Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về huy động tiền gửi của tổ chức tín dụng hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.64 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Cũng như nhiều tổ chức kinh doanh khác, nguồn vốn đóng một vai trò
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các Tổ chức tín dụng (TCTD),
trong đó nguồn vốn huy động có ý nghĩa quyết định, là cơ sở để TCTD tiến
hành các hoạt động cho vay, đầu tư, dự trữ… mang lại lợi nhuận cho mình.
Để có được nguồn vốn này, TCTD cần phải tiến hành các hoạt động huy động
vốn, trong đó hình thức huy động vốn bằng nhận tiền gửi chiếm một vai trò
đặc biệt quan trọng trọng hoạt động này. Tuy nhiên việc huy động tiền gửi
của TCTD hiện nay gặp rất nhiều khó khăn như: chịu nhiều cạnh tranh từ các
chủ thể khác trong nền kinh tế cũng tiến hành hoạt động huy động tiền gửi,
chịu ảnh hưởng của những biến động trên thị trường tài chính...
Việc nghiên cứu, tìm hiểu quá trình huy động vốn bằng nhận tiền gửi,
tìm hiểu quá trình kinh doanh để có những phương án huy động tiền gửi linh
hoạt, mang tính cạnh tranh là hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn trên
nhóm chúng tôi nhận thấy vấn đề phân tích tình hình huy động vốn bằng nhận
tiền gửi của các TCTD hiện nay và đưa ra những biện pháp hay để thu hút
được nhiều nguồn tiền gửi là cần thiết. Do vậy nhóm đã chọn đề tài “Đánh
giá tình hình thực hiện pháp luật về huy động tiền gửi của tổ chức tín dụng
hiện hành.”

NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các
TCTD.
1.1. Khái niệm và đặc điểm.


Luật Ngân Hàng
Tại khoản 13 điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật Các
TCTD) quy định như sau: “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức,


cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận
tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi
tiền theo thỏa thuận.”
Như vậy, theo như quy định trên thì hoạt động huy động vốn bằng nhận
tiền gửi có những đặc điểm sau:
Thứ nhất về chủ thể: Bao gồm có hai bên chủ thể là bên gửi tiền và
bên nhận tiền gửi.
Bên gửi tiền: là các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi
tầng lớp trong xã hội có nhu cầu gửi tiền và có tiền để gửi. Họ luôn đóng vai
trò là chủ thể cho vay.
Bên nhận tiền gửi: TCTD là ngân hàng được phép thực hiện toàn bộ
hình thức nhận tiền gửi. TCTD phi ngân hàng không được nhận tiền gửi của
cá nhân mà chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức.
Thứ hai, về các hình thức nhận tiền gửi: Bao gồm các hình thức sau:
Tiền gửi không kỳ hạn (Tiền gửi thanh toán): Là loại tiền gửi khách
hàng gửi vào các TCTD để thực hiện các khoản chi trả, thanh toán. Với loại
tiền gửi này, các bên không có sự thỏa thuận trước về thời gian rút tiền.
Người gửi tiền có thẻ rút ra hoặc sử dụng bất kỳ lúc nào mà họ cần và TCTD
có nghĩa vụ phải đáp ứng yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn
thường có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi. Đối với loại tiền gửi này,
người gửi tiền muốn rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực
hiện bằng các lệnh thanh toán như: sec hoặc các phương tiện thanh toán
không bằng tiền mặt khác.
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền giử mà khách hàng gửi vào TCTD trên
cơ sở có sự thỏa thuận với TCTD nhận tiền gửi về thời gian rút tiền. Đại bộ
phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích lũy, chúng được ký thác với
mục đích hưởng lãi. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các loại tiền gửi có
thời hạn tính bằng tháng và có mức lãi suất cao.
Tiền gửi tiết kiệm: Là loại tiền gửi chỉ dành cho cá nhân, là khoản tiền

cá nhân gửi vào tài khoản tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, hưởng
lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Có hai loại tiền gửi tiết
kiệm:

Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

2


Luật Ngân Hàng
*Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có
thể rút ra bất cứ lúc nào. Nhưng nó khác với tiền gửi không kỳ hạn ở chỗ,
người gửi tiền không được sử dụng các phương tiện thanh toán.
*Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà các bên có sự thỏa
thuận về thời hạn gửi và rút tiền, loại tiền này có mức lãi suất cao hơn so với
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
1.2 Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề huy
động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD.
Ngày 16 tháng 6 năm 2010 vừa qua, Quốc hội đã ban hành văn bản
Luật các TCTD (số 47/2010), thay thế cho các văn bản Luật các TCTD trước
kia. Luật các TCTD có hiệu lực từ ngày 1/1/2011. Đến nay đã đi vào hoạt
động được hơn 2 tháng. Tuy vậy, trên thực tế các TCTD vẫn tiếp tục hoạt
động dựa trên Luật cũ bởi Luật mới ban hành ra nhưng chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể nên chưa thể thực thi ngay được.
Trong vấn đề huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD, Luật
Các TCTD 2010 chỉ có một quy định sửa chữa về vấn đề này đó là thu hẹp
phạm vi hoạt động của các TCTD phi ngân hàng. Theo đó, tại khoản 4 điều 4
Luật Các TCTD 2010 quy định các TCTD phi ngân hàng không được phép nhận tiền
gửi của cá nhân, không được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách
hàng. Quy định này phù hợp hơn với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và tạo điều

kiện để một mặt giảm bớt rủi ro cho hệ thống TCTD, mặt khác cho phép các TCTD
phi ngân hàng được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác của mình
do các quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn so với các ngân hàng
thương mại là những tổ chức nhận tiền gửi của dân cư và tham gia vào hệ thống thanh
toán.
Trong khi vẫn chưa có văn bản hướng dẫn, các TCTD trên thực tế vẫn
thực hiện hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi dựa trên những văn bản
hướng dẫn cũ như: Quyết định 1160/2004 của thống đốc ngân hàng nhà nước về
việc ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm; Quyết định 47/2006 sửa đổi bổ sung
quyết định 1160…Vì vậy, trong phần đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về vấn
đề huy động tiền gửi của các TCTD dưới đây, nhóm chúng tôi xin được trình bày
những nhận định của mình về tình hình thực hiện huy động vốn bằng nhận tiền gửi
của các TCTD theo các văn bản pháp luật trước năm 2011.
2. Thực tiễn thi hành pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền
gửi ở Việt Nam hiện nay.
Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

3


Luật Ngân Hàng
2.1. Những thành tựu đạt được.
Trong những năm vừa qua cùng với việc thực hiện các quy định của
pháp luật, hoạt động huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam đã đạt được
những kết quả khả quan: tổng số vốn huy động tăng nhanh, mạng lưới các
TCTD cũng như dịch vụ tín dụng ngày càng phát triển… Sau đây là kết quả
đạt được ở một số địa phương:
* Trên địa bàn thành phố Hà Nội:
Với điều kiện tự nhiên, kinh tế thuận lợi đây là nơi tập trung hầu hết
các tổng công ty Nhà nước, công ty nước ngoài và công ty liên doanh; nơi tập

trung các doanh nghiệp (61 tổng công ty, 914 doanh nghiệp nước ngoài, 360
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…). Mạng lưới doanh nghiệp ở Hà
Nội và số lượng dân cư đông đúc có đời sống vật chất và thu nhập cao tạo
thành một thị trường tiền gửi đầy tiềm năng.
- Trong những năm gần đây tổng nguồn vốn huy động tăng mạnh, cụ
thể:
+ Năm 2009, tổng vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Hà Nội
đạt 591.152 tỷ đồng, tăng 27,98% so với cuối năm 2008. Trong cơ cấu vốn
huy động, tiền gửi thanh toán của các tổ chức chiếm 55,4%, tiền gửi dân cư
chiếm 44,6%; tiền gửi VND chiếm tỷ trọng 73,23%, tiền gửi bằng ngoại tệ
chiếm 26,77% 1.
+ Đến 31/12/2010, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD Hà Nội
đạt 767.683 tỷ đồng tăng 31,1% so với cuối năm 2009, trong đó tiền gửi VND
và tiền gửi USD có tốc độ tăng tương ứng 38,6% và tăng 12,5% 2 .
Nhìn vào các số liệu trên ta thấy, trong cơ cấu vốn huy động tiền gửi
theo nội tệ - ngoại tệ lại khá chênh lệch, trong đó tiền gửi nội tệ chiếm tỉ trọng
cao (73,23% năm 2009). Tuy nhiên, tiền gửi thanh toán của các tổ chức và
tiền gửi dân cư khá cân bằng (chênh lệch không đáng kể).
Ta hãy xem xét bảng diễn biến huy động vốn và cơ cấu huy động vốn
của các TCTD trên địa bàn Hà Nội trong một số năm:
Năm

Tổng số vốn huy
động (tỉ đồng)

