằng tiền hoặc hiện vật; thu nhập từ bản quyền; thu nhập từ nhượng quyền

thương mại theo quy định của Luật thương mại; thu nhập từ thừa kế là chứng
khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài
sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng; thu nhập từ nhận quà tặng
là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động
sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.


Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh thuế thu
nhập cao, cũng như sự học hỏi, tiếp thu pháp luật của các nước khác, đặc biệt là
các nước có nền kinh tế tương đương và sự sáng tạo căn cứ vào nền kinh tế Việt
Nam đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng. Một số
đối tượng chịu thuế trong Luật Thuế thu nhập cá nhân là sự kế thừa của đối
tượng chịu thuế trong Pháp lệnh thuế thu nhập cao:
- Thu nhập từ tiền lương, tiền công, các khoản thu nhập khác có tính chất
tiền lương, tiền công;
- Các khoản phụ cấp, trợ cấp từ các khoản phụ cấp, trợ cấp không thuộc
diện chịu thuế;
- Các khoản thu nhập mà người lao động được hưởng ngoài tiền lương,
tiền công được chi trả hộ như tiền nhà, tiền điện, tiện nước;
- Tiền thưởng tháng, quý, năm, thưởng đột xuất, thưởng tháng lương thứ
ba bằng tiền hoặc không bằng tiền;
- Tiền nhận được do tham gia vào các hiệp, hội, như: hiệp hội kinh
doanh, hội đồng quản trị doanh nghiệp, hội đồng quản lý, hội đồng doanh
nghiệp…
- Tiền thù do nhận được các dưới các hình thức như: tiền hoa hồng môi
giới, tiền nhuận bút; tiền tham gia các dự án, tiền thu được từ các hoạt động biểu
diễn, quảng cáo, hoạt động thể dục thể thao….;
- Thu nhập từ chuyển giao công nghệ;
- Thu nhập từ trúng thưởng xổ số, kể cả trúng thưởng khuyến mại;
- Một số thu nhập khác nữa.

Đây là các khoản thu nhập thường xuyên và không thường xuyên thuộc
đối tượng chịu thuế của Pháp lệnh thuế thu nhập cao. Nay Luật thuế thu nhập
các nhân kế thừa và phát triển. Có thể nói đây cũng chính là những đối tượng
chịu thuế thường xuyên và mang tính ổn định nguồn thu chính từ thuế thu nhập
cá nhân của Ngân sách nhà nước. Việc thu thuế đối với những đối tượng này
góp phần điều hòa thu nhập, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp
dân cư trong xã hội.


Việc kế thừa các đối tượng chịu thuế từ Pháp lệnh thuế của người có thu
nhập cao sẽ giúp cho việc áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân trong thời gian tới
sẽ dễ dàng, có hiệu quả hơn. Bởi vì, Pháp lệnh thuế thu nhập cao đã được áp
dụng ở Việt Nam trong thời gian dài, người dân đã quen với nó. Chính điều này
đã làm cho việc phản ứng từ phía người dân về thuế giảm dần, họ “thực sự” coi
đó là nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, cũng như hiểu được ý nghĩa của việc
nộp thuế.
III. NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ CỦA THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN
Không chỉ kế thừa mà đối tượng chịu thuế hay thu nhập chịu thuế ở Luật
thuế thu nhập cá nhân còn có những điểm phát triển nhất định. Chính điều này
đã tạo ra sự khác biệt giữa hai văn bản này.
Thứ nhất, Luật thuế thu nhập cá nhân quy định chi tiết, cụ thể
hơn, phân chia thành những loại thu nhập khác nhau theo
nguồn gốc phát sinh.
Điều này là điểm mới của Luật so với Pháp lệnh. Ở pháp lệnh thì chia thu nhập
thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên, nhưng không
định nghĩa như thế nào là thu nhập thường xuyên, thu nhập không thường
xuyên. Còn Luật thuế thu nhập cá nhân và các văn bản hướng dẫn mặc dù không
chia thành thu nhập thường xuyên hay không thường xuyên nhưng đã quy định
một cách cụ thể chi tiết các thu nhập là đối tượng chịu thuế bao gồm những thu

nhập nào, phát sinh từ đâu....
Theo Thông tư 84/2004/ TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều Luật
thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/ NĐ-CP
quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân thì thu nhập từ tiền
lương, tiền công là các khoản thu nhập người lao động nhận được từ người sử
dụng lao động dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền, bao gồm:
- Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công;
- Các khoản phụ cấp, trợ cấp kể cả sinh hoạt phí mà người lao động nhận
được, trừ một số phụ cấp, trợ cấp nhất định;


