Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.01 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hợp đồng mà một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ
chức trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu nhân sinh. Hợp đồng cũng đóng vai
trò quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý
cơ bản của sự trao đồi hàng hóa trong xã hội. Chừng nào pháp luật nói chung và
những quy định của hợp đồng dân sự nói riêng chưa trở thành công cụ cơ bản để
điều chỉnh quan hệ xã hội thì chừng đó Việt Nam vẫn đứng ngoài sự phát triển
chung của thế giới. Các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và
ngày càng phức tạp. Khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến
hợp đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng. Vì vậy, những quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có vai trò
quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự của nền kinh tế thị
trường. Chính vì vậy đề hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài: “Các điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.

NỘI DUNG
I. Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự
1. Khái niệm hợp đồng dân sự
Điều 388 BLDS 2005 định nghĩa hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là
kết quả của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí của các bên để làm phát sinh
thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa
vụ pháp luật có quy định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng sự thỏa thuận
1


của các bên. Xét về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một
loại giao dịch dân sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan
hệ pháp luật dân sự. Như vậy, hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên tạo lập


quan hệ nghĩa vụ.
2. Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng
Hiệu lực của hợp đồng đối với sự tồn tại của hợp đồng có thể được ví giống
như là “hơi thở” hay “linh hồn” đối với sự sống của con người. Một hợp đồng
không có hiệu lực cũng có nghĩa là các bên không tồn tại quan hệ hợp đồng. Tuy
nhận thức được tính chất quan trọng của hiệu lực hợp đồng là vậy, nhưng để đưa ra
một định nghĩa chính xác về hiệu lực hợp đồng, quả là điều không dễ.
Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia, và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia hợp
đồng phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó. Về
phương diện lý luận, việc nhận thức đúng khái niệm hiệu lực hợp đồng là cơ sở để
tiếp cận các vấn đề khác có liên quan đến việc nghiên cứu quá trình tạo lập, xác
nhận giá trị pháp lý và thực thi hợp đồng. Khái niệm này cũng thể hiện rõ các yếu
tố quan trọng mang tính chất bản chất của hiệu lực hợp đồng, đó là sáng tạo, làm
thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các bên; đồng thời tạo ra sự ràng
buộc pháp lý nhằm bắt buộc các bên tôn trọng và nghiêm túc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ đó.
Hiệu lực hợp đồng, còn được gọi là hiệu lực pháp luật của hợp đồng, là để chỉ
tính cưỡng chế của pháp luật đối với các bên đương sự tham gia hợp đồng và thậm
chí cả bên thứ 3, theo quy định của pháp luật. Về vấn đề này, cần phải nắm vững
một số điểm lưu ý sau:
a) Hiệu lực hợp đồng, nhìn từ góc độ nguồn luật, là do pháp luật về hợp đồng trao
cho hợp đồng, đồng thời cũng là sự bảo đảm khả năng cưỡng chế của nhà nước.
2


Khi người vay nợ vi phạm hợp đồng, pháp luật căn cứ theo yêu cầu của bên không
vi phạm hợp đồng, cưỡng chế bên vi phạm hợp đồng thực hiện hợp đồng hoặc phải
chịu những hậu quả bất lợi khác. Như vậy có thể thấy rằng, hiệu lực hợp đồng
không giống như sự ràng buộc của tình hữu nghị hay ràng buộc của đạo đức.

