Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích làm sáng tỏ vai trò Tòa án công lý quốc tế dưới góc độ pháp lý và thực tiễn hoạt động của tòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.71 KB, 12 trang )

ĐỀ BÀI : Phân tích làm sáng tỏ vai trò Tòa án công lý quốc tế dưới góc
độ pháp lý và thực tiễn hoạt động của tòa.
BÀI LÀM
I. LỞI MỞ ĐẦU

Tiền thân của Tòa án Công lý Quốc tế (The International Court of Justice ICJ) là Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế (The Permanent Court of
International Justice - PCIJ) - vốn là tòa án của Hội Quốc Liên ra đời vào
năm 1922. Tòa PCIJ tồn tại cùng với sự tồn tại của Hội Quốc Liên cho tới
khi UN được thành lập và ICJ ra đời thay thế cho PCIJ vào năm 1946. Trong
suốt khoảng thời gian tồn tại của mình, PCIJ đã xét xử 38 vụ tranh chấp giữa
các quốc gia và đưa ra 27 ý kiến tư vấn. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II,
UN được thành lập thay thế Hội Quốc Liên với mục đích chấm dứt chiến
tranh giữa các quốc gia và thiết lập một cơ chế đối thoại cho các nước. Cùng
với sự ra đời của UN, ICJ được thành lập dựa trên Hiến chương UN năm
1945 và bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 1946. Hoạt động của Tòa được
điều chỉnh bởi Quy chế Tòa án Công lý quốc tế (the Statute of the
International Court of Justice). Chính từ yếu tố đó vai trò của tòa án công lý
quốc tế càng to lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia trên toàn
thế giới. Trong những năm qua, tòa án công lý quốc tế đã khẳng định được
vai trò là cơ quan tài phán toàn cầu trong việc giải quyết các tranh chấp giữa
các quốc gia, có nhiều đóng góp cho việc thực thi sứ mệnh gìn giữ hòa bình
và an ninh quốc tế của Liên hợp quốc. Để từ đó thấy được vai trò to lớn của
tòa án công lý quốc tế, xin được đi vào phân tích để thấy được vai trò đó :

1


II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ
1.Lịch sử hình thành của Toà án công lý quốc tế.
Tại Matxcova ngày 30/10/1943, chính phủ các nước Liên Xô, Vương quốc
Anh và Mỹ (sau đó Trung quốc cũng tham gia) kêu gọi thành lập một tổ


chức quốc tế nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Tuy nhiên, cho tới
ngày 9/10/1994, bốn cường quốc Anh, Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc tại
Dumbarton Oaks mới đưa ra đề nghị liên quan tới cơ cấu tổ chức của tổ
chức chính trị toàn cầu mới, Liên hợp quốc, theo đó:
- Toà án Công lý quốc tế là cơ quan pháp lý chính của Liên hợp quốc
- Các quốc gia thành viên Liên hợp quốc là thành viên quy chế của
Toà án công lý quốc tế.
- Quy chế của Toà, bộ phận hữu quan của Hiến chương Liên hợp quốc
cần đuợc phát triển trên cơ sở kế thừa quy chế của pháp viện thường trực.
- Tất cả quốc gia không phải là thành viên Liên hợp quốc có thể tham
gia quy chế của Toà với điều kiện chấp nhận các điều kiện chấp nhận các
điều kiện do Đại hội đồng Liên hợp quốc đưa ra căn cứ vào các khuyến nghị
của Hội đồng bảo an. Quy định này đặt nền mòng cho việc ra đời một cơ
quan tài phán thường trực mới thay thế cho pháp viện thường trực và mở
rộng khả năng cho các quốc gia tại các châu lục ngoài Châu Âu tham gia vào
cơ chế này. Tại hội nghị San Francisco năm 1945, với việc thông qua Hiến
chương Liên hợp quốc và quy chế của Toà, Toà án công lý quốc tế đã được
khai sinh và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 6/2/1946.

