Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.66 KB, 13 trang )

Mục lục:
A. Lời mở đầu:
B. Giải quyết vấn đề:
I. Một số khái niệm:
1. Khái niệm về khiếu nại tố cáo.
2. Pháp chế và bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
II. Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc
bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.

C. Kết luận:

1


Lời mở đầu:
Khiếu nại và tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân. Thực
hiện quyền khiếu nại là một hình thức thể hiện tính dân chủ, trực tiếp để nhân dân
tham gia hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giám sát hoạt động cuả các
cơ quan nhà nước, công chức nhà nước. Nhà nước ta quy định quyền và nghĩa vụ
khiếu nại, tố cáo của công dân không chỉ ở Điều 74 Hiến pháp 1992 mà còn quy
định cụ thể quyền và nghĩa vụ này trong một đạo luật – Luật khiếu nại, tố cáo ban
hành ngày 02/12/1998.
Giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo hành chính là góp phần phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, góp phần đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong các
cơ quan nhà nước, ổn định tình hình chính trị - xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đóng vai trò rất quan trọng trong
việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
Trong bài làm của mình, em xin trình bày về vấn đề vai trò của khiếu nại, tố
cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý
hành chính nhà nước. Do bài làm còn nhiều thiếu sót và hạn chế, kính mong thầy
cô giúp đỡ.


Em xin chân thành cảm ơn.

2


Giải quyết vấn đề:
I. Một số khái niệm cơ bản:
1. Khái niệm về khiếu nại tố cáo:
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân không những
được ghi nhận tại điều 74 của Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền khiếu
nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào”, mà còn được quy định cụ thể trong luật khiếu
nại tố cáo năm 1998.
a. Khái niệm khiếu nại:
Khiếu nại là hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội như là một phản
ứng của con người trước một quyết định, một hành vi nào đó mà người khiếu nại
cho rằng quyết định hay hành vi đó là không phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực
trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Dưới góc độ pháp lý, Khái niệm về khiếu nại đã được thể hiện trong một số văn
bản quy phạm pháp luật như : Pháp lệnh Quy định về việc xét và giải quyết các
khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1981, Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân
năm 1991… Nhưng đến khi luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 được ban hành, khái
niệm khiếu nại mới thực sự được ghi nhận đầy đủ là : “việc công dân, cơ quan, tổ
chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định đề
nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ

3



cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của mình” (Khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998).
Theo Khoản 3 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: "Người khiếu nại là
công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại”. Do
đó, chủ thể của việc khiếu nại bao gồm công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,
công chức. Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng được quyền khiếu nại, tuy nhiên
công dân Việt Nam là chủ thể sử dụng quyền khiếu nại thường xuyên và tích cực
nhất. Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại phải là người có năng lực hành vi đầy đủ
và phải tự mình thực hiện quyền khiếu nại.
Về đối tượng của khiếu nại, theo Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 gồm:
quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức..
b. khái niệm tố cáo:
Cùng với khiếu nại, quyền tố cáo của công dân đã được ghi nhận trong Hiến
pháp, Luật khiếu nại, tố cáo và nhiều văn bản pháp luật khác. Khái niệm tố cáo có
thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ pháp lý, tố cáo được
hiểu: “là việc công dân theo thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định báo cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” (Khoản
2, Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo).
Chính vì vậy, cho dù, công dân có bị chịu ảnh hưởng hay không chịu ảnh
hưởng bởi hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì công dân cũng có quyền và nghĩa vụ phải
4


thông báo cho các cơ quan có thẩm quyền để có phương thức giải quyết, xử lý
nhanh chóng, chính xác. Khi công dân thực hiện quyền tố cáo thì giữa họ với cơ