- Tiền thù lao nhận được dưới các hình thức như: tiền hoa hồng môi giới,
tiền tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; tiền tham gia các dự
án,đề án; tiền nhuận bút do viết sách, báo, dịch tài liệu…; tiền tham gia vào các
hoạt động giảng dạy; biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao,…;tiền thu
được từ các dịch vụ quảng cáo và các dịch vụ khác;
- Tiền nhận được do tham gia các hiệp, hội hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh
doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát doanh nghiệp, ban quản lý dự án, hội
đồng quản lý, hội đồng doanh nghiệp và các tổ chức khác;
- Các khoản lợi ích khác bằng tiền hoặc không bằng tiền mà người lao
động được hưởng ngoài tiền lương, tiền công do người sử dụng lao động trả
hoặc trả hộ cho người lao động như: tiền nhà ở, tiền điện, tiền nước; tiền mua
bảo hiểm; các khoản phí hội viên phục vụ cho cá nhân…;
- Các khoản thưởng quý, năm, thưởng đột xuất, thưởng tháng lương thứ
13…bằng tiền hoặc không bằng tiền (kể cả chứng khoán), trừ một số khoản tiền
thưởng được trừ khi tính thu nhập chiu thuế..
Như vậy với việc quy định cụ thể và đầy đủ như thế này giúp cho việc xác
định thu nhập chịu thuế của mỗi đối tượng chịu thuế được dễ dàng hơn, giúp cho
quá trình thu thuế và quản lý thuế được dễ dàng. Tuy nhiên, chính từ việc quy
định một cách quá cụ thể, quá chi tiết này khiến luật thuế thu nhập cá nhân ở

nước ta không có tính khái quát, vì thế mà hay bị sửa đổi, bổ sung, không có
tính dự liệu trước.
Ngoài thu nhập tiền lương, tiền công, một số loại thu nhập khác cũng
được quy định như: thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ trúng thưởng. Theo đó
thu nhập từ bản quyền là thu nhập nhận được khi chuyển nhượng, chuyển giao
quyền sử dụng đối với các đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ; thu nhập từ chuyển
giao công nghệ. Trong đó đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: đối
tượng quyền tác giả, đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, đối tượng đối với
giống cây trồng; đối tượng của chuyển giao công nghệ bao gồm : chuyển giao
các bí quyết kỹ thuật, chuyển giao kiến thức kỹ thuật về công nghệ, chuyển giao
giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ. Còn thu nhập từ trúng thưởng


là các khoản tiền hoặc hiện vật mà cá nhân nhận được dưới các hình thức như:
trúng thưởng xổ số do các công ty xổ số phát hành thực hiện, trúng thưởng các
hình thức khuyến mại khi tham gia vào mua bán hàng hóa, dịch vụ; trúng
thưởng các hình thức cá cược, đặt cược được pháp luật cho phép; trúng thưởng
trong các casino được pháp luật cho phép hoạt động; trúng thưởng trong các trò
chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác do các tổ chức kinh
tế, cơ quan hành chính, sự nghiệp, các đoàn thể và các tổ chức, cá nhân khác tổ
chức.
Thu nhập của cá nhân ngày càng phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau do
vậy sự thay đổi của Luật thuế thu nhập cá nhân mở rộng phạm vi đối tượng chịu
thuế, quy định chi tiết từng trường hợp một phù hợp với thực tiễn cuộc sống,
đảm bảo cho luật điều chỉnh những nội dung mới của cuộc sống.
Thứ hai: Luật thuế thu nhập cá nhân đã mở rộng diện điều tiết một
các hợp lý trên cơ sở bổ sung một số khoản thu nhập chịu
thuế. Điều này có nghĩa là đối tượng chịu thuế đã được mở
rộng.
Một là, Một số khoản thu nhập chịu thuế trở thành đối tượng chịu thuế