2


2. Thẩm quyền và cơ cấu của Tòa
a. Thẩm quyền chính của Toà.
Toà án công lý quốc tế có hai thẩm quyền chính :
- Giải quyết phù hợp với quy chế của mình, các tranh chấp giữa các
quốc gia Toà không giới hạn nhiệm vụ chỉ giải quyết tranh chấp giữa các
quốc gia thành viên Liên hợp quốc (Điều 34 – 36 Quy chế của Toà).
- Đưa ra các kết luận tư vấn về các vấn đề pháp lí mà Đại hội đồng và
Hội đồng bảo an cũng như các cơ quan khác của Liên hợp quốc, các tổ chức

chuyên môn đuợc phép của Đại hội đồng yêu cầu.
- Ngoài ra Toà còn có thẩm quyền phụ: chỉ định chán án của Toà
trọng tài, Uỷ ban trọng tài hoặc hoà giải và các uỷ viên khi cần hoặc theo
yêu cầu của các quốc gia.
b. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Chức năng của Toà án công lí quốc tế chính là giải quyết hoà bình, trên cơ
sở luật quốc tế, các tranh chấp pháp lí phát sinh giữa các quốc gia trong quan
hệ quốc tế. Toà án giúp Liên hợp quốc đạt đựoc một trong những nhiệm vụ
cơ bản của mình là giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình
phù hợp với các nguyên tắc của công lí và luật quốc tế. Theo quy định của
Toà, một tranh chấp pháp lí phải là: “Sự bất đồng trên một điểm của Luật
hoặc một sự kiện, một sự đối kháng, một sự đối lập nhau giữa các lập luận
pháp lí hay quyền lợi” Chỉ có các quốc gia mới có quyền kiện ta Toà để giải
quyết tranh chấp pháp lí giữa họ. Một khi đã có tranh chấp, Toà có thể có
thẩm quyền giải quýêt tranh chấp đó. Thẩm quyền này là độc lập, dựa trên
cơ sở tự nguyện của quốc gia hữu quan và không bị bất kì sức ép chính trị,
kinh tế nào.
c. Thẩm quyền đưa ra các kết luận tư vấn.
Điều 96 Hiến chương Liên hợp quốc quy định:
3


1. Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an có thể đòi hỏi Toà án công lí quốc
tế những kết luận tư vấn về bất kì vấn đề pháp lí nào.
2. Các cơ quan khác của Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn bất kì
lúc nào được Đại hội đồng cho phép cũng đuợc quyền hỏi ý kiến Toà án
công lí quốc tế về những vấn đề pháp lí có thể được đặt ra trong phạm vi
hoạt động của mình. Cơ chế hỏi ý kiến tư vấn của Toà chỉ dành cho các cơ
quan chính của Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn đuợc Đại hội
đồng cho phép. Các quốc gia không được yêu cầu Toà cho các kết luận tư

vấn về tranh chấp của mình. Tuy nhiên, các quốc gia này cũng như các tổ
chức quốc tế bất kì đều có quyền và nghĩa vụ cungc ấp tin tức, tài liệu văn
bản có liên quan tới vấn đề hoặc có thể tường trình bằng lời trong phiên hợp
đông khai đựoc triệu tập nhằm mục đich xem xét vấn đề.
* Về cơ cấu của Tòa : Thành phần của TAQT gồm 15 thẩm phán, là công
dân của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, do Đại hội đồng Liên hợp
quốc và Hội đồng Bảo an bầu ra với nhiệm kì 9 năm và cứ 3 năm lại bầu lại
5 thẩm phán. Về nguyên tắc, trong cơ cấu của TAQT phải có đại diện của tất
cả các hệ thống pháp luật trên thế giới và là những luật gia nổi tiếng, có uy
tín trong lĩnh vực pháp luật quốc tế. Đã có công dân của các quốc gia: Anh,
Pháp, Bỉ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Italia, Hungari, Xri Lanka,
Mađagaxca, Angiêri, Guyana, Vênêzuêla, Xiêra Lêôn tham gia TAQT.

III. BÀN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ
Chức năng chính của Toà án quốc tế là giải quyết hoà bình các tranh chấp
quốc tế, vụ kiện do các quốc gia đưa lên phù hợp với luật pháp quốc tế. Mục
tiêu của toà án là áp dụng các tập quán quốc tế để thiết lập các quy tắc được
4