Cơ cấu (tổng số = 100%)
Tiền gửi của các tổ
Tiền gửi của dân cư
chức


1

( )
2
( />
Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

4


Luật Ngân Hàng
1990
2002
2009

0,032
0,122
591.152

52,02
56,1
55,4

47,98
43,9
44,6

- Hà Nội còn là đầu mối của Ngân hàng, 4 ngân hàng thương mại Nhà
nước, Ngân hàng chính sách xã hội, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Quỹ tín
dụng nhân dân trung ương, quỹ tín dụng nhân dân cổ phần, các Ngân hàng

thương mại cổ phần, Ngân hàng lien doanh và Ngân hàng nước ngoài… Tất
cả tạo thành một mạng lưới các TCTD. Tính đến ngày 31/12/2009, mạng lưới
hoạt động ngân hàng trên địa bàn Hà Nội có 373 tổ chức tín dụng, chi nhánh
tổ chức tín dụng với 1.587 điểm giao dịch, tăng hơn 300 điểm giao dịch so
với 31/12/2008. Mạng lưới hệ thống ngân hàng tại Hà Nội được mở rộng, đặc
biệt là tại các quận nội thành đã giúp cho người dân Thủ đô tiếp cận nhanh
chóng, thuận tiện các dịch vụ ngân hàng 3. Nhờ đó tổng số vốn huy động đạt
tốc độ tăng trưởng nhanh: năm 2009 tăng 27,98% so với năm 2008; năm
2010 tăng 31,1 % so với năm 2009.
- Các TCTD đã có các giải pháp để mở rộng huy động vốn như mở
thêm các bàn tiết kiệm, các hình thức huy động tiền gửi đa dạng, phù hợp với
các tầng lớp dân cư, lãi suất huy động linh hoạt hơn, liên kết giữa các ngân
hàng được nâng cao, các dịch vụ gắn liền với tiền gửi như: rút tiền tự động
ATM ( hiện có 1.950 ATM và 2.350 điểm chấp nhận thẻ thanh toán -POS ),
quà tặng dịch vụ ngân hàng tại nhà, qua mạng… được cung cấp ngày càng
nhiều cho khách hàng. Thu nhập của người dân tăng lên rõ rệt và chính sách
ổn định vĩ mô thành phố là là yếu tố góp phần gia tăng tiền gửi tại ngân hàng.
- NHNN Chi nhánh TP Hà Nội đã làm tốt công tác thanh tra, giám sát,
quản lý ngoại hối trên địa bàn. Thống đốc NHNN cũng đã chỉ đạo các ngân
hàng trên địa bàn Hà Nội tiếp tục thực hiện tốt một số nội dung: Mở rộng
việc cung cấp các dịch vụ tiện ích ngân hàng; Chấp hành tốt chế độ quản lý
ngoại hối; Các TCTD xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, vững chắc
trên cơ sở quản trị rủi ro tốt; Tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ; NHNN chi nhánh TP Hà Nội tiếp tục
nâng cao vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa
bàn.
* Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh:
3

/>

Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

5


Luật Ngân Hàng
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất và được coi là
động lực kinh tế của cả nước. Tại đây có mật độ rất đông các tổ chức tín dụng
và hoạt động ngân hàng rất sôi động. Các tổ chức tín dụng giữ vai trò chủ đạo
về huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Vì thế, hoạt động nhận tiền gửi đạt
kết quả cao. Cụ thể:
- Tổng số vốn huy động tăng nhanh:
+ Năm 2002 tổng số vốn huy động của các TCTD là 85. 996 tỷ đồng,
tăng 30,7% so với năm 2001. Trong đó: vốn huy động nội tệ là 52.835 tỷ
đồng (chiếm 61,4%), ngoại tệ chỉ chiếm 38,6%; số vốn trung và dài hạn chỉ
chiếm gần 19,5% tổng số vốn huy động còn lại là tiền gửi ngắn hạn.
+ Đến đầu tháng 12/2009 vốn huy động đạt 780,2 ngàn tỷ, tăng 38,3%
so cùng kỳ (năm 2008 tăng 20,2%), tăng 33,3% so đầu năm. Vốn huy động
của các NHTMCP chiếm 58,6%, tăng 55,1% so cùng kỳ, tăng 49,6% so đầu
năm. Vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 28,3% tổng vốn huy động, tăng
38,6% so cùng kỳ và tăng 38,9% so đầu năm; huy động VNĐ tăng 38,2%,
trong đó tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu đạt 407,2 ngàn tỷ, tăng 40%, chiếm
52,2% tổng vốn huy động.
+ Đến hết tháng 10/2010 vốn huy động ước đạt 750,7 ngàn tỷ, tăng
5,4% so tháng trước, tăng 27,9% so cùng kỳ. Vốn huy động của các
NHTMCP chiếm 54,3%, tăng 6,3% so trước, tăng 38,6% so cùng kỳ. Vốn
huy động bằng ngoại tệ chiếm 25,6% tổng vốn huy động, tăng 5,9% so tháng
trước và tăng 14,8% so đầu năm; vốn huy động VNĐ chiếm 74,4%, tăng
26,6% so cùng kỳ, trong đó tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu đạt 388,5 ngàn tỷ,
tăng 5,3% so tháng trước, tăng 38,9% so cùng kỳ.