của Luật thuế thu nhập cá nhân như: thu nhập từ nhượng quyền thương mại; thu
nhập từ nhận thừa kế, nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức
kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc
đăng ký sử dụng; thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi khi
có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính đối với trúng
thưởng xổ số và khuyến mại); thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ
chức kinh tế.
Thu nhập từ nhượng quyền thương mại là các khoản thu nhập mà cá nhân
nhận được từ các hợp đồng nhượng quyền thương mại, bao gồm cả việc nhượng
lại quyền thương mại theo quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại.
Tuy nhiên quy định này trên thực tế không hợp lý lắm. Bởi lẽ chủ thể thực hiện
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam đó là các thương nhân,và việc nhượng
quyền thương mại gắn liền với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu
kinh doanh, logo nổi tiếng, có uy tín. Chính vì vậy, thu nhập từ hợp đồng


nhượng quyền thương mại là một trong những thu nhập từ hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Mục đích của các nhà làm luật khi đưa quy định này có thể là
tính dự liệu cho tương lai.
Hai là, một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như lãi
tiền cho vay vốn, lãi mua tín phiếu, cổ phiếu, thu nhập từ hoạt động đầu tư
chứng khoán, chênh lệch mua bán chứng khoán thì nay được đưa vào đối tượng
chịu thuế của Luật thuế thu nhập cá nhân. Luật đã quy định rõ đối tượng chịu
thuế trong trường hợp này: thu nhập từ đầu tư vốn (tiền lãi từ cho vay vốn, lợi
tức cổ phần và thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác); thu nhập từ
chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán.
 Thu nhập từ đầu tư vốn là khoản thu nhập nhận được từ hoạt động cho cơ sở
sản xuất, kinh doanh vay, mua cổ phần hoặc góp vốn sản xuất kinh doanh dưới
các hình thức sau:
- Tiền lãi nhận được từ các hoạt động cho tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia

đình, nhóm cá nhân kinh doanh, cá nhân vay theo hợp đồng vay (trừ tiền lãi gửi
được từ ngân hàng, tổ chức tín dụng);
- Lợi tức, cổ tức nhận được từ việc góp vốn cổ phần;
- Lợi tức nhận dược do tham gia góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty hợp danh, hợp tác xã, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh và
các hình thức kinh doanh khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật
Hợp tác xã;
- Phần tăng thêm của giá trị vốn góp nhận được khi giải thể doanh nghiệp,
chuyển đổi mô hình hoạt động, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp hoặc khi rút
vốn (không bao gồm vốn gốc được nhận lại);
- Thu nhập nhận được từ các khoản lãi trái phiếu, tín phiếu, và các giấy tờ
khác do các tổ chức trong nước phát hành, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu do
Chính phủ Việt Nam phát hành;
- Các khoản thu nhập nhận được từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác kể
cả trường hợp góp vốn đầu tư bằng hiện vật, bằng danh tiếng, bằng quyền sử
dụng đất, bằng phát minh, sáng chế…


Dường như việc đánh thuế thu nhập từ lợi tức cổ phần không được hợp lý.
Cơ sở cho khẳng định này là ở việc lợi tức mà các nhà đầu tư được hưởng đã
qua một vòng đánh thuế (đó là thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm 25%), do đó
việc tiếp tục đánh thuế trên lợi tức là đánh thuế hai lần- tức đánh thuế chồng lên
thuế. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng: việc loại trừ thu nhập từ lãi trái
phiếu do Chính phủ phát hành cũng tạo ra sự không công bằng với các hình thức
đầu tư khác như: mua trái phiếu công ty…bởi lẽ Nhà nước trong mối quan hệ
với người nắm giữ trái phiếu cũng như các tổ chức phát hành khác. Đây là quan
hệ dân sự nên không có sự đặc quyền cho ai kể cả Người đó là Nhà nước.Tuy
nhiên quan điểm khác lại cho rằng việc không đánh thuế đối với thu nhập từ lãi
trái phiếu do Chính phủ phát hành cũng có những điểm hợp lý của nó. Quan
điểm này đứng trên giác độ: bản chất của trái phiếu Chính phủ là khoản vốn Nhà

