Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích các tính chất cơ bản của dư luận xã hội? Cho ví dụ cụ thể? Tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.61 KB, 18 trang )

Đề tài: Phân tích các tính chất cơ bản của dư luận xã hội? Cho ví
dụ cụ thể? Tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật?
*

*
*

I. LỜI NÓI ĐẦU
Dư luận xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
như tâm lý học, chính trị học, sử học và đặc biệt là xã hội học. Nếu như tâm
lý học nghiên cứu dư luận xã hội dưới dạng nghiên cứu tâm lý đám đông, vô
thức tập thể, các nhà chính trị học, sử học nhấn mạnh tới vai trò của dư luận
xã hội trong các quá trình quản lý xã hội, và ảnh hưởng của nó đối với các
chính sách của chính phủ, thì xã hội học đi vào bản chất xã hội của dư luận
xã hội. Xã hội học tập trung mối quan tâm của mình vào quá trình hình
thành - phổ biến - tiếp nhận dư luận xã hội, tác động của dư luận xã hội đối
với các mặt hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,...) và từng
nhóm xã hội, cũng như chú trọng đến việc đo đạc dư luận xã hội.
Dư luận xã hội tồn tại từ lâu đời cùng với xã hội loài người, được xem là có
trước cả luật pháp, có tác dụng là phương tiện giáo dục, định hướng và điều
chỉnh hành vi. Khi người ta nói đến dư luận xã hội, thường là người ta nghĩ
đến những đánh giá của cộng đồng đối với những sự kiện xã hội nhất định.
Những đánh giá này dù có chủ định hay không chủ định nhắm tới một ai,
song ai cũng xem đó là một đánh giá mà mình cần phải xem xét đến mỗi khi
hành động.
Dư luận xã hội cũng được xem như là sự phản ánh của tồn tại xã hội, và như
thế nó là một dạng biểu hiện của ý thức xã hội, khi sự phản ánh này thể hiện
ở một mức độ nào đó, tích cực hay tiêu cực, cũng đồng thời thể hiện rằng,
1



tồn tại xã hội đang có những vấn đề xã hội cụ thể. Sự hình thành của dư luận
xã hội theo nhiều cách, bằng nhiều con đường đã khiến dư luận xã hội trở
thành một thực thể trung gian mang thông tin có ý nghĩa đối với sự tồn tại
của cộng đồng và ảnh hưởng rất lớn đối với các cá nhân và các nhóm trong
xã hội.
Chính vì thế những hiểu biết về dư luận xã hội là rất cần thiết và hữu
ích. Để hiểu rõ về dư luận, ta cần nắm rõ về các tính chất của dư luận xã hội.
Qua những hiểu biết nhất định về dư luận xã hội, ta se thấy tác dụng của dư
luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật là như thế nào?.

II. NỘI DUNG
1.Khái niệm về dư luận xã hội
Dư luận xã hội là một hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sỗng
xã hội. Dư luận xã hội đã xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lich sử xã hội, nó
hình thành, tồn tại và pháp triển cùng với bản thân xã hội lôài người.
Trên bình diện chung dư luận xã hội biểu thị những mối quan tâm, tình
cảm, nguyện vọng, được thể hiện dưới sạng ý kiến phát xét, đánh giá của
nhiều người về một sự kiện hiện tượng xã hội hay quá trình xã hội nào đó
xảy ra trong xã hội. trong bất kỳ một xã hội nào, dư luận xã hội cũng đều có
những ảnh hưởng nhất định, trong nhiều trường hợp tác động mạnh mẽ đến
các quá trình chính trị, xã hội của đất nước, đến việc lãnh đạo và quản lý xã
hội.
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh
giá của các nhóm xã hội, của cộng đòng xã hội hay xã hội nói chung, nó có
tính phổ biến tương đối, tính mạnh mẽ và bền vững nhất định đói với những
vấn đề đụng chạm tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều

2



người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của
họ.
Đối tượng của dư luận xã hội không phải là mọi thực tế xã hội nói
chung, mà chỉ là những cái được cồng đồng xã hội quan tâm tới, vì nó có
liên quan đến các nhu cầu, lợi ích về vật chất hay tinh thần của họ. Chỉ có
các sự kiện hiện tượng xã hội có tính thời sự, cập nhật trình độ hiểu biết của
công chúng, đượ công chúng quan tâm mớic ó khả năng trở thành đối tượng
của dư luận xã hội.

2. Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội
a. Tính khuynh hướng
Thái độ của dư luận xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện tượng, quá trình xã
hội có thể khái quát theo các khuynh hướng nhất định: tán thành, phản đối
hay lưỡng lự, chưa rõ thái độ. Cũng có thể phân chia dư luận xã hội theo các
khuynh hướng như tích cực, tiêu cực, tiến bộ, lạc hậu…Ở mỗi khuynh
hướng, thái độ tán thành hoặc phản đối có thể chia theo các mức độ cụ thể
như: thái độ rất tán thành, tán thành, lưỡng lự, phản đối, rất phản đối.
Tính khuynh hướng cũng biểu lộ sự thông nhất và xung đột của dư luận
xã hội.
* Ví dụ: Vụ án hiện nay đang rất được dư luận quan tâm là vụ án nguyên
hiệu trưởng trường THPT Việt Lâm là ông Sầm Đức Xương đang gây xôn
xao, chấn động dư luận. Trong vụ án này thái độ của dư luận xã hội có biểu
hiện theo khuynh hướng phản đối , bất mãn, ghê tởm, khinh bỉ và quan
trọng hơn là mất niềm tin vào một nhà giáo,hơn cả là người đứng đầu một
trường THPT.

3


b. Tính lợi ích

Để trở thành đối tượng của dư luận xã hội, các sự kiện hiện tượng xã
hội đang diễn ra phải được xem xét từ góc độ mối quan hệ mật thiết đến lợi
ích của các nhóm khác nhau trong xã hội.
Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng diễn ra trong
xã hội có liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống
đông đảo của người dân.
* Ví dụ: Các chủ trương của Đảng và Nhà nước về khoán nông nghiệp,
về cải cách chế độ tiền lương, các quyết định về tăng giá xăng dầu, điều
chỉnh mức thu tiền điện thoại….. lại luôn được đông đảo quần chúng theo
dõi quan tâm.
Lợi ích tinh thần được đề cập đến khi các vấn đề đang diễn ra đụng
chạm đến hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội, các phong tục tập quán hay
khuôn mẫu ứng xử văn hoá của cộng đồng xã hội hoặc của cả một dân tộc.
* Ví dụ: Cuộc chiến tranh do Mỹ và NATO phát động chống lại Liên
bang Nam tư đã gây ra dư luận phản đối mạnh mẽ trên thế giới. Không chỉ
bởi những thiệt hại đối với người dân Nam Tư mà còn bởi sự nhận thức
đông đảo của người dân trên thế giới về một nguuy cơ tiềm tàng của chủ
nghĩa đế quốc và thực dân mới núp dưới chiêu bài "can thiệp nhân đạo", tạo
ra một thứ tiền lệ cho các cuộc can thiệp sau này.
Trong bản thân mình thì lợi ích mới chỉ là điều kiện để thúc đẩy việc
tạo ra dư luận xã hội. Điều kiện đủ ở đây là sự nhận thức của các nhóm xã
hội về lợi ích của mình và mối quan hệ giữa chúng với các sự kiện, hiện
tượng, quá trình xã hội đang diễn ra.

4


c. Tính lan truyền
Dư luận xã hội được coi như biểu hiện của hành vi cụ thể. Cơ sở của
bất kỳ một hành vi tập thể nào cũng là hiệu ứng phản xạ quay vòng, trong đó

khởi điểm từ một cá nhân hay nhóm nhỏ sẽ gây nên chuỗi các kích thích của
các cá nhân khác hay nhóm khác. Để duy trì được chuỗi kích thích này luôn
cần có các nhân tố tác động lên cơ chế hoạt động tâm lý cá nhân vá nhóm.
Đối với dư luận xã hội các nhân tố tác động đó có thể được coi là các thông
tin bằng các hình ảnh, âm thanh sống động trực tiếp có tính thời sự. Dưới tác
động của các luồng thông tin này, các nhóm công chúng khác nhau sẽ cùng
được lôi cuốn vào quá trình bày tỏ sự quan tâm của mình thông qua các hoạt
động trao đổi, bàn bạc, tìm kiếm thông tin, cùng chia sẻ trạng thái tâm lý của
mình với người xung quanh.
* Ví dụ: Đối với các sự kiện lớn của đất nước như tình trang chiến
tranh, các cuộc bầu cử, hay các sự kiện vượt ra ngoài hoạt động sống và làm
việc bình thường của con người như các vụ tội phạm nguy hiểm, nạn hạn
hán, lũ lụt…Như thời gian gần đây, ngày 12/1 ở Haiti đã xảy ra trận động
đất kinh hoàng khiến hàng ngàn người chết, biết bao ngưòi bị thương, các
công trình, cơ sở hạ tầng bị đổ vỡ, thiệt hại nặng nề…Sự kiện này đang được
toàn dư luận thế giới quan tâm.

d. Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi
Dư luận xã hội vừa có tính bền vững tương đối lại vừa có tính dễ biến
đổi. Có những dư luận xã hội chỉ qua một đêm là thay đổi, nhưng cũng có
những dư luận xã hội qua hàng thập niên vẫn không thay đổi. Tính bền vững
của dư luận xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với những sự kiện, hiện
tượng hay các quá trình quen thuộc, dư luận xã hội thường rất bền vững.

5


* Ví dụ: Dư luận xã hội đánh giá rất cao về cuộc đời và sự nghiệp của
Bác Hồ, về tầm quan trọng của sự nghiệp đổi mới, chính sách khoán nông
nghiệp…tới nay vẫn không thể bị thay đổi.

Cái mới lúc đầu chỉ được số ít thừa nhận và do đó dễ bị đa số phản đối.
Nhưng ý kiến của đa số nhanh chóng, dễ dàng thay đổi khi cái mới vươn lên
dễ dàng khẳng định mình trong cuộc sống.
Tính biến đổi của dư luận xã hội thường được xem xét trên hai phương
diện sau:
+Biến đổi theo khôn gian và môi trường văn hoá: sự đánh giá của
dư luận xã hội về bất kỳ sự kiện,hiện tượng, hay quá trình xã hội nào cũng
phụ thuộc vào hệ thống giá trị, chuẩn mực đang tồn tại trong nền văn hoá
của cộng đồng người. Với cùng một sự việc, sự kiện xảy ra, dư luận xã hội
của các cộng đồng người khác nhau lại thể hiện sự phán xét khác nhau
* Ví dụ: Hiện tượng tảo hôn, chế độ đa thê là hiện tượng bình thường
tại các nước khu vực Trung Đông, Nam Châu Phi hay Ấn Độ, nhưng sẽ gặp
phải sự phản ánh gay gắt tại nhiều nước ở châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Nam
Á…Trong khi đó quan hệ tình dục ngoài hôn nhân lại dễ dàng được chấp
nhận ở châu Âu, Bắc Mỹ mà lại bị phản đối mạnh mẽ, thậm chí bị trừng phạt
theo luật lệ tôn giáo ở Trung Đông
+Biến đổi theo thời gian: Cùng với sự phát triển của xã
hội,nhiều giá trị, chuẩn mực văn hoá, phong tục tập quán biến đổi ngay trong
cùng một nền văn hoá-xã hội, dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn nhận,
đánh giá của dư luận xã hội
* Ví dụ: Trong thời kỳ bao cấp, khi nhà nước chịu trách nhiệm
chu cấp và đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người dân thì các hoạt động
buôn bán, kiếm lời cho cá nhân thì bị xã hội lên án mạnh mẽ và bị quy kết
thành tội đấu cơ, tích trữ. Còn trong thời kinh tế thị trường định hướng xã
6


hội chủ nghĩa hiện nay thì dư luận xã hội không còn đánh giá các hoạt động
đó một cách tiêu cực mà coi đó là hoạt động kinh doanh thương mại bình
thường.

Phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể, dư luận xã hội còn biến đổi theo đối
tượng của các phán xét, đánh giá khi công chúng phát hiện thêm các mối
liên quan giữa đối tượng ban đầu với các sự kiện hiện tượng,quá trình diễn
ra kèm theo nó. Mặt khác, xuất phát từ các phán xét đánh giá bằng lời, dư
luận xã hội có thể chuyển hoá thành các hành động mang tính tự phát hoặc
có tổ chức để thể hiện thái độ đông tình hay phản đối của mình. Một mặt, dư
luận xã hội cực lực lên án, đòi xử lý nghiêm khắc các vụ tội phạm tấn công
vào các chiến sĩ công an khi đang thi hành nhiệm vụ. Mặt khác chính người
dân đã tích cực quyên góp từ thiện để hỗ trợ một phần cho gia đình của các
chiến sĩ công an đã dũng cảm hi sinh trong khi làm nhiệm vụ.
Dư luận xã hội về những vấn đề của đời sống xã hội có thể ở trạng
thái tiềm ẩn, không bộc lộ bằng lời. Trong những xã hội thiếu dân chủ, dư
luận xã hội đichs thực thường tồn tại dưới dạng tiềm ẩn. Trong xã hội cũng
thường có dư luận xã hội tiềm ẩn về những sự việc, sự kiện sắp tới chưa xảy
ra, hiện thời chưa cấp bách.

f. Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế của dư
luận xã hội
Sự phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội có thể đúng, có thể sai.
Dù có đúng đến mấy thì dư luận xã hội vẫn có những hạn chế. Dù có sai đến
mấy, trong dư luận xã hộic ũng có những hạt nhân hợp lý, không thể coi
thường được. Chân lý của dư luận xã hội không phụ thuộc vào tính phổ biến
của nó. Không phải lúc nào dư luận của đa số cũng đúng hơn dư luận thiểu
số. Đối với những vấn đề trìu tượng, phức tạp, dư luận của giới trí thức, của

7


những người có trình độ học vấn cao thường chín chắn hơn so với những
người có trình độ học vấn thấp.


3. Tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật
Ý thức xã hội tồn tại trong những bộ phận và những hình thái khác nhau.
Những bộ phận của ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội, dư luận xã hội...
những hình thái chủ yếu của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức
pháp luật, ý thức đạo đức...
Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp, xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của pháp luật. Các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau có sự thể
hiện ý thức pháp luật khác nhau, trong đó ý thức pháp luật giữ vai trò chủ
đạo là ý thức pháp luật của giai cấp thống trị cầm quyền. Nhưng, trước khi
có sự xuất hiện nhà nước, pháp luật và cùng với đó là ý thức pháp luật,
những yếu tố tham gia định hướng và điều chỉnh ý thức, hành vi xã hội của
con người lại chính là đạo đức, phong tục, tập quán, truyền thống, tôn giáo,
tín ngưỡng... đặc biệt là dư luận xã hội.
Trong lịch sử xã hội loài người, dư luận xã hội đã từng đóng vai trò điều hoà
các mối quan hệ xã hội, định hướng hành vi xã hội của con người ngay cả
khi trong xã hội chưa có sự phân hoá giai cấp, chưa xuất hiện nhà nước và
pháp luật, cũng có nghĩa là chưa có ý thức pháp luật đó là xã hội nguyên
thuỷ. Ph.Ăngghen đã nhận xét rằng, trong chế độ xã hội này không hề có các
phương tiện ép buộc nào khác ngoài dư luận xã hội. Cơ chế tác động, điều
tiết được thực hiện dựa trên phương pháp tác động xã hội và phụ thuộc vào
mức độ chín muồi của dư luận xã hội, mức độ xâm nhập và ảnh hưởng của
nó, cũng như trình độ phát triển của xã hội.

8


Từ lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ
vai trò to lớn, sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố tinh thần đối với hoạt
động sống của con người, trong đó có dư luận xã hội. Sức mạnh to lớn của

dư luận xã hội xuất phát từ vai trò quyết định của quần chúng nhân dân
trong lịch sử. Sự gia tăng vai trò của các tầng lớp nhân dân trong xã hội đã
dẫn đến sự gia tăng hiệu lực và tính hiện thực của dư luận xã hội, tạo nên
sức mạnh vật chất và tinh thẩn làm cải biến xã hội. Nhận thức rõ sức mạnh
lớn lao của dư luận xã hội trong công cuộc cải tạo xã hội mới, Ph.Ăngghen
cho rằng, "để có thể chí ít nghĩ đến việc hoàn thành được cuộc cải tạo đó, thì
trước hết phải diễn ra sự tiến bộ lớn lao trong dư luận xã hội". Kế thừa tư
tưởng này của Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định rằng, để chiến thắng, cách
mạng cần phải đưa vào sức mạnh vật chất và tinh thần của dư luận xã hội.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, tiếp tục nhấn mạnh sự cần
thiết phải sử dụng sức mạnh to lớn của dư luận xã hội để củng cố kỷ luật lao
động, đấu tranh với những tàn dư của xã hội cũ, V.I.Lênin khẳng định:
"Chúng ta muốn rằng chính phủ bao giờ cũng phải được dư luận công chúng
của nước mình kiểm soát". Điều đó cho thấy, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin luôn ghi nhận vai trò to lớn của dư luận xã hội đối với
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do vậy, dựa vào cấu trúc của ý thức pháp luật, chúng ta có thể đứng trên
nhiều góc độ khác nhau để phân tích sự tác động của dư luận xã hội đối với
ý thức pháp luật. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung phân
tích sự tác động của dư luận xã hội đối với hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý
pháp luật.