+ Đặc biệt từ khi Luật các TCTD có hiệu lực (năm 2011) hoạt động
huy động vốn tại TP Hồ Chí Minh tiếp tục tăng nhanh: Vốn huy động trên địa
bàn thành phố đến cuối tháng 1/2011 ước đạt 818,5 ngàn tỷ đồng, tăng 37,4%
so cùng kỳ; trong đó huy động từ dân cư chiếm 53%, tăng 37,5%. Vốn huy
động của các NHTM cổ phần chiếm 57,2% tổng vốn huy động, tăng 32,2% so
cùng kỳ. Vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 25,1%, tăng 21,6% so cùng kỳ.
Vốn huy động bằng nội tệ (VNĐ) chiếm 74,9%, tăng 43,7%. Trong đó tiền
gửi tiết kiệm và kỳ phiếu đạt 264,8 ngàn tỷ đồng, tăng 30,5%, chiếm 32,4%
tổng vốn huy động. 4

4

/>
Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

6


Luật Ngân Hàng
Qua số liệu trên có thể thấy hoạt động huy động vốn nói chung và nhận
tiền gửi nói riêng của các TCTD trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đang diễn ra
rất sôi động, với sự tăng trưởng cao.
- Cùng với sự tăng trưởng nhanh về nhận tiền gửi các TCTD đã cốgắng
phát triển dịch vụ tiền gửi theo hướng phong phú, đa dạng, sử dụng công
nghệ, phát triển hệ thống mạng lưới nhằm chuyên môn hóa hoạt động huy
động vốn.
2.2. Những hạn chế, khó khăn.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì các TCTD Việt Nam cũng gặp
nhiều khó khăn trong huy động vốn bằng nhận tiền gửi cần phải được tháo
gỡ. Cụ thể:

Thứ nhất, các TCTD trong những năm qua phải hoạt động trong môi
trường kinh tế phát triển với sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều kênh huy động
vốn khác như: tiết kiệm bưu điện, tổ chức bảo hiểm, thị trường chứng khoán,
quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ phát triển… làm cho thị trường huy động vốn bằng
nhận tiền gửi bị phân chia ghê gớm. Đặc biệt, tiết kiệm bưu điện với lợi thế
cơ sở hạ tầng cho phép thực hiện các giải pháp kĩ thuật trong việc rút tiền
nhanh, tiện và an toàn đã thu hút nhiều người gửi tiền qua hình thức này, thời
gian giao dịch thì dài hơn và liên tục hơn. Luật TCTD năm 2010 ra đời đã hạn
chế gửi tiết kiệm bưu điện nhưng quy định này vẫn chưa được thực hiện trên
thực tế một cách có hiệu quả.
Thứ hai, tỉ trọng nguồn vốn trung và dài hạn chưa cao (chỉ chiếm
19,5% tổng số vốn huy động). Các TCTD khó có thể nhận được các dự án
thuộc chương trình kích cầu đầu tư phát triển hạ tầng các ngành y tế, giáo dục
và hạ tầng giao thông… mà hiện nay đang có nhu cầu vốn lớn. Trong khi đó
vốn huy động ngắn hạn (tiền gửi có kì hạn ngắn hoặc không kì hạn) lại chiếm
tỉ lệ cao.
Thứ ba, mức độ đôla hóa tiền gửi ở Việt Nam khá cao. Đô la hóa là
tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong tổng khối
tiền tệ mở rộng, do ảnh hưởng của “lạm phát” và nhiều nguyên nhân khác.
Tình trạng đô la hóa khiến cho các TCTD gặp khó khăn khi chi trả tiền gửi,
đặc biệt là cho các cá nhân. Có thể thấy điều sự đô la hóa tiền gửi qua bảng
sau:
Năm
1992