nước huy động để đầu tư vào các công trình trọng điểm quốc gia, có khi la bù
đắp bội chi ngân sách nhà nước, nó không mang lại tính chất kinh doanh cộng
với việc lãi suất thấp. Do đó quy định không đánh thuế đối với khoản thu nhập
này là hợp lý, vừa khuyến khích được việc huy động vốn trong dân chúng để
xây dựng cơ sở hạ tầng, vừa kế thừa được các quy định cũ của pháp luật. Theo
quan điểm của cá nhân em thì thu nhập từ lãi trái phiếu do Chính phủ phát hành
cũng nên trở thành đối tượng chịu thuế của Luật thuế thu nhập cá nhân. Điều
này tạo nên sự bình đẳng, công bằng với các nhà đầu tư trong các lĩnh vực khác.
Mặt khác việc đánh thuế vào lãi cho vay theo hợp đồng thông thường mà
không đánh thuế đối với lãi tiền gửi ngân hàng, tổ chức tín dụng nếu nhìn bề
ngoài thì đó là sự đối xử không bình đẳng giữa các tổ chức trong việc cho vay.
Nhưng xét bản chất thì quy định này cũng phù hợp. Vì lẽ hoạt động cho vay của
ngân hàng là chức năng của ngân hàng và ngân hàng đã phải chịu khoản thuế
thu nhập doanh nghiệp rồi, do vậy mà khách hàng sẽ không phải chịu thuế đối
với phần lãi đối với khoản tiền vay. Xét về khía cạnh xã hội , chính sách tiền tệ
quốc gia thì quy định này giúp huy động nhiều hơn nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân chúng, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia trong mỗi giai đoạn.
Thử đặt trường hợp nếu người dân gửi ngân hàng và tiền lãi họ bị đánh thuế thì


không ai còn muốn gửi tiền vào ngân hàng nữa. Ngân hàng sẽ khó hoạt động
bình thường đặc biệt là các ngân hàng hoạt động chủ yếu bằng vốn vay.
 Thu nhập từ chuyển nhượng vốn là khoản tiền lãi nhận được từ việc chuyển
nhượng vốn của cá nhân trong các trường hợp sau:
- Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp trong các công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần, các hợp đồng hợp tác kinh doanh,
hợp tác xã, tổ chức kinh tế, tổ chức khác;
- Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán bao gồm: thu nhập từ việc
chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán
khác theo quy định của Luật Chứng khoán;

- Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác.
Thu nhập nổi bật ở đây và cũng là thu nhập mà các nhà làm luật muốn vươn
tới đó chính là thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán. Nó đã nằm ngoài vòng
điều chỉnh của thuế thu nhập cá nhân trong những năm qua. Trong những năm
gần đây, khi mà có những người giàu lên nhanh chóng vì đầu tư chứng khoán,
thì khoản thu nhập đó phải được sự điều chỉnh của Luật thu nhập cá nhân là cần
thiết. Mặc dù đã được quy định chi tiết, cụ thể nhưng khoản thu nhập từ chuyển
nhượng chứng khoán vẫn gây băn khoăn cho những nhà đầu tư bởi vì đây là một
lĩnh vực nhạy cảm chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như : khủng hoảng nền kinh
tế, việc mua vào bán ra cổ phiếu của các nhà đầu tư chiến lược…Vì vậy mà giá
chuyền nhượng chứng khoán luôn biến động nằm ngoài dự đoán của các nhà
đầu tư. Trên thị trường giao dịch chứng khoán thì có những chuyển nhượng có
lãi và cả những chuyển nhượng chịu lỗ. Về nguyên tắc, chỉ những chuyển
nhượng có lãi mới phải chịu thuế nhưng pháp luật không quy định vậy mà lại
xác định căn cứ giá chứng khoán theo sổ sách kế toán trong trường hợp không
ghi giá chuyển nhượng hoặc ghi thấp hơn giá theo sổ sách kế toán đơn vị có
chứng khoán, hoặc giá mua trong hợp đồng ghi cao hơn giá theo sổ sách kế toán.
Lấy giá sổ sách kế toán làm căn cứ không hiện thực bởi giá này cũng xê dịch
phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của công ty.