b) Hiệu lực hợp đồng, nhìn từ góc độ thể hiện của ý chí, đó là biểu hiện của sự thừa
nhận của pháp luật đối với sự thống nhất về ý chí của các bên đương sự. Đồng thời
cũng là căn cứ và ủng hộ các bên đương sự nhằm thỏa mãn yêu cầu muốn “tìm
kiếm” pháp luật. Nó cũng là kết quả của việc đưa ý chí bản thân phù hợp với ý chí
của Nhà nước. Khi ý chí của các bên đương sự thống nhất hữu cơ với ý chí của Nhà
nước, thì sự thể hiện cao nhất đó chính là thể hiện yêu cầu của đương sự. Ví dụ,
cho phép đương sự căn cứ theo ý muốn của bản thân hạn chế phạm vi hiệu lực của
hợp đồng, cho phép đương sự lựa chọn cách giao hàng, cho phép đương sự sửa đồi
hợp đồng hoặc chuyển nhượng nghĩa vụ quyền lợi, cho phép đương sự xử phạt theo
quy định của pháp luật…tất cả những điều này thể hiện rõ hiệu lực hợp đồng chỉ là
sự cụ thể hóa của hiệu lực pháp luật, chứ không phải bản thân hiệu lực pháp luật.
Đây là sự khác biệt căn bản của hai khái niệm trên.
c) Hiệu lực hợp đồng, với tư cách là biểu hiện của pháp luật đánh giá sự nhất trí của
các bên đương sự, là một vấn đề hết sức phức tạp: khi pháp luật khẳng định sự
đánh giá vừa ý đối với các bên tham gia đương sự thì sẽ phát sinh hiệu quả pháp
luật như đương sự mong muốn, các bên đương sự sẽ được hưởng quyền lợi nghĩa
vụ mà điều khoản hợp đồng ràng buộc; còn khi pháp luật phủ định sự vừa ý đối với
các bên đương sự thì sẽ nảy sinh hậu quả không có hiệu lực của hợp đồng.
d) Hiệu lực hợp đồng, tức là khả năng cưỡng chế của pháp luật đối với các đương
sự có ràng buộc, thậm chí là bên thứ ba trong hợp đồng, có thể chia rằng sự ràng
buộc đối với các bên đương sự và sự ràng buộc đối với bên thứ ba.
Sự ràng buộc của hợp đồng đối với các bên đương sự bao gồm:
3


- Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của đương sự
- Bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm vi phạm theo pháp luật
- Các bên đương sự không được tự ý thay đổi hoặc hủy hợp đồng, không thể
tự ý chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của hợp đồng
- Đương sự có quyền lợi yêu cầu trao đổi, quyền xử lý nợ

Hợp đồng có hiệu lực với bên thứ ba, trong những trường hợp thông thường
nó được thể hiện là bất cứ một bên thứ ba nào cũng không được xâm hại quyền
trong hợp đồng. Khi người có quyền trong hợp đồng tự hủy bỏ quyền hoặc ủy
quyền cho bên thứ ba, khi đó mới xác lập hiệu lực thực hiện hợp đồng cho bên thứ
ba hoặc do bên thứ ba thực hiện.

II. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật dân
sự Việt Nam
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là tổng hợp những yêu cầu pháp lý nhằm
đảm bảo cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích thực của nó. Hợp đồng dân sự
là một loại giao dịch dân sự nên muốn có hiệu lực, hợp đồng dân sự phải đáp ứng
được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã được Bộ luật dân sự quy
định tại Điều 122 như sau:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của gia dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái với đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;
4


2. Hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định”.

1. Chủ thể tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
Chủ thể của hợp đồng là những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng,
có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là cá nhân
(con người cụ thể), có thể là pháp nhân (một tổ chức tồn tại theo một hình thức nhất
định), có thể là tổ hợp tác hoặc hộ gia đình. Chính vì vậy, năng lực hành vi dân sự

để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau là không giống
nhau.
a. Chủ thể tham gia hợp đồng là cá nhân
Tư cách chủ thể của cá nhân được xác định thông qua năng lực pháp luật và
năng lực hành vi của cá nhân đó, trong khi năng lực pháp luật dân sự của mọi cá
nhân đều như nhau nên để xác định một cá nhân có đủ tư cách chủ thể tham gia hợp
đồng dân sự hay không, chỉ cần xem xét mức độ năng lực hành vi dân sự của cá
nhân đó. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành
vi của mình để xác lập và thực hiện các quyền, các nghĩa vụ dân sự.
Điều kiện trên đòi hỏi cá nhân tham gia hợp đồng dân sự phải “có năng lực
hành vi dân sự” có thể hiểu rằng mọi cá nhân, (trừ người không có năng lực hành vi
dân sự) đều có thể được coi là có năng lực hành vi dân sự để tham gia hợp đồng.
Tuy vậy, khi cá nhân tham gia một hợp đồng dân sự, cần phải theo từng trường hợp
cụ thể để xác định xem cá nhân đó có đủ năng lực hành vi để giao kết hợp đồng đó
hay không? Chỉ được coi là là đủ năng lực hành vi để giao kết hợp đồng nếu nhận
thức của cá nhân đó phù hợp với tính chất của hợp đồng.
5