các quốc gia liên quan chính thức công nhận; các thông lệ quốc tế được chấp
nhận như luật; các nguyên tắc chung của luật pháp được các quốc gia công
nhận; các phán quyết của tòa án...Tòa án cũng khuyến nghị Đại hội đồng,
Hội đồng Bảo an về lĩnh vực luật pháp, các vấn đề luật pháp nổi lên trong
phạm vi hoạt động của các cơ quan này, khuyến nghị các cơ quan khác của
Liên hợp quốc, các cơ quan chuyên môn với sự uỷ quyền của Đại hội đồng.
1. Toà án công lí quốc tế cơ quan thi hành luật quốc tế nhằm gìn giữ hoà
bình và an ninh quốc tế.
Toà án công lí quốc tế là cơ quan pháp lí chính của Liên hợp quốc. Đây
không phải là một tổ chức lập pháp mà chỉ là một cơ quan tài phán đưa ra

các phán quyết và các kết luận tư vấn trong chừng mực thẩm quyền cho
phép. Tuy nhiên, ngày nay không có một cơ quan tài phán nào giải quyết các
vấn đề cộng đồng quốc tế trong một tổng thể và đuợc các quốc gia sử dụng
một cách chung nhất trong việc bảo vệ những giá trị của luật quốc tế như
Toà án công lí quốc tế. Các phán quyết và kết luận tư vấn của Toà án đã đề
cập mọi khiá cạnh khác nhau của công pháp cũng như tư pháp quốc tế liên
quan tới tất cả các bên trên thế giới, tới việc kiểm tra các hệ thống pháp lí
khác nhau, các thực tiễn quốc gia đa dạng cũng như hoạt động nội bộ của
các tổ chức quốc tế. Toà đã chứng tỏ vấn đề không phải ở chỗ các vụ tranh
chấp đưa ra trước Toà có tầm quan trọng đặc biệt hay không mà chính là
thông qua việc giải quyết các tranh chấp, Toà cùng các cơ quan hành chính
khác của Liên hợp quốc thúc đẩy quá trình duy trì hoà bình và an ninh quốc
tế, và phát triển các quan hệ hợp tác giữa các quốc gia. Toà đã có bước khởi
đầu tốt đẹp qua các vụ Eo biển Corfou năm 1949, quyền tị nạn 1950 hoặc
các kết luận tư vấn bồi thường thiệt hại cho các hoạt động của các quốc gia
của Liên hợp quốc năm 1949. Tuy có một giai đoạn 1960-1970, niềm tin vào

5


hoạt động của Toà án công lí quốc tế cũng như số lượng các vụ tranh chấp
và yêu cầu kết luận tư vấn của Toà án giảm sút nhưng sau khi sửa đổi nội
quy vào những năm 1972 và 1978 phần lớn các yêu cầu kết luận tư vấn đã
có kết quả sau 3-6 tháng.
2. Đóng góp vào Luật quốc tế.
Với sứ mệnh của mình là giải quyết các tranh chấp pháp lí giữa các quốc
gia và giúp đỡ các tổ chức quốc tế hoạt động một cách có hiệu quả, với việc
duy trì công lí cho hoạt động của Toà đã có những đóng góp to lớn trong
việc khẳng định vai trò của Liên hợp quốc trong quan hệ quốc tế cũng như
việc phát triển của Luật quốc tế. Các quyết định của Toà không chỉ giới hạn

trong việc giải thích và nhận thức quá trình phát triển của Luật quốc tế.
Trong nhiều trường hợp, chính Toà đã đóng góp vào quá trình phát triển đó.
Bằng việc giải thích luật quốc tế thực định và áp dụng chúng vào các hoàn
cảnh đặc thù, các quyết định của Toà đã làm sáng tỏ thêm luật quốc tế và
qua đó phần nào đã mở đường cho các quốc gia phát triển tiếp nhận Luật
quốc tế. Đóng góp trong luật án lệ của Toà là to lớn. Về vấn đề chủ thể của
Luật quốc tế, Toà đã có những cống hiến trong việc xây dựng các yếu tố
hình thành nên quốc gia cũng như tổ chức quốc tế. Rất nhiều các phán quyết
của Toà đã liên quan đến vấn đề lãnh thổ như “Các đảo Minquiers và
Ecrehaus, quyền qua lại trên lãnh thổ Ấn Độ, Chủ quyền trên một số vùng
đất Biên giới (Bỉ/ Hà Lan), tranh chấp Biên giới Buôckina Phaso/ Mali, các
hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa...,
tất cả những vụ đó đã phát triển các lí luận về thụ đắc lãnh thổ, về nguyên
tắc chiếm hữu thật sự và nguyên tắc uti possidetis và góp phần tích cực giải
quyết hoà bình các tranh chấp lãnh thổ. Toà cũng làm sáng tỏ thêm lí thuyết
về quyền năng chủ thể, khẳng định tổ chức quốc tế là một chủ thể phát sinh
trong Luật quốc tế. Toà kết luận: “Tổ chức (Liên hợp quốc) có quyền năng
6