Cá nhân em cũng đồng ý với ý kiến của một số chuyên gia rằng cho không
nên đưa khoản thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán vào đối tượng chịu thuế
của Luật thuế thu nhập cá nhân. Bởi lẽ như vậy không khuyến khích được các
nhà đầu tư đầu tư vào chứng khoán trong khi thị trường chứng khoán ở Việt
Nam còn non trẻ, Nhà nước đang có định hướng phát triển thị trường này trong
tương lai. Việc đánh thuế hoặc đánh thuế quá cao sẽ tạo ra một rào cản cho sự
phát triển của thị trường này. Hơn thế nữa, xuất phát từ thực tế mặc dù đã được
luật quy định nhưng có rất nhiều người không nộp khoản thuế này, trốn thuế, lậu
thuế diễn ra liên tục. Chi phí quản lý cho hoạt động này khá là tốn kém nên

không nên quy định khoản thuế này ít nhất là trong thời gian này.
Ba là, một số khoản thu nhập được điều chỉnh trong các văn bản pháp luật
thì nay được điều chỉnh chung trong một văn bản pháp luật là Luật thuế thu
nhập cá nhân, đó là thu nhập từ kinh doanh của cá nhân được điều chỉnh bởi
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003, thuế thu nhập tử chuyển quyền sử
dụng đất theo Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất sửa đổi bổ sung năm 1999
(nay hai văn bản này đã hết hiệu lực). Trong đó thu nhập từ kinh doanh là thu
nhập có được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực như: thu
nhập từ sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành
nghề theo quy định của pháp luật; thu nhập từ hành nghề độc lập của cá nhân
trong những lĩnh vực, ngành nghề được cấp giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề
theo quy định của pháp luật, thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh nông
nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản không đáp ứng
đủ điều kiện miễn thuế. Còn thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là khoản
thu nhập nhận được từ việc chuyển nhượng bất động sản bao gồm thu nhập từ
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu
hoặc sử dụng nhà ở, thu nhập từ chuyển quyền thuê đất, thuê mặt nước khác và
các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản.
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản trở thành đối tượng chịu thuế
thu nhập cá nhân được sự hoan nghênh của đa số người dân. Những năm gần
đây thị trường bấ động sản phát triển khá manh, có những lúc có những cơn sốt


đốt, những giao dịch như vậy mang lại cho cá nhân sở hữu chúng có những
khoản thu nhập khổng lồ mà không cần bỏ ra nhiều chi phí. Tuy nhiên lại có
hiện tượng đầu cơ nâng giá đất lên quá cao đã làm ảnh hưởng đến đa số người
dân lao động nghèo không có khả năng mua nhà, mua đất, trong khi đó có một
bộ phận rất nhỏ những người mua bán, đầu cơ đất đai lại chiếm được những
khoản lợi nhuận khổng lồ, những phần lợi nhuận này lại hầu như chưa có một
sắc thuế hoàn chỉnh điều tiết. Vì vậy, khi mà khoản thu nhập này chịu sự điều

chỉnh của pháp luật, bên cạnh mục tiêu điều tiết thu nhập, tăng thu cho ngân
sách nhà nước, nó còn có tác dụng điều tiết thị trường bất động sản vốn đã rất
phức tạp, rất “nóng” ở Việt Nam trong thời gian qua. Việc điều chỉnh thu nhập
của cá nhân có được từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất trong Luật thuế
chuyển quyền sử dụng đất trước đây là bất hợp lý, do khi tính thuế chỉ căn cứ
vào giá chuyển nhượng mà chưa tính đến giá vốn và những chi phí có liên quan,
gây nên sự không công bằng giữa những người nộp thuế. Vì vậy, Luật thuế thu
nhập cá nhân điều chỉnh khoản thu nhập này là cần thiết và hợp lý, khắc phục
những hạn chế trong quy định cũ của pháp luật
Tuy nhiên thực tế hiện nay lại khoản thu về ngân sách nhà nước đối với
đối tượng là thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản chiếm tỷ lệ ít.
Các đối tượng phải nộp thuế có nhiều cách để không phải thực hiện nghĩa vụ
này với nhà nước. Họ tìm mọi cách để đưa mình về đối tượng có thu nhập được
miễn thuế được quy định tại điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân: chứng minh
rằng đó là tài sản duy nhất. Đối với nước ta khi mà hệ thống thông tin quản lý cá
nhân của cơ quan Nhà nước còn yếu, chưa thể kiểm soát được một cá nhân có
bao nhiêu nhà ở, đất ở thì quy định này (quy định tại khoản 2 điều 4) dễ bị lợi
dụng để trốn thuế. Trong trường hợp giá tính thuế của việc chuyển nhượng thì
các bên cũng có thể lợi dụng để trốn thuế hoặc chí ít cũng để giảm tối đa số tiền
thuế phải nộp. Theo quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành thì
thu nhập tính thuế được xác định bằng giá chuyền nhượng với các chi phí có liên
quan. Mặt khác giá chuyển nhượng lại được xác định là giá thực tế ghi trên hợp
đồng chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng (điểm a khoản 2, điều 18 NĐ