Tiền gửi bằng ngoại tệ so với tổng tiền gửi của cả hệ thống (%)
44,9

Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C


7


Luật Ngân Hàng
1995
1999
2005
2009

41,8
39,1
24,0
27,5

Có thể thấy mức đô la hóa của Việt Nam khá cao (luôn trên 20%), với
mức này Việt Nam là nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á về mức độ đô la
hóa. Điều này gây ảnh hướng xấu không chỉ với các TCTD mà với toàn bộ
nền kinh tế.
Thứ tư, còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong các dịch vụ liên quan tác
động trực tiếp đến khả năng tăng trưởng mức huy động bằng nhật tiền gửi của
các TCTD. Cụ thể:
- Hoạt động thanh toán: hạ tầng kĩ thuật của TCTD chưa đồng bộ . Một
số TCTD chưa tham gia hệ thống thanh toán điển tử liên ngân hàng, gây nên
những hạn chế nhất định.
- Quy định về ủy quyền thanh toán qua tài khoản tiền gửi cá nhân,
trong trường hợp các chủ tài khoản không thực hiện được giao dịch do bị đau
ốm , bệnh tật, bận công tác… chưa thuận tiện, theo quy định chỉ được ủy
quyền từng lần (thực hiện ủy quyền phải có xác nhận của chính quyền, có
công chứng). Mặt khác, khách hàng là cá nhân rất ít thanh toán qua tài khoản
cá nhân mà thướng rút tiền mặt.

- Khách hàng thường rút tiền gửi trước thời hạn gây khó khăn lướn cho
các TCTD.
3. Nguyên nhân của tình trạng trên.
3.1. Nguyên nhân tích cực.
- Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do chính sách vĩ mô mà Chính
phủ Việt Nam đang theo đuổi là tăng trưởng cao, tạo công ăn việc làm và
giảm nghèo trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Sự quan tâm cần thiết
và nhanh chóng của các Cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng như là
một bằng chứng đảm bảo đối với khách hàng của TCTD.
- Tính liên kết cao trong hoạt động ngân hàng của các TCTD.
- Hệ thống pháp luật tương đối thông thoáng.
- Sự phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ, tỉ giá hối đoái luôn theo
sát tình hình của thị trường thế giới. Do đó lượng kiều hối chuyển về nước
luôn đạt ở mức độ cao, kết quả này một mặt do người Việt Nam làm ăn, sinh
sống ở nước ngoài có thu nhập khá cao, mặt khác do chính sách kiều hối được
Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

8


Luật Ngân Hàng
đổi mới. Người nhận kiều hối được quyền nhận loại ngoại tệ chuyển về hay
bán cho ngân hàng, các đơn vị hay tổ chức được phép làm dịch vụ chi trả
kiều hối được mở rộng, lãi suất gửi USD trong nước hấp dẫn.
- Lãi suất tiền gửi được thực hiện theo cơ chế lãi suất thỏa thuận mà
không còn do lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước ban hành như trước đây
tạo thuận lợi cho các Ngân hàng chủ động trong huy động vốn.
- Sự cạnh tranh trong huy động vốn giữa các TCTD, thu hút khách
hàng đã thúc đẩy các tổ chức này phải tự mình tìm tòi, phát hiện và triển khai
các hình thức huy động vốn hiệu quả, có uy tín. Thực hiện cơ chế lãi suất hấp

dẫn (đặc biệt là đối với vốn nội tệ) khiến cho các tổ chức kinh tế có nguồn
tiền gửi không kỳ hạn có xu hướng ngày càng muốn đem gửi vào ngân hàng,
để bên cạnh đó còn được hưởng thêm các dịch vụ khách hàng (thanh toán qua
ngân hàng)…
Ngoài ra, các TCTD còn biết lợi dụng tiềm năng tiết kiệm dân cư, đặc
biệt là trong bối cảnh tiềm lực kinh tế ngày càng phát triển hiện nay. Bằng
cách đa dạng hóa các hình thức huy động, kết hợp đẩy mạnh tuyên truyền ,
quảng cáo, mở rộng khuyến mại; đồng thời không ngừng tăng cường mạng
lưới huy động tại các địa bàn dân cư tập trung nhiều.
3.2. Nguyên nhân hạn chế.
- Mặc dù huy động vốn bằng nhận tiền gửi là một hoạt động chủ yếu và
quan trọng của các TCTD, là điều kiện, là cơ sở để thực hiện các hoạt động
khác như: cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh khoản… nhưng hiện nay
nó chưa được quan tâm đúng mức từ cả phía các Cơ quan nhà nước và TCTD.
Biểu hiện qua sự thiếu đồng bộ của các văn bản pháp lý, số lượng các quy
định còn hạn chế, chưa cụ thể, chưa rõ ràng và còn chồng chéo lẫn nhau. Các
văn bản hướng dẫn thi hành của Cơ quan nhà nước còn ít, khiến cho việc thực
hiện pháp luật của các chủ thể có liên quan gặp khó khăn. Bên cạnh đó trong
công tác áp dụng quy định của pháp luật thiếu thống nhất, thiếu hiệu quả.
- Hoạt động ngân hàng nói chung cũng như nhận tiền gửi nói riêng uôn
tiềm ẩn khả năng rủi ro cao nhưng cơ chế đảm bảo cho nó chưa đảm bảo đáp
ứng được nhu cầu còn quá lỏng lẻo.
- Lãi suất tiền gửi biến động liên tục, lên xuống thất thường.
- TCTD phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh huy động vốn gay
gắt, với nhiều kênh huy động như: tiết kiệm bưu điện, chứng khoán, bất động
sản… thường có mức lợi nhuận cao hơn trong khi lãi suất ngân hàng chưa

Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

9



Luật Ngân Hàng
thực sự hấp dẫn được dân chúng. Đặc biệt, là những người có nhiều tiền mà
muốn thu thêm lợi nhuận.
Sự cạnh tranh lãi suất với các loại trái phiếu Chính phủ , trái phiếu
chính quyền huy động vốn mang tính ổn định, phù hợp tâm lý dân cư hơn.
Kinh tế thị trường phát triển, vốn cho đầu tư, kinh doanh, sản xuất, tiêu
dung phát triển đồng nghĩa với việc trên có thể gửi ngân hàng là giảm đi.
- Cơ chế điều chỉnh thị trường tiền tệ thông qua các công cụ như tỷ lệ
dự trữ băt buộc, tái cấp vốn, chiết khấu… còn hạn chế, chưa phù hợp với
điều kiện thị trường tiền tệ hiện nay, tác động không tích cực lắm đến huy
động vốn của TCTD.
- Tỷ trọng vốn trung, dài hạn và vốn ngắn hạn huy động được còn quá
chênh lệch do tiền gửi của tổ chức kinh tế là chủ yếu, mà đó lại chiếm phần
lớn tiền gửi thanh toán (không kì hạn).
Còn tiền gửi dân cư, do người dân chưa có thói quen gửi tiền dài hạn (3
năm đến 5 năm). Vốn huy động ngắn hạn tuy lãi suất phải tra thấp nhưng bị
hạn chế tỉ lệ sử dụng để cấp tín dụng trung và dài hạn, do nguồn vốn nàu
không mang tính ổn định nên nên TCTD khó sử dụng trong kinh doanh của
mình.
- Hoạt động thông tin dự báo về diễn biến thị trường trong tương lai
của hệ thống TCTD còn hạn chế, yếu kém. Đặc biệt là căn cứ TCTD phi ngân
hàng chưa được dành một khung pháp lý rộng rãi, một “sân chơi” bình đẳng
đối với các TCTD là ngân hàng.
- Dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, chủng loại chưa đa dạng, các
NHTM chưa có nhiều loại dịch vụ mới. Chất lượng dịch vụ chưa cao. Nhìn
chung, dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu, chưa hấp dẫn, chưa tạo thuận lợi và
cơ hội bình đẳng cho các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế tiếp cận và
sử dụng dịch vụ ngân hàng; hệ thống nghiệp vụ chưa định hướng theo khách

hàng, còn nặng về các nghiệp vụ, các dịch vụ truyền thống, các dịch vụ ngân
hàng hiện đại mới được đưa vào sử dụng chưa được ngân hàng thực sự quan
tâm. Số lượng máy ATM còn ít, các dịch vụ và chính sách hỗ trợ, quảng cáo
còn hạn chế, tập quán người dân sử dụng phương tiện chủ yếu là tiền mặt, nên
đối tượng sử dụng thẻ ATM chủ yếu chỉ là cán bộ công nhân viên chức và
một số khách hàng truyền thống của các NHTM, TCTD .
- Các NHTM, TCTD đã có cố gắng rất nhiều để cải tiến quy trình, đưa
ra dịch vụ giao dịch một cửa, đơn giản hóa thủ tục gửi tiền tiết kiệm, phát
hành giấy tờ có giá... nhưng quy trình và thủ tục vẫn còn chưa được chuẩn
Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