quan nhà nước sẽ phát sinh những quan hệ pháp luật nhất định và họ phải chịu
trách nhiệm về những thông tin mà mình cung cấp.
Nội dung tố cáo của công dân rất đa dạng, đó có thể là những việc làm trái
pháp luật của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ,
công vụ; là những sai phạm trong công tác quản lý của các cơ quan, trong đó có cơ
quan quản lý hành chính nhà nước; là các hành vi vi phạm về đạo đức, lối sống của
cán bộ, công chức…Nói chung, đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật
của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Khi thực hiện quyền tố cáo là công dân đã thực hiện quyền làm chủ của
mình trong việc xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước làm cho bộ máy nhà nước
ngày càng phát huy hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội; hay nói rõ
hơn thực hiện quyền tố cáo chính là việc tỏ rõ trách nhiệm của một công dân
không chỉ trong việc giám sát hoạt động quản lý của Nhà nước để xây dựng bộ
máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh mà còn đối với cả việc xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước để đây thực sự là những “người đại biểu của
nhân dân”, góp phần ngăn chặn, tiến tới loại trừ những hành vi quan liêu, hách
dịch, cửa quyền, sách nhiễu quần chúng của một bộ phận cán bộ công chức nhà
nước. Tuy nhiên, công dân thực hiện quyền tố cáo thường bị đặt vào tình thế bất
lợi, thường bị hành hung, đe dọa, ức hiếp, trả thù. Chính bởi vậy mà trong những
năm qua Luật khiếu nại, tố cáo đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung, quy định đầy
đủ, chi tiết và chặt chẽ hơn về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo
và người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, để bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho
công dân thực hiện quyền của mình.
5


c. Phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo:
Khiếu nại và tố cáo đều là các quyền chính trị cơ bản của công dân, thường
được quy định trong cùng một điều luật hay trong cùng một văn bản. Tuy nhiên

giữa khiếu nại và tố cáo có những đặc điểm khác nhau cả về nội dung và cách thức
giải quyết:
+ Chủ thể: Chủ thể của hành vi khiếu nại rộng hơn so với chủ thể của hành
vi tố cáo. Chủ thể của hành vi khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức, công dân, cá
nhân và tổ chức nước ngoài (hoặc đại diện hợp pháp của họ) có quyền lợi bị xâm
hại bởi một quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính,
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính. Còn chủ thể của hành vi tố cáo lại
chỉ có thể là một cá nhân, tức là chỉ bao gồm công dân và người nước ngoài.
+ Đối tượng: Đối nghịch với vấn đề chủ thể, hành vi tố cáo lại có phạm vi
đối tượng rộng hơn rất nhiều so với hành vi khiếu nại. Có thể nói, đối tượng của tố
cáo là tất cả các hành vi vi phạm pháp luật có thể tác động trực tiếp đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người tố cáo có thể không . Trong khi đó, đối tượng của khiếu
nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ,
công chức từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống, những quyết định và hành vi
này phải có tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
+ Trình tự giải quyết: Chỉ có một sự khác biệt duy nhất ở thời hiệu khởi kiện
giữa hai hành vi khiếu nại và tố cáo. Đó là thời hiệu khiếu nại là 90 ngày ( điều 31
luật khiếu nại tố cáo, 1998) hoặc là 15 ngày đối với khiếu nại quyết định kỷ luật
cán bộ công chức kể từ ngày nhận quyết định kỷ luật. Nhưng cũng có một số
trường hợp đặc biệt quy định tại điều 31 luật khiếu nại tố cáo, 1998: “Trong
trường hợp vì ốm đau, thiên tai địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì

6


những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền
khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không được tính vào thời
hiệu khiếu nại”. Còn đối với tố cáo, pháp luật hiện hành không quy định về thời
hiệu tố cáo.
+ Mục đích: Nếu như mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ và khôi phục

quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại bị xâm hại bởi quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan hoặc người có thẩm quyền. Thì mục đích của tố
cáo không chỉ dừng ở việc bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của
người tố cáo mà cao hơn thế nữa là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
+ trách nhiệm pháp lí: người khiếu nại không phải chịu trách nhiệm khi
khiếu nại không có căn cứ pháp lí, còn người tố cáo phải chịu trách nhiệm khi cố
tình tố cáo sai sự thật.
2. Pháp chế và bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
a. Pháp chế
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật
mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Nội dung của
pháp chế rất phong phú, trong đó nội dung cơ bản nhất là sự triệt để tôn trọng
pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Ta có thể hiểu
Pháp chế là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất cả các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp
luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Một nền pháp chế thống
nhất, vững chắc là nền tảng cần thiết cho hệ thống pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội một cách có hiệu quả, phát huy được hiệu lực của mình; mặt
khác, chỉ khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và được