chủ thể. Điều đó không có nghĩa là nói tổ chức là một quốc gia, nó hoàn toàn
không đúng vậy, hoặc quyền năng chủ thế của nó, các quyền và nghĩa vụ của
nó cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của quốc gia. Càng không đúng
khi nói rằng tổ chức là một “siêu quốc gia”, dù nghĩa của cách biểu thị này
như thế nào. Điều này cũng không hàm ý rằng tất cả các quyền và nghĩa vụ
của tổ chức phải được tìm thầy trên trường quốc tế, càng không phải rằng tất
cả các quyền và nghĩa vụ của quốc gia không đuợc thấy đặt ở đó. Điều này
có nghĩa rằng tổ chức là một chủ thể của luật quốc tế, rằng nó có khả năng là
bên thụ hưởng các quyền và nghĩa vụ quốc tế và nó có khả năng thể hiện các
quyền của mình bằng con đường yêu sách quốc tế”. Trong lĩnh vực phi thực

dân hoá, Toà đã làm sáng tỏ Jus cogens của nguyên tắc quyền dân tộc tự
quyết. Toà lên án các hành động đựoc coi là vi phạm các mục tiêu và nguyên
tắc của hiến chương Liên hợp quốc. Toà cho rằng các quốc gia phải có nghĩa
vụ chung đối với cộng đồng quốc tế trong việc đấu tranh vì những quyền lợi
và giá trị con người. Trong lĩnh vực luật điều ước, Toà đã khẳng định
nguyên tắc: tập quán và điều ước là hai nguồn tương đương nhau của Luật
quốc tế, mọi văn kiện quốc tế cần phải đuợc giải thích và áp dụng trong
khuôn khổ hệ thống pháp lí có hiệu lực vào thời điểm tiến hành giải thích.
Trong lĩnh vực Luật kinh tế, Toà cũng có những đóng góp nhất định trong
việc bảo vệ đầ tư nước ngoài, giải thích luật áp dụng và nêu ra những thiếu
xót cũng như phương pháp bổ sung, qua đó thúc đẩy quá trình pháp điển
hoá. Trong lĩnh vực luật môi trường, Toà đã nhấn mạnh tới xu hướng hiện
đại khi giải quyết những tranh chấp liên quan tới môi trường và đã lập ra
Toà rút gọn để giải quyết các vấn đề về môi trường. Toà cũng có những
đóng góp trong việc xây dựng các nguyên tắc điều chỉnh trách nhiệm pháp lí
quốc tế của các quốc gia. Các phán quyết của Toà về quy thuộc trách nhiệm
cho một quốc gia (phái đoàn ngoại giao và lãnh sự Mỹ tại Teheran) đóng vai
7


trò không nhỏ trong quá trình pháp điển hoá các nguyên tắc liên quan đến
trách nhiệm pháp lí quốc tế của các quốc gia đối với hành vi bất hợp pháp
quốc tế. Các phán quyết của Toà về các lĩnh vực khác như đe doạ sử dụng
vũ khí hạt nhân, quyền quá cảnh, quyền tị nạn đã làm sáng rõ thêm vai trò
của Toà trong quá trình phát trỉên Luật quốc tế.
Một đóng góp lớn nhất, hệ thống nhất, hiệu quả nhất của Toà được thể
hiện rõ nhất trong lĩnh vực luật Biển, một lĩnh vực phức tạp, gây nhiều tranh
chấp và khó xác định nhất trong quan hệ quốc tế.
3. Đóng góp trong lĩnh vực luật Biển
Trong lĩnh vực biển cùng với điều chỉnh bởi Luật Biển thì Tòa án công lý