100/2008) nhưng không thấp hơn giá đất do UBND tỉnh, thành phố quy định.
Mặc dù thực tế giá chuyển nhượng cao hơn rất nhiều giá do UBND tỉnh, thành
phố quy định nhưng các bên thường thỏa thuận ghi giá trên hợp đồng thấp hơn
thực tế. Như thế bên nộp thuế sẽ được nộp thuế thấp hơn số thuế phải nộp. Và
trong trường hợp này Nhà nước là người chịu thiệt. Trường hợp thứ ba đó là luật

quy định thu nhập từ việc chuyển nhượng bất động sản giữa những người có
quan hệ huyết thống ba đời, giữa bố mẹ với con dâu, con rể thì không nằm trong
đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân (khoản 1, Điều 4 Luật thuế thu nhập cá
nhân). Theo quy định này thì hai chị em dâu chuyển nhượng bất động sản cho
nhau thì thu nhập phát sinh từ việc chuyển nhượng đó cũng thuộc đối tượng chịu
thuế. Nhưng để lách luật, người chị dâu làm thủ tục chuyển nhượng cho bố
chồng, sau đó bố chồng lại chuyển nhượng tiếp cho người em dâu. Cả hai lần
chuyển nhượng này thì thu nhập của việc chuyển nhượng không bị đánh thuế.1
Như vậy, để quy định này đi vào thực tế không chỉ đường cho các hiện
tượng “lách luật” thì cần có cơ chế thông tin, giám sát của các cơ quan quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực này ngày càng gắt gao và chặt chẽ hơn nữa. Cũng có
thể áp dụng khoa học công nghệ, hệ thống dữ liệu điện tử để quản lý.
Như vậy, luật thuế thu nhập cá nhân đã vươn cánh tay ra điều chỉnh
những lĩnh vực mà trước đây Pháp lệnh không điều chỉnh. Bên cạnh đó cũng
quy định cụ thể chi tiết hơn những đối tượng chịu thuế trước được quy định
trong pháp lệnh. Mặc dù đối tượng chịu thuế được quy định trong các văn bản
luật thuế thu nhập cá nhân đã tương đối rõ ràng và cụ thể nhưng thực tế dường
như việc thu loại thuế này vẫn chưa “vừa lòng” Nhà nước. Hiện tượng trốn thuế,
gian lận thuế vẫn diễn ra liên tục và xu hướng ngày càng tăng. Muốn hạn chế
dẫn tới triệt tiêu tình trạng này cần tiến hành các biện pháp
- Ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ trong vấn đề kiểm soát thu nhập
của người có thu nhập chịu thuế. Có thể là việc ban hành hệ thống máy tính nội
bộ quản lý thu nhập của từng người thống nhất trong từng ngành, từng lĩnh vực
trong phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia. Tương tự như việc kiểm soát cá nhân ở
1

/>

nước ngoài. Theo cá nhân em, việc làm này cũng không khó trong điều kiện
công nghệ thông tin hiện nay.

- Tiếp theo đó là việc nâng cao ý thức người dân về việc nộp thuế. Tiến
hành các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật để làm sao người có thu
nhập nhận thức rõ việc nộp thuế thu nhập cá nhân là quyền và nghĩa vụ của
mình, và việc trốn thuế là tội lớn như ở nước ngoài. Làm việc này không đơn
giản, cần thời gian và cần sự ý thức của người dân, sự phối hợp của các cấp các
ngành liên quan tới lĩnh vực này.


Mục lục
I. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN.................................................................1
II. SỰ KẾ THỪA ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ CỦA LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
SO VỚI PHÁP LỆNH THUẾ THU NHẬP CAO......................................................................2
III. NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN.........................................................................................................................................4
Thứ nhất, Luật thuế thu nhập cá nhân quy định chi tiết, cụ thể hơn, phân chia thành những
loại thu nhập khác nhau theo nguồn gốc phát sinh.................................................................4
Thứ hai: Luật thuế thu nhập cá nhân đã mở rộng diện điều tiết một các hợp lý trên cơ sở bổ
sung một số khoản thu nhập chịu thuế. Điều này có nghĩa là đối tượng chịu thuế đã được
mở rộng...................................................................................................................................6



×