9


Sự tác động của dư luận xã hội đến hệ tư tưởng pháp luật
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có
tính chất lý luận và khoa học về pháp luật, phản ánh về pháp luật và các hiện
tượng pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các
phạm trù khoa họcDư luận xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự hình

thành và phát triển của hệ tư tưởng pháp luật. Với tư cách một hiện tượng xã
hội, dư luận xã hội phản ánh tồn tại xã hội nói chung, đồng thời phản ánh
các sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội. Sự bàn luận,
trao đổi ý kiến giữa các thành viên trong xã hội về các sự kiện, hiện tượng
pháp lý đưa tới kết quả là, họ đạt tới sự nhận thức chung, thống nhất trong
các phán xét, đánh giá về sự việc, sự kiện pháp lý. Ban đầu, "chuẩn mực"
chung chi phối quá trình thảo luận, bàn bạc giữa họ là những thông tin, kiến
thức, hiểu biết về pháp luật mà mỗi thành viên có được từ những nguồn khác
nhau, chủ yếu là những khái niệm cơ sở mang tính kinh nghiệm. Các ý kiến
bước đầu được đưa ra có thể khác nhau vì nhận thức pháp luật của mỗi thành
viên xã hội cũng khác nhau. Dần dần, các cuộc thảo luận đi vào chiều sâu,
nội dung các phán xét, đánh giá của dư luận xã hội thường tập trung vào
những vấn đề trọng tâm, đưa ra những nhận định phản ánh đúng đắn bản
chất của các sự kiện, hiện tượng pháp lý. Khi đã hình thành, dư luận xã hội
biểu thị thái độ, quan điểm, cảm xúc, ý chí tập thể của đại đa số người trong
cộng đồng xã hội trước thực tiễn đời sống pháp luật của xã hội, thể hiện
trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn đề mang tính bản chất
của pháp luật và các hiện tượng pháp luật.
Như vậy, trên cơ sở của sự phán xét, đánh giá về các sự kiện, hiện tượng
pháp luật diễn ra trong đời sống xã hội, dư luận xã hội làm nảy sinh trong
nhận thức của mọi người những khái niệm cơ sở, mang tính bề ngoài, ngẫu
10


nhiên và sau đó là những tri thức phản ánh đúng đắn bản chất của các hiện
tượng pháp lý. Từ đó, hình thành nên các quan điểm, quan niệm, tư tưởng
phản ánh những vấn đề có liên quan đến pháp luật và các hiện tượng pháp
luật một cách sâu sắc, có tính hệ thống trong xã hội. Điều đó nói lên sự tác
động mạnh mẽ của dư luận xã hội đối với quá trình hình thành và phát triển
của hệ tu tưởng pháp luật.