quốc tế cũng có vai trò quan trọng của mình vào lĩnh vực này đó là :
a. Đóng góp về quy chế pháp lí của eo biển quốc tế.
Phán quyết đầu tiên của Tòa là một phán quyết vào năm 1949 đó là vụ Eo
biển Corfou. Trong phán quyết, Tòa đã góp phần làm sáng tỏ khái niệm
pháp lí về biển quốc tế và nguyên tắc quyền qua lại không gây hại qua eo
biển quốc tế. Tòa cho rằng các quốc gia vào thời kì hòa bình có quyền cho
các tàu chiến của họ đi lại qua các eo biển quốc tế mà không phải báo trước,
quốc gia ven biển không đuợc cản trở việc thực hiện quyền này nếu tàu
chiến không làm điều gì ảnh hưởng đến hòa bình an ninh trật tự, chủ quyền
và các quyền tài phán khác của quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển phải có
nghĩa vụ thông báo nguy hiểm nào như xác tàu đắm, mìn, đá ngầm... Và
quyền này đã được công ước Giơnevơ về lãnh thổ và vùng tiếp giáp năm
1958 công nhận và, điều chỉnh trở thành quyền quá cảnh qua các eo biển
quốc tế ( Theo Công ước Biển 1982).
b. Đóng góp về đường cơ sở thẳng.
Phán quyết năm 1951 của Tòa công lí quốc tế như sau: “Người ta không
thể khăng khăng biểu thị đường ngấn nước thủy triều thấp nhất như một
8


nguyên tắc bắt buộc chạy theo bờ biển tại các chỗ uốn gập của nó. Người ta
cũng không thể biểu thị như các ngoại lệ của nguyên tắc này, các vi phạm
nhiều đến nỗi chúng gợi lên các mấp mô của một bờ biển gồ ghề, quy tắc sẽ
mất đi trước các ngoại lệ. Toàn bộ một đường bờ biển như vậy đòi hỏi phải
áp dụng một phương pháp khác: đó là đường cơ sở cách đường hình thể của
bờ biển một khoảng cách hợp lí. Hiện nay, đường cơ sở thẳng đã trở thành
một quy phạm mang tính điều ước và tập quán quốc tế.
c. Đóng góp về khái niệm thềm lục địa.
Tại tuyên bố Truman năm 1945 và Công ứơc Giơnevơ 1958 đã đề cập về
khái niệm thềm lục địa, nhưng khái niệm cũng như bản chất pháp lí của

thềm lục địa đã được làm sáng tỏ nhất trong phán quyết thềm lục địa biển
Bắc năm 1969 của Tòa. Tòa án công lí quốc tế đã khôi phục và phát triển
thêm nguyên tắc Truman và công việc chuẩn bị của ủy ban Luật quốc tế cho
hội nghị lần thứ nhất của Liên hợp quốc. Về luật Biển, Tòa thừa nhận các
điều 1 và 3 của Công ước Giơnevơ năm 1958 tạo thành cơ sở chế độ pháp lí
của thềm lục đị, là một nguyên tắc có tính tập quán của Liên hợp quốc. Đối
với Tòa không phải tính tiếp giáp cũng không phải tính kế cận có thể minh
chứng cơ bản cho việc mở rộng thẩm quyền quốc gia trên thềm lục địa nằm
ngoài lãnh hải mà chính là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ.
Những vai trò nêu trên là những vai trò quan trọng và nổi bật nhất mà tòa
án công lý quốc tế đảm nhiệm.

9


III. KẾT LUẬN

Qua những vai trò trên thấy được Tòa án công lý quốc tế đóng góp không
nhỏ vào đời sống quan hệ quốc tế, đã giải quyết được các tranh chấp giữa
các quốc gia với nhau không những giải quyết mẫu thuẫn mà còn tạo điều
kiện để các quốc gia đó có một mối quan hệ tốt đẹp. Tòa án công lý còn
đóng góp vào việc pháp triển pháp luật quốc tế để từ đó hoàn thiện hệ thống
pháp luật phù hợp với nhu cầu ngày càng lớn của các quốc gia trên thế giới.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật quốc tế, Trường Đại học luật Hà Nội, NXB

CAND Năm 2004.
2. Sách : Nguyễn Hồng Thao, Tòa án cống lí quốc tế, Nxb, CTQG,
Hà Nội, 2000.
3. Tạp chí Luật học năm 2005 số đặc san LHQ.
4. Một số trang web điện tử

11


MỤC LỤC
2. Thẩm quyền và cơ cấu của Tòa.......................................................................................3

12



×