Năng lực hành vi dân sự của người thành niên (đủ 18 tuổi trở lên) là năng lực
hành vi đầy đủ, trừ trường hợp pháp luật quy định người mất năng lực hành vi dân
sự hoặc năng lực hành vi dân sự bị hạn chế. Đây là nhóm người được pháp luật cho
phép tự do giao kết hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là những người có năng lực hành vi dân
sự bị hạn chế. Những cá nhân đó khi xác lập hợp đồng dân sự đòi hỏi phải có sự
đồng ý của người đại diện hoặc người giám hộ, nếu không thì hợp đồng vô hiệu.
Đối với cá nhân từ tròn 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mà tham gia các hợp đồng
dân sự không mang tính chất phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày thì chỉ được coi
là có năng lực hành vi dân sự để tham gia hợp đồng đó nếu cá nhân đó có đủ tài sản
riêng để thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.

Người dưới 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự không có năng lực thiết
lập hợp đồng. Trong trường hợp cần thông qua hợp đồng để đáp ứng nhu cầu cho
những người này thì người đại diện theo pháp luật của họ sẽ thay họ thiết lập và
thực hiện hợp đồng dân sự.
b. Chủ thể tham gia hợp đồng là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
- Đối với pháp nhân: việc tham gia và thực hiện hợp đồng của pháp nhân được
thực hiện thông qua hành vi của người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy
quyền của pháp nhân đó. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể là
người đứng đầu pháp nhân đó (nếu pháp nhân đó là cơ quan nhà nước, đơn vị hành
chính sự nghiệp), đối với pháp nhân là doanh nghiệp thì người đại diện theo pháp
luật là chủ tịch hồi đồng quản trị/chủ tịch hội đồng thành viên hoặc giám đốc/tổng
giám đốc tùy theo điều lệ và trong giấy phép đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp
đó. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia giao kết các hợp đồng
trong phạm vi thẩm quyền đại diện được xác định trong quyết định thành lập pháp
nhân hoặc trong điều lệ, nội quy hoạt động của pháp nhân đó. Người đại diện theo
6


ủy quyền của pháp nhân là người được đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy
quyền, người này đại diện cho pháp nhân để tham gia các hợp đồng dân sự trong
phạm vi được ủy quyền.
- Đối với tổ hợp tác: Tổ hợp tác tham gia hợp đồng dân sự thông qua hành vi
của người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp
luật của tổ hợp tác là tổ trưởng tổ hơp tác đó, người này đại diện cho tổ hợp tác
tham gia các hợp đồng dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của tổ
hợp tác. Người đại diện theo ủy quyền của tổ hợp tác là thành viên của tổ hợp tác
được tổ trưởng tổ hợp tác ủy quyền, người này đại diện cho tổ hợp tác để tham gia
các hợp đồng dân sự trong phạm vi đã được tổ trưởng tổ hợp tác ủy quyền.
- Đối với hộ gia đình: hộ gia đình tham gia các hợp đồng dân sự, kinh tế thông
qua các hành vi của người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Người đại

diện theo pháp luật của hộ gia đình là chủ hộ gia đình. Người này địa diện cho hộ
gia đình đề tham gia các hợp đồng dân sự. Người địa diện theo ủy quyền của hộ gia
đình là thành viên đã thành niên của hộ gia đình đó được chủ hộ ủy quyền.
2. Mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội
Mục đích của hợp đồng là mong muốn của các bên khi thiết lập hợp đồng
nhưng để đạt được mong muốn đó, các bên phải thỏa thuận về một nội dung tương
ứng. Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể
tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục đích và
nội dung của hợp đồng dân sự là hai yếu tố luôn có mối liên hệ chặt chẽ, hữu cơ với
nhau. Con người xác lập, thực hiện giao dịch dân sự luôn nhằm đạt được mục đích
pháp luật nhất định. Muốn đạt được mục đích đó, họ phải cam kết, thỏa thuận về
nội dung và ngược lại những cam kết, thỏa thuận về nội dụng của họ là để đạt được
mục đích giao dịch.Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không
7


cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Và đạo đức xã hội là những
chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng
đồng thừa nhận và tôn trọng.
Để hợp đồng có hiệu lực thì mục đích của hợp đồng cũng phải không vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Hợp đồng có mục đích vi
phạm điều cấm của pháp luật thì vô hiệu. Ví dụ: hợp đồng chuyển quyền sở hữu
nhà ở có mục đích là bán nhà, nhưng thực tế hợp đồng lại ghi là trao đổi nhà ở
(nhằm mục đích trốn thuế thu nhập chẳng hạn) thì bị pháp luật cấm, nên không có
hiệu lực từ thời điểm giao kết.
Hợp đồng cũng không được trái đạo đức xã hội. Mỗi xã hội có quan niệm của
mình về đạo đức, nên không có đạo đức chung mà chỉ có đạo đức xã hội. Mặc dù
khái niệm “đạo đức xã hội” đã được định nghĩa cụ thể, rõ ràng trong BLDS 2005,
nhưng phạm trù “đạo đức” thì khá trừu tượng và không phải là bất biến, đôi khi phụ

thuộc rất lớn vào nhận thức chủ quan của mỗi con người. Cả trên phương diện lý
luận và thực tiễn, vấn đề như thế nào là hợp đồng trái với “đạo đức xã hội”, hiện
vẫn còn nhiều tranh cãi. Có quan điểm cho rằng, quy phạm đạo đức là loại quy
phạm vừa mang tính chủ quan của mỗi con người, vừa mang tính xã hội và tính
giai cấp sâu sắc. Bên cạnh đó đạo đức còn mang tính dân tộc và tính hiện đại.
Vì vậy, một hợp đồng muốn được coi là hiệu lực pháp luật thì hợp đồng đó chỉ
lưu thông trao đồi các tài sản được phép giao dịch hoặc thực hiện các công việc
không bị pháp luật cấm và không phạm vào sự ứng xử chung được cộng đồng thừa
nhận và tôn trọng.
3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
Chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là cá nhân, tổ chức, tổ hợp tác, hộ gia đình
nhưng người trực tiếp tham gia hợp đồng bao giờ cũng là con người cụ thể. Dù với
tư cách cá nhân hay với tư cách đại diện cho pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình thì
8


người tham gia hợp đồng cũng phải hoàn toàn tự nguyện, chỉ có hoàn toàn tự
nguyện trong việc thỏa thuận xác định nội dung của hợp đồng thì các chủ thể mới
đạt được mục đích từ hợp đồng đó.
Tự nguyện được hiểu là sự phù hợp, thống nhất giữa mong muốn bên trong
với sự bày tỏ mong muốn đó ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định. Vì vậy, tự
nguyện trong tham gia hợp đồng được hiểu là sự phù hợp giữa mong muốn của một
người với việc họ tham gia một hợp đồng nhất định. Bản chất của giao dịch dân sự
là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho nên tự nguyện bao gồm các yếu tố
cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí thì
không thể có tự nguyện. Nếu một trong hai yếu tố này không có hoặc không thống
nhất cũng không thể có tự nguyện. Sự tự nguyện của một bên (hành vi pháp lý đơn
phương) hoặc sự tự nguyện của các bên trong một quan hệ dân sự (hợp đồng) là
một trong các nguyên tắc được quy định tại Điều 4 BLDS: tự do, tự nguyện, cam
kết thỏa thuận. Vì vậy, giao dịch không có sự tự nguyện sẽ không làm phát sinh

hậu quả pháp lý. BLDS 2005 quy định một số giao dịch xác lập không có sự tự
nguyện là những giao dịch dân sự vô hiệu.
- Hợp đồng giao kết một cách giả tạo
Hợp đồng giả tạo là hợp đồng được các bên giao kết một cách hình thức,
không nhằm làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên mà chỉ nhằm
che giấu một hợp đồng có thực khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba. Có hai dạng hợp đồng giả tạo, đó là “hợp đồng giả cách” và “hợp đồng tưởng
tưởng”.
Hợp đồng giả cách là hợp đồng giả tạo do các bên lập ra để che đậy một hợp
đồng khác nhằm “lẩn tránh” pháp luật. Đặc trưng cơ bản của hợp đồng giả cách
thường là do có sự thông đồng giữa các bên để lập cùng lúc hai hợp đồng (giao
dịch) khác nhau: một hợp đồng (giao dịch) “thật” và một hợp đồng (giao dịch)
9