10


Luật Ngân Hàng
hóa và có sự thay đổi giữa các chi nhánh. Quy trình hiện nay được thiết kế
theo sự tiện lợi của ngân hàng hơn là của khách hàng. Một số quy trình được
sự hỗ trợ của công nghệ cho phép rút ngắn, giảm thiểu thủ tục không cần thiết
nhưng lại vướng mắc phải văn bản chế độ không được phép làm giao dịch
khác chi nhánh, thay đổi thông tin khách hàng.
- Các sản phẩm hiện nay các NHTM, TCTD cung cấp ra thị trường
mang tính chất đại trà cho tất cả các khách hàng, không có sự phân biệt tới
từng nhóm đối tượng.
- Chi phí đầu tư phát triển các dịch vụ mới mà qua đó thu hút tiền gửi,
nâng cao hiệu quả huy động vốn là rất lớn. Ví dụ như dịch vụ ATM, mỗi máy
trị giá khoảng 10 triệu đồng/máy chi phí khác trong quá trình vận hành mỗi
tháng, như: thuê địa điểm, tiền điện, bảo vệ... Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng hệ
thống máy ATM của các NHTM lại chưa cao. Hơn nữa các ngân hàng thiếu
sự hợp tác với nhau, mỗi ngân hàng theo đuổi một chiến lược riêng đối với
cùng loại sản phẩm dịch vụ có nhiều điểm tương đồng, dẫn tới lãng phí trong

đầu tư và làm tăng chi phí vận hành cũng như quản lý hệ thống. Khách hàng
khi nhận thẻ ATM của ngân hàng nào phải đến chính hệ thống máy ATM của
hệ thống ngân hàng đó lắp đặt mới có thể thực hiện được giao, thực trạng này
không chỉ hạn chế đáng kể tới việc sử dụng thẻ của khách hàng mà còn gây
lãng phí đối với nền kinh tế.
- Hoạt động quản trị và điều hành huy động vốn, kinh doanh vốn chưa
theo hướng ngân hàng kinh doanh hiện đại.
4 . Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn
bằng nhận tiền gửi của các TCTD ở Việt Nam.
4.1 Hoàn thiện các quy định của pháp luật.

Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành để kịp
thời đưa Luật các TCTD 2010 đi vào hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.

Sửa đổi, bổ sung một số các quy định của pháp luật trong các
văn bản pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, quy định về hình thức huy động vốn (hình thức tiền gửi):
Quy phạm pháp luật hiện nay chưa có một quy định nào giải thích thật
cụ thể, rõ ràng về các hình thức gửi tiền hay các loại tiền gửi. Phải có một
điều khoản riêng biệt quy định về vấn đề này, nêu lên được tiền gửi bao gồm
những loại nào; đặc điểm, tính chất của từng loại; quyền lợi và nghĩa vụ của

Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

11


Luật Ngân Hàng
bên nhận tiền và bên gửi tiền đối với mỗi loại là như thế nào? Cùng các văn
bản hướng dẫn thi hành.

Thứ hai, nghĩa vụ tham gia bảo hiểm tiền gửi của các TCTD khi huy
động vốn bằng nhận tiền gửi:
- Cần phải mở rộng giới hạn số tiền được bảo hiểm chi trả để đáp ứng
được quyền lợi của người dân khi gửi tiền, họ có thể an tâm hơn khi tham gia
dịch vụ này. Hiện nay theo quy định tại khoản 1 điều 3 Nghị định 109/2005
về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999 về bảo hiểm tiền
gửi có quy định: Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao
gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền tối đa là 50 triệu đồng. Với tình hình
hiện nay thì số tiền bảo hiểm đó là quá ít. Do vậy, có thể có người có nhiều
tiền nhưng lại lo sợ không được bảo đảm an toàn nên đem đi gửi ít. Nếu số
tiền bảo hiểm này được tăng lên thì người gửi tiền sẽ an tâm hơn; TCTD thì
không phải lo lắng khi nhận tiền gửi, số lượng vốn huy động qua đó được
tăng lên, có thể tận dụng tối đa nguồn vốn trong nhân dân.
- Mở rộng phạm vi chủ thể được bảo hiểm, hiện tại chỉ có cá nhân gửi
tiền là được bảo hiểm tiền gửi chi trả khi gặp sự kiện bảo hiểm đối với TCTD
mà họ gửi tiền. Nhưng các tổ chức – trên thực tế - lại là thành phần có số
lượng tiền gửi rất cao, tiền gửi đó dùng cho chủ yếu là các hoạt động kinh
doanh của họ. Do đó khi có rủi ro thì tổ chức tiền gửi bị ảnh hưởng trực tiếp
và kéo theo đó là hàng loạt các cá nhân gián tiếp chịu thiệt hại. Nên chăng
phải quy định them phạm vi chủ thể gửi tiền là tổ chức cũng được hưởng bảo
hiểm.
- Việc thu phí bảo hiểm tiền gửi không nên áp dụng đồng hạng mà phải
căn cứ mức độ rủi ro của từng TCTD, để đảm bảo quyền lợi cho tất cả các
TCTD cũng như tăng cường trách nhiệm của họ khi huy động vốn bằng nhận
tiền gửi, từ đó góp phần bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, khuyến khích tham
gia bảo hiểm tiền gửi.
4.2. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi.