7


sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung kịp thời khi cần thiết, thì nền pháp chế mới được
củng cố và tăng cường.
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định :
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.” . Pháp luật là phương tiện quan trọng để các chủ thể quản lí
hành chính nhà nước sử dụng nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm
vụ của mình. Nhưng pháp luật chỉ thực sự phát huy vai trò, tác dụng của mình

khi nó được tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh trong thực tiễn.
b. Bảo đảm pháp chế:
Bảo đảm pháp chế tức là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương
tiện, phương pháp và những khả năng thực hiện trên thực tế đối với pháp luật
hiện hành nhằm xây dựng và củng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân, bảo
vệ các quyền và nghĩa vụ của công dân trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Các biện pháp bảo đảm pháp chế cơ bản bao gồm hoạt động giám sát của cơ
quan quyền lực nhà nước, hoạt động kiểm tra của các cơ quan hành chính nhà
nước, hoạt động xét xử của tòa án, hoạt động kiểm tra giám sát của tổ chức xã
hội và công dân.
Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi bộ máy Nhà nước,
các địa phương và mọi công dân trong cả nước phải nhận thức và thực hiện
giống nhau đối với toàn bộ hệ thống pháp luật đã ban hành. Nó không cho phép
mỗi nơi có luật lệ riêng, duy trì tình trạng “phép vua thua lệ làng”, thực hiện
pháp luật của nhà nước theo cách “vận dụng” riêng của mình. Nó chống lại thói
cục bộ, địa phương. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế là điều kiện không
thể thiếu để củng cố, tăng cường tính pháp chế đối với mọi công dân và quyền
lực của nhà nước.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành pháp là quản lí hành chính nhà
nước. Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước
8


được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có
nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan
quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường
xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị.
Nói cách khác, quản lí hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành – điều hành
của nhà nước.
Trong quản lí hành chính nhà nước, yêu cầu bảo đảm pháp chế đóng

vai trò rất quan trọng. Bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có
nghĩa là bằng những cơ chế và hoạt động pháp lí làm cho pháp luật được thực
hiện có hiệu quả trong thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước mà trước hết
là hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Bảo đảm pháp chế trong quản lí
hành chính nhà nước suy cho cùng là làm cho hoạt động thực thi pháp luật ngày
càng có hiệu quả trong thực tế. Bảo đảm pháp chế không chỉ dựa vào việc thực
thi pháp luật mà cao hơn thế, phải nhấn mạnh việc chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật của mọi chủ thể trong xã hội.
II. Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc bảo
đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước:
Trong quản lí hành chính nhà nước, công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo là giúp họ thực hành quyền dân chủ trực tiếp, tham gia thiết thực vào quản lí
nhà nước, quản lí xã hội mà thông qua đó còn là một bảo đảm cho pháp luật được
thực thi trong thực tế. Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân được nhà nước xã hội chủ nghĩa ghi nhận và bảo đảm
thực hiện. Để nhân dân thực sự giữ vai trò là người làm chủ đất nước, việc tạo điều
kiện để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước phải được ghi
nhận và đảm bảo thực hiện. Nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội với tư cách là thành viên của cơ quan, tổ chức hoặc cán

9


bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét
xử. Người dân lao động tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở được tiếp xúc với
cuộc sống gần gũi và thiết thực. Họ trực tiếp tham gia vào các hoạt động, thực
hiện, kiểm tra, giám sát các hoạt động đó, từ đó phát hiện ra những hoạt động nào
gây bất lợi cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước. Thông qua
những hoạt động đó mà người dân lao động sẽ khiếu nại, tố cáo lên cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Ví dụ : công dân tố cáo cảnh sát giao thông nhận hối lộ trong