“giả”. Hợp đồng giả cách chỉ là hình thức bên ngoài chứ không có giá trị đối với
các bên. Hợp đồng thật bị che dấu đi, nhưng đó mới là hợp đồng mà các bên muốn
xác lập, thực hiện. Hợp đồng giả cách thì đương nhiên vô hiệu. Hợp đồng thật có
thể được công nhận, nếu tuân thủ các điều kiện do pháp luật quy định.
Hợp đồng tưởng tưởng là hợp đồng không có thật, do các bên thông đồng lập
ra nhằm để hợp thức hóa các thủ tục pháp lý còn thiếu sót, hoặc để che đậy một sự
thật khác trái với pháp luật, hoặc trái đạo đức xã hội. Nói cách khác, hợp đồng
tưởng tưởng là hợp đồng mang tính hính thức, chứ các bên hoàn toàn không có ý
định tạo lập nên sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên nội dung của hợp đồng đó.
- Hợp đồng giao kết do nhầm lẫn
Nhầm lẫn theo nghĩa chung là việc hiểu sai lệch về một vấn đề nào đó. Nhầm
lẫn trong hợp đồng dân sự là việc hiểu sai lệch về nội dung của hợp đồng. Nguyên
nhân của sự nhầm lẫn trong hợp đồng có thể là do sơ suất của chính người nhầm
lẫn, có thể là do hành vi của bên kia hợp đồng. Nếu nhầm lẫn là do sơ xuất của
mình thì bên nhầm lẫn phải tự gánh chịu thiệt hại nếu có, nếu nhầm lẫn do hành vi

của bên kia thì bên nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia phải thay đổi nội dung của
hợp đồng đó hoặc có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đòng vô hiệu. Nếu việc
nhầm lẫn do hành vi của một bên thì hợp đồng dân sự đó chỉ được coi là hợp đồng
giao kết do nhầm lẫn nếu lỗi của bên có hành vi làm cho bên kia nhầm lẫn là lỗi vô
ý. Trong trường hợp lỗi của bên có hành vi đó là lỗi cố ý thì hợp đồng sẽ bị coi là
giao kết do có sự lừa dối.
- Hợp đồng giao kết do bị lừa dối
Lừa dối trong hợp đồng là hành vi cố ý của một bên trong hợp đồng hoặc của
người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng
hoặc nội dung của hợp đồng dân sự nên đã xác lập và thực hiện hợp đồng đó. Hành
vi lừa dối có thể được thực hiện theo một trong hai dạng là hành động hoặc không
10


hành động. Ở dạng hành động thì hành vi lừa dối là là việc cung cấp các thông tin
sai sự thật về chủ thể, về tính chất đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng. Ở dạng
không hành động thì thì hành vi lừa dối là việc không cung cấp các thông tin cần
thiết về chủ thể, về tính chất của đói tượng hoặc nội dung của hợp đồng. Cả hai
dạng nói trên chỉ bị coi là lừa dối trong giao kết hợp đồng nếu người thực hiện hành
vi đó có mục đích là nhằm để cho phía bên kia của hợp đồng hiểu sai về lệch về
chủ thể, về tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng mà giao kết hợp
đồng đó.
- Hợp đồng giao kết do bị đe dọa
Đe dọa trong hợp đồng là hành vi cố ý của một bên tham gia hợp đồng hoặc
của người thứ ba nhằm làm cho bên kia buộc phải giao kết hợp đồng hoặc buộc
phải thực hiện hợp đồng để tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,
nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của những người thân thích như vợ, chồng, cha,
mẹ, con. Muốn cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định sự vô hiệu của hợp đồng
do thiếu tính tự nguyện của người tham gia hợp đồng vì bị đe dọa, người yêu cầu
phải chứng minh được hành vi đe dọa là có thực, do bên kia của hợp đồng hoặc do

người thứ ba thực hiện và hành vi đe dọa phải ở mức làm cho người khác bị đe dọa
không còn cách lựa chọn nào khác ngoài việc phải giao kết và thực hiện hợp đồng
đó.
* Tóm lại, các yếu tố chủ thể, nội dung và mục đích, sự tự nguyện của các bên
là những yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình hình thành và tồn tại của hợp
đồng. Năng lực hành vi của chủ thể là yếu tố nhằm đảm bảo cho chủ thể có tư cách
độc lập để tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng; nội dung và mục đích là những
điều khoản, căn cứ để thực hiện hợp đồng; tự nguyện là yếu tố đảm bảo cho hợp
đồng được tạo ra đúng ý chí đích thực của các bên. Bởi vậy, đây là ba yếu tố pháp
lý quan trọng được pháp luật quy định là điều kiện bắt buộc của mọi hợp đồng.
11


4. Hình thức hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp
pháp luật có quy định
Đối với các hợp đồng mà pháp luật đã quy định là việc giao kết phải tuân theo
một hình thức nhất định thì ngoài ba điều kiện trên, hợp đồng muốn có hiệu lực
pháp luật phải được giao kết theo hình thức là pháp luật đã quy định. Chẳng hạn,
hợp đồng mua bán nhà ở chỉ có hiệu lực khi được giao kết bằng hình thức văn bản
có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền (trừ trường hợp mua bán nhà ở thương mại được xây dựng theo dự án).
Hình thức hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung hợp đồng, gồm
tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và công bố ý chí của các
bên, ghi nhận nội dung hợp đồng và biểu hiện cho sự tồn tại của hợp đồng. Thông
qua cách thức biểu hiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết được nội
dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong tố tụng dân sự. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại
giữa các bên, từ đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Giao dịch dân sự có thể được thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể. Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được

thể hiện bằng văn bản, phải được công chứng Nhà nước chứng nhận, chứng thực,
đăng kí hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
- Hình thức bằng lời nói
Hợp đồng bằng lời nói là những hợp đồng được giao kết dưới hình thức ngôn
ngữ nói, bằng lời hay còn gọi là hợp đồng miệng. Theo đó các bên giao kết hợp
đồng trao đổi với nhau bằng lời nói, trực tiếp hoặc thông qua điện thoại, điện
đàm….để diễn đạt tư tưởng và ý muốn của mình trong việc xác lập, giao kết hợp
12


đồng. Hình thức này thường được áp dụng đối với các giao dịch được thực hiện
ngay và chấm dứt ngay sau đó hoặc giữa các chủ thể có quan hệ mật thiết, tin cậy,
giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng cũng có trường hợp giao dịch nếu được thể hiện bằng
hình thức miệng phải đảm bảo tuân thủ những điều kiện luật định mới có giá trị.
- Hình thức hợp đồng bằng văn bản
Văn bản (truyền thống) là hình thức ngôn ngữ viết, được trình bày trên một
chất liệu hữu hình nhằm thể hiện một nội dung xác định mà người ta có thể đọc,
lưu giữ và bảo đảm được sự toàn vẹn nội dung đó. Khác với hợp đồng bằng lời nói
vốn không để lại bằng chứng, thì hợp đồng bằng văn bản dảm bảo sự thể hiện rõ
ràng ý chí các bên cũng như nội dung của từng điều khoản hợp đồng mà các bên
muốn cam kết. Ngoài ra hợp đồng bằng văn bản có thể trở thành bằng chứng hữu
hiệu khi các bên có sự tranh chấp. Bởi vậy, các hợp đồng quan trọng, hoặc có giá
trị lớn, hoặc có nội dung phức tạp, hoặc có thời hạn thực hiện lâu dài…thì thường
được các bên chọn cách thể hiện bằng văn bản.
Những loại hợp đồng bắt buộc phải lập bằng văn bản: các hợp đồng dân sự
thông dụng (hợp đồng mua bán tài sản thông qua đấu giá, hợp đồng mua bán tài sản
có đăng kí quyền sở hữu…), các hợp đồng bảo đảm, các hợp đồng thương mại và
một số hợp đồng khác.
Ngoài hình thức văn bản truyền thống, pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận
một thể thức tương đương văn bản, đó là thông điệp dữ liệu. Thông điệp dữ liệu là

thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện
điện tử. Giống như văn bản truyền thống, thông điệp dữ liệu muốn được công nhận
phải đáp ứng được những yêu cầu kĩ thuật và pháp lý nhất định, sao cho bảo đảm
tính nguyên gốc và sự toàn vẹn về nội dung thông tin, có thể lưu trữ và truy cập để
tham chiếu khi cần thiết…
- Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể
13