Về phía các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

- Tổ chức hướng dẫn, tuyên truyền thực hiện pháp luật đúng đắn, sát
sao và kịp thời. Các quy định phải được cụ thể hóa đến từng ban, ngành liên
quan để phổ biến cho cấp dưới thực thi. Tránh tình trạng chồng chéo, không
thống nhất về quy chế, nội dung thi hành dẫn tới sai phạm. Cơ chế quản lý
phải thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

12


Luật Ngân Hàng
- Thanh tra, kiểm tra thường xuyên hoạt động tuân thủ pháp luật của
hệ thống TCTD trong cả nước cả về quyền và nghĩa vụ, để có những đánh giá
kịp thời và đúng tình hình thực tế.
- Khen thưởng những thành tích đạt được và xử lý nghiêm minh những
hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Có các biện pháp giúp đỡ các TCTD gặp khó khăn do hoạt động
ngân hàng bản chất của nó là là luôn tiềm ẩn rủi ro, ảnh hưởng mang tính dây
chuyền, chỉ cần có một tác động bên ngoài thì cũng dễ nhận tới hậu quả xấu,
khó lường.

Về phía các TCTD.
- Các TCTD phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và
tự mình phải biết vận dụng pháp luật vào thực tế một cách linh hoạt, phù hợp.
Theo quan điểm của chúng tôi trong thời gian tới các TCTD phải chú trọng
các công việc sau:
- Tiếp tục phát huy, phát triển các hình thức huy động vốn đa dạng như:
gửi một nơi rút nhiều nơi, gửi một lần rút nhiều lần…
- Các TCTD phải có chiến lược thu hút vốn trong cả tương lai gần và
tương lai xa. Thực hiện hình thức huy động vốn nào, ở đâu, mức độ ra sao

đều phải cân nhắc dựa trên cơ sở mang lại hiệu quả kinh tế.
- Cần xúc tiến nhanh và có hiệu quả chiến lược hiện đại hóa, công nghệ
hóa ngân hàng nhằm nâng cao năng lực quản lý.
- Cung cấp đầy đủ, sát thực và nhanh chóng các thông tin về các quy
định pháp luật cũng như diễn biến thị trường tiền tệ, hoạt động của các TCTD
cho công chúng giúp họ hiểu biết và an tâm khi gửi tiền.
- Tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra nội bộ, báo cáo định kỳ cho
cơ quan có thẩm quyền.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng, hạn chế tình trạng nợ
đọng, đảm bảo khả năng thanh toán chi trả cao.

KẾT LUẬN
Như vậy, tình hình thực hiện pháp luật về huy động tiển gửi của TCTD
hiện hành đạt kết quả cao, tuy nhiên cũng gặp nhiều khó khăn và còn một số
hạn chế. Để giải quyết tình trạng trên các TCTD và Nhà nước cần phải có
nhiều chính sách và phương hướng thích hợp để thức đẩy quá trình huy động
vốn bằng nhận tiền gửi. Có như vậy mới thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế

Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

13


Luật Ngân Hàng
nói chung. Thông qua bài viết trên đây, hi vọng trong thời gian tới khi Luật
Các TCTD 2010 đi vào hoạt động trong thực tế sẽ rút được kinh nghiệm từ
hạn chế của các văn bản pháp luật trước, tạo điều kiện để các TCTD nói riêng
phát triển hơn nữa và tạo động lực cho toàn bộ nền kinh tế nói chung có tốc
độ tăng trưởng nhanh.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Ngân hàng – trường đại học Luật Hà Nội.
2. Pháp Luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD –
Thực trạng và hướng hoàn thiện. Khóa luận tốt nghiệp: Phan Thị Huyền
Trang. Người hướng dẫn: Thạc sỹ Vũ Văn Cương.
3. Luật Các TCTD 2010.
4. Nghị định 109/2005 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định 89/1999 về bảo hiểm tiền gửi.
5. Các webside:
- www.agribank.com.vn.
- www.thitruongotc.com.vn.
-

www.hcgf.com.vn

Nhóm C2 – 2 Lớp KT33 C

14



×