Một trong những đặc điểm cơ bản của dư luận xã hội là tính lan truyềnDo đó
ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hệ tư tưởng pháp luật còn thể hiện ở
chỗ, dư luận xã hội tham gia vào việc phổ biến, tuyên truyền trong các tầng
lớp xã hội những giá trị pháp luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật chính thống của một xã hội nhất định bao giờ cũng là
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Do đó, trong mỗi học thuyết, quan điểm
pháp lý đều chứa đựng những tư tưởng về quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội
và ý chí của một giai cấp nhất định. Chúng nảy sinh, tồn tại phát triển hay bị
thủ tiêu đều phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Khi giai
cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, có lợi ích giai cấp phù hợp
với lợi ích cơ bản của các lực lượng xã hội khác thì tính dân chủ, tính khoa
học và tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật sẽ thể hiện nổi trội, rõ nét.
Trong điều kiện như vậy, nội dung của các nhận định, đánh giá về những sự
kiện, hiện tượng pháp lý mà dư luận xã hội đưa ra sẽ tương ứng và phù hợp
với các giá trị, chuẩn mực pháp luật của hệ tư tưởng pháp luật chính thống,
nghĩa là ý chí của giai cấp cầm quyền có nhiều nét tương đồng với dư luận
xã hội của các tầng lớp nhân dân. Qua đó, dư luận xã hội có tác động mạnh
mẽ và tích cực tới sự hình thành, phát triển và phổ biến hệ tư tưởng pháp
luật trong xã hội.

11


Đối với đại đa số quần chúng nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn có tầm
quan trọng hàng đầu. Dư luận xã hội đóng vai trò là "người lính canh giữ",
bảo vệ những quyền lợi, các giá trị phổ biến của xã hội, cũng như các giá trị,
lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Mỗi khi quyền lợi, các giá trị của
quốc gia, dân tộc bị xâm hại thì du luận xã hội lập tức xuất hiện với thái độ
lên án, phản đối gay gắt. Mỗi khi các cá nhân hoặc nhóm xã hội nào đó có
hành vi xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, dư luận xã hội cũng lập tức

lên án, gây sức ép nhằm ngăn chặn hành vi đó. Chẳng hạn, những vụ phạm
pháp hình sự đặc biệt nghiêm trọng, như giết người dã man, xâm hại an ninh
quốc gia... thường khiến cho dư luận xã hội hết sức công phẫn, đòi trừng
phạt nghiêm khắc kẻ phạm tội. Trong trường hợp này, nội dung phản ánh
các sự kiện, hiện tượng pháp lý của dư luận xã hội phù hợp với hệ tư tưởng
pháp luật tiến bộ, đang phổ biến trong xã hội, đáp ứng được lợi ích, nguyện
vọng của đông đảo các lực lượng tiến bộ trong xã hội. Điều đó cho thấy, dư
luận xã hội có tác đụng củng cố, bảo vệ tính dân chủ, tính khoa học và tính
xã hội của hệ tư tưởng pháp luật.
Khi giai cấp cầm quyền trong xã hội, vì những lý do nhất định, muốn duy trì
một hệ tư tưởng pháp luật lạc hậu, bảo thủ, thì các quan niệm, tư tưởng pháp
lý của nó chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, đi ngược lại
các giá trị dân chủ, nhân văn trong xã hội. Trong các chế độ xã hội độc tài,
phát xít, hệ tư tưởng pháp luật của nó thường mất đi tính dân chủ, tính khoa
học và tính xã hội, thông tin pháp lý bị bưng bít, các quyền cơ bản của con
người bị chà đạp, xoá bỏ. Trong các xã hội đó, nhân dân không được công
khai bày tỏ các quan điểm, ý kiến của mình, nên ở đây thường hình thành cái
gọi là "dư luận xã hội của đa số im lặng' mà sức mạnh của nó được ví là
"sóng ở đáy sông". Kết quả là, cùng với các cuộc đấu tranh cách mạng, dư
12


luận xã hội của đông đảo các lực lượng xã hội tiến bộ sẽ tạo nên một áp lực
mạnh mẽ, góp phần hình thành và phát triển hệ tư tưởng pháp luật mới, phù
hợp hơn và tiến bộ hơn.
Như vậy, có thể nói, dư luận xã hội với tư cách một hiện tượng thuộc lĩnh
vực tinh thần của đời sống xã hội luôn có tác động mạnh mẽ đến hệ tư tưởng
pháp luật. Một mặt, thông qua quá trình trao đổi, thảo luận ý kiến giữa các
nhóm xã hội về những sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra trong xã hội, dư
luận xã hội góp phần làm nảy sinh các quan điểm, quan niệm, tư tưởng phản

ánh những vấn đề có liên quan đến pháp luật và các hiện tượng pháp luật
một cách sâu sắc, có tính hệ thống trong xã hội. Mặt khác, dư luận xã hội có
tác dụng phổ biến, tuyên truyền trong các tầng lớp xã hội những giá trị pháp
luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn.