việc xử phạt hành chính các cá nhân vi phạm luật giao thông đường bộ, công dân
khiếu nại khi mua hàng kém chất lượng.
Từ trước đến nay, Đảng. và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của
công dân. Nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành, đặc biệt là Pháp lệnh khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1991 (thay thế cho Pháp lệnh năm 1981) đã quy định
cụ thể quyền và nghĩa vụ của người khiếu nai, tố cáo, do vậy công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo đã có những chuyển biến tích cực. Chỉ tính riêng trong ngành
Thanh tra, trọng 8 năm qua (1991- 1993) toàn ngành đã tiến hành được 29.516
cuộc thanh tra, phần lớn xuất phát từ đơn tố cáo. Bằng việc giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân, năm 1993 ngành Thanh tra đã minh oan cho 15
đơn vị, 692 cá nhân, khôi phục quyền lợi kinh tế 365 người, trả lại cho dân 20.597
chỉ vàng, 272 tấn thóc, l2.612 ha ruộng đất, 89 ngôi nhà... Thu hồi vào ngân sách
nhà nước 11,309 triệu đồng, 648 tân thóc, 203 chỉ vang, 24 ha ruộng đất... Đã xử
lý kỷ luật hành chính 3829 người có hành vi sai phạm, chuyển hồ sơ sang cơ quan
điều tra dể truy cứu trách nhiệm hình sự 86 người (Tổng hợp báo cáo của 26 tỉnh,
thành phố và 3 bộ).
Tuy nhiên, bên cạnh nhũng kết quả thu được, công tác giải quyết khiếu
nại, tốcáo còn nhiều điểm yếu kém, mang nặng tính hình thức, Hạn chế về hiệu lực
và hiệu quả: Những quy định của pháp luật về thời hạn, thời hiệu bị vi phạm khá
10


phổ biến. Nhiều đơn thư bị né tránh, đùn đẩy, lòng vòng qua nhiều ngành, nhiều
cấp xảy ra khá thường xuyên. Những năm qua, tỷ lệ đơn thư tồn đọng luôn luôn ở
mức xấp xỉ 30%. Nhiều vụ đã được giải quyết nhưng hiệu lực thi hành các quyết
định khiếu nại, tố cáo còn ở mức thấp. Việc giải quyết cũng chưa thật sự khách
quan và công bằng. Nhiều khi mức độ xử lý chưa tương xứng với hành vi sai
phạm, cho nên các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo còn thiếu tính giáo dục,
ngăn ngừa. Ở nơi này, nơi khác, trình tự, thủ tục giải quyết theo quy định của pháp

luật còn chưa được tôn trọng. Tình trạng giải quyết tuỳ tiện, thiếu kiên quyết đã
không nhũng không xử lý được những người có chức, có quyền vi phạm pháp luật,
mà còn khen cho những người khiếu nại, tố cáo bị trù dập, tình trạng mất đoàn kết
nội bộ càng thêm trầm trọng. Điều này ảnh hưởng không ít đến lòng tin của nhân
dân vào các cơ quan Đảng và Nhà nước. Đó cũng là một trong những nguyên nhân
khiến cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn đạt hiệu quả thấp.
Để có thể hạn chế được những nhược điểm trước mắt, chúng ta có thể
khắc phục bằng cách thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn việc đảm bảo
quyền khiếu nại tố cáo của công dân:

-

Hoàn thiện những vản bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo.

-

Xây dựng cơ cấu tổ chức hợp lý và đội ngũ cán bộ đủ mạnh để thực hiện tốt
công tác giải quyết khiếu nại, tốcáo của công dân .

-

Kết hợp chặt chẽ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo với quá trình cải cách
thủ tục hành chính.
Nhận thức tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền khiếu nại tố cáo của

công dân, nhà nước ta đang ngày càng cố gắng, phát huy để xây dựng một nhà
nước pháp chế xã hội chủ nghĩa hoàn hảo, tiến bộ,….

11



Kết luận:
Như vậy công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đóng vai trò
quan trọng trong việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Thông qua công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền không những phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi
phạm mà còn phát hiện và khắc phục được những sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách đã làm cho những vi phạm có cơ hội phát sinh, phát triển. Làm tốt
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một biện pháp thiết thực, có hiệu quả
nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân - một nhân tố quan trọng đảm bảo cho
việc củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa hiện nay.

12


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hành Chính Việt Nam – Trường ĐH Luật Hà Nội – NXB Công an nhân
dân.
2. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại và tố cáo –
TS. Trần Văn Sơn – NXB Tư pháp.
3. website: www.thanhtra.gov.vn/
4.

Luật Khiếu nại, tố cáo số 09/ 1998/ QH10

13




×