Hành vi cụ thể là một hình thức thể hiện của hợp đồng, hiểu theo nghĩa hẹp.
Bởi lẽ, việc tuyên bố ý chí bằng lời nói hay bằng chữ viết, suy cho cùng, cũng đều
là hành vi con người. Tuy vậy, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được nói
đến trong trường hợp này không phải được diễn đạt bằng lời nói hay chữ viết mà
chỉ được thể hiện bằng một hành động thuần túy. Thông thường, hình thức hợp
đồng bằng hành vi cụ thể được sử dụng khi bên thực hiện hành vi giao kết hợp
đồng đã biết rõ nội dung của hợp đồng và chấp nhận tất cả các điều kiện mà bên kia
đưa ra và bên kia không loại trừ việc trả lời bằng hành vi, hoặc không đưa ra một
yêu cầu rõ ràng về hình thức của sự trả lời chấp nhận.

III. Nhận xét đối với quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng dân sự và phương hướng hoàn thiện
Theo quy định tại Điều 122 BLDS 2005, một giao dịch dân sự chỉ được coi có
hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau: 1.a) Người tham gia giao dịch có
năng lực hành vi dân sự; b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội; c) Người tham gia giao dịch
hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực giao
dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật cũng như nghiên cứu tính hợp lý
của các quy định này trong thực tiễn ta thấy nó còn nhiều bất cập cần phải được bổ
sung, sửa đổi trên các khía cạnh sau:

1. Cần quy định cụ thể về khái niệm “người tham gia giao dịch dân sự”.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 122 BLDS 2005, điều kiện đầu tiên để
xác định một GDDS có hiệu lực, đó là “Người tham gia giao dịch có năng lực hành
vi dân sự”. Để xác định rõ nội hàm của quy định này, khái niệm “người tham gia
14


giao dịch” cần phải được làm rõ. Tuy nhiên trong nội dung các quy phạm pháp luật
hiện nay chưa có bất cứ một định nghĩa chính thống, khái niệm này có thể được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, “người tham
gia giao dịch” bao gồm hai chủ thể: chủ thể hợp đồng và người kí kết hợp đồng.
Điều đó có nghĩa là, để một GDDS có hiệu lực, trước hết người tham gia giao dịch
phải có năng lực hành vi dân sự (NLHVDS) tham gia từng GDDS cụ thể. Tuy
nhiên, khi giao dich của người không có NLHVDS hoặc bị mất NLHVDS được xác
lập qua người đại diện, thì cách hiểu về người tham gia giao dịch như trên lại gặp
trở ngại. Có ý kiến cho rằng, người bị mất NLHVDS và người không có NLHVDS
trong các trường hợp trên không phải là người tham gia giao dịch, bởi mọi vấn đề
từ khi xác lập đến khi thực hiện giao dịch đều được thực hiện thông qua người đại
diện. BLDS 2005 mặc dù không trực tiếp ghi nhận họ là người tham gia giao dịch
nhưng đã gián tiếp thừa nhận vai trò tham gia giao dịch của người bị mất
NLHVDS, người không có NLHVDS khi quy định GDDS của người chưa đủ 6
tuổi và của người bị mất NLHVDS phải do người đại diện theo pháp luật xác lập,
thực hiện (Điều 21, khoản 2 Điều 22) và tại khoản 3 Điều 69 “Các giao dịch dân sự
giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người
được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp…”. Với những quy định này, rõ ràng
chúng ta không thể phủ nhận vai trò tham gia giao dịch của người mất NLHVDS và
người không có NLHVDS, bởi lẽ họ là người có quyền và lợi ích liên quan đến
giao dịch, cụ thể hơn, họ là người có tài sản là đối tượng của giao dịch. Tuy nhiên,
nếu áp họ vào 2 loại chủ thể tham gia giao dịch như cách hiểu thông thường hiện
nay là không hợp lý, bởi lẽ, mặc dù họ có tài sản mang ra giao dịch nhưng họ

không thể là chủ thể của hợp đồng và cũng không thể là người kí kết hợp đồng, bởi
chủ thể của hợp đồng, người trực tiếp xác lập và thực hiện hợp đồng trong trường
hợp này chính