Sự tác động của dư luận xã hội đến tâm lý pháp luật
Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, cảm xúc,
tâm trạng của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật, cũng như
những hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật
chỉ biểu hiện cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp
luật truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Tâm lý pháp
luật, cũng như những yếu tố tâm lý vốn có của con người là sự phản ánh trực
tiếp các sự kiện, hiện tượng bên ngoài có liên quan đến pháp luật. Những sự
kiện, hiện tượng pháp luật đó đồng thời cũng là đối tượng phản ánh của dư
luận xã hội. Vì vậy, ảnh hưởng của dư luận xã hội đến tâm lý pháp luật được
thể hiện trên các phương diện sau:
Một là, dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật. Tình
cảm pháp luật là yếu tố cơ bản của tâm lý pháp luật, thường được hình thành
13


một cách tự phát dưới ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp hàng ngày của con
người với môi trường pháp lý xung quanh. Và, do là yếu tố mang tính tự
phát, chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, kinh nghiệm sống và nếp
sống của con người, nên tình cảm pháp luật có thể được bộc lộ dưới dạng
các phản ứng tích cực, cũng như tiêu cực của mỗi người trước những sự
kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong thực tế. Do vậy, tình cảm pháp luật có
thể biểu hiện dưới dạng tích cực, như thái độ phản ứng lại các hành vi vi
phạm pháp luật, yêu công lý, đề cao công bằng xã hội, đề cao trách nhiệm
pháp lý... cũng có thể biểu hiện dưới dạng tiêu cực, như cổ vũ cho hành vi

phạm pháp, chống đối người thi hành .công vụ, làm ngơ trước người bị hại...
Tất cả những biểu hiện đó của tình cảm pháp luật đều là đối tượng phán xét,
đánh giá của dư luận xã hội.
Trong thực tiễn đời sống pháp luật, trước những diễn biến của một sự kiện
hay hiện tượng pháp luật, dư luận xã hội thường nảy sinh và biểu hiện ở hai
xu hướng: thứ nhất, khen ngợi, biểu dương tinh thần đấu tranh không khoan
nhượng trước các hành vi vi phạm pháp luật, ủng hộ những việc làm phù
hợp với quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, thử hai, phê phán, lên án
các hành vi sai trái, phạm pháp, phạm tội. Về mặt tình cảm, không ai muốn
mình trở thành đối tượng phán xét của dư luận xã hội, không ai muốn hứng
chịu sức ép của "búa rìu xã hội". Do vậy, mỗi cá nhân đều mong muốn có
thể kiểm soát, điều chỉnh tình cảm và hành vi của mình sao cho phù hợp với
ý chí chung của cộng đồng xã hội. Với ý nghĩa đó, dư luận xã hội tác động
mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật, góp phần định hướng cho sự hình thành
tình cảm pháp luật tích cực, đúng đắn của mỗi công dân.
Hai là, dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp.
Tâm trạng của con người trước luật pháp là sự thể hiện trạng thái tâm lý của
14


các cá nhân trước các sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã
hội thường ngày. Đây là yếu tố rất linh động, dễ thay đổi của tâm lý pháp
luật. Do sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố, như điều kiện sống, lao
động, sinh hoạt hàng ngày mà tâm trạng của con người thường được thể hiện
ra ở các trạng thái đối lập: hưng phấn - ức chế, lạc quan - bi quan, hy vọng thất vọng, quan tâm - thờ ơ, nhiệt tình - lãnh đạm... trước thực tiễn cuộc
sống. Tuỳ thuộc đang trong tâm trạng hưng phấn, nhiệt tình, người ta dễ có
những phản ứng mạnh mẽ, tích cực trước các hành vi vi phạm pháp luật ở
nơi công cộng, còn khi không tin tưởng vào sự công bằng, nghiêm minh của
pháp luật, người ta thường thờ ơ trước các sự kiện pháp lý... Những tâm
trạng đó được bộc lộ trong nội dung các phán xét, đánh giá của dư luận xã

hội và qua đó, dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật
pháp.
Với tư cách là sự thể hiện ý chí chung của cộng đồng xã hội, dư luận xã hội
có thể động viên, khích lệ, khơi gợi niềm tin của các thành viên trong xã hội
đối với sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, đưa ra những lời khuyên,
tư vấn về cách ứng xử trước một thực tiễn pháp luật nhất định. Dư luận xã
hội có thể tác động, làm nảy sinh trong mỗi người tâm trạng xúc động trước
hành vi thể hiện ý thức tự giác chấp hành pháp luật. Đây là một biểu hiện
cao của lương tâm con người, hướng con người tới ý muốn noi theo những
người có thái độ tự giác chấp hành các nguyên tặc, quy định của pháp luật,
tuân theo quy luật hướng Thiện. Thông qua việc tạo ra những "khuôn mẫu tư
duy", "khuôn mẫu hành động" cho các thành viên trong xã hội, dư luận xã
hội hướng con người theo gương người tết, việc tất trong lĩnh vực chấp hành
pháp luật. Điều đó nói lên rằng, dư luận xã hội có ảnh hưởng tích cực tới
tâm trạng của con người trước luật pháp.
15


Ba là, thông qua dư luận xã hội, các cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử
của mình trong phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành.
Tâm lý pháp luật không chỉ biểu hiện ở tình cảm pháp luật, tâm trạng của
con người trước luật pháp, mà nó còn được biểu hiện ra ở việc các cá nhân
tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình trong môi trường điều chỉnh của
pháp luật. Hành vi pháp luật của con người, trong chừng mực nhất định,
chính là sự hiện thân của tình cảm pháp luật và tâm trạng trước luật pháp của
họ. Cách thức mà mỗi cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình có
thể biểu hiện dưới dạng cảm xúc, như tự hào, phấn khởi hay e ngại, xấu hổ,
lo lắng... Những phán xét, đánh giá (khen - chê, biểu dương - lên án...) của
dư luận xã hội đối với hành vi của các cá nhân, ở một mức độ nào đó, đều
tham gia vào việc điều chỉnh hành vi pháp luật của cá nhân. Nói cách khác,

dư luận xã hội, trong trường hợp này, là "tấm gương" để mỗi cá nhân tự soi
mình vào đó mà định hướng, điều chỉnh hành vi ứng xử của bản thân. Sức
mạnh đặc trưng của dư luận xã hội khiến cho mỗi cá nhân luôn phải suy
nghĩ, xem xét trước khi thực hiện một hành vi pháp luật nào đó: hành vi đó
đúng hay sai? phù hợp hay không phù hợp với các quy định của pháp luật
hiện hành? Nếu thực hiện một hành vi nào đó thì có bị dư luận xã hội lên án
hoặc phải chịu sự xử lý theo các nguyên tắc luật định không? Điều đó cho
thấy, dư luận xã hội luôn có tác động tới cách thức mà mỗi cá nhân tự đánh
giá về hành vi ứng xử của mình.
Như vậy, có thể nói, dư luận xã hội luôn có tác động mạnh mẽ đến tâm lý
pháp luật. Tác động đó được thể hiện trên ba phương diện. Thứ nhất, tác
động tới tình cảm pháp luật của con người, góp phần định hướng cho sự
hình thành tình cảm pháp luật của mỗi công dân. Thứ hai, tác động tới tâm
trạng của con người trước luật pháp cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. Thứ
16


ba, tác động đến sự tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mỗi cá
nhân trong phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành.

III. KẾT LUẬN
Qua tìm hiểu về tính chất của dư luận xã hội, tác dụngcủa dư luận xã
hội đối với lĩnh vực pháp luật, ta thấy được tầm quan trọng rất lớn của dư
luận xã hội.

17


MỤC LỤC


Table of Contents
I. LỜI NÓI ĐẦU..................................................................................................................1
II. NỘI DUNG.....................................................................................................................2
1.Khái niệm về dư luận xã hội.............................................................................................2
2. Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội..........................................................................3
a. Tính khuynh hướng..........................................................................................................3
b. Tính lợi ích.......................................................................................................................4
c. Tính lan truyền.................................................................................................................5
d. Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi...................................................................5
f. Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế của dư luận xã hội...............................7
3. Tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật..................................................8
Sự tác động của dư luận xã hội đến hệ tư tưởng pháp luật ...............................................10
Sự tác động của dư luận xã hội đến tâm lý pháp luật .......................................................13
III. KẾT LUẬN..................................................................................................................17
Table of Contents...............................................................................................................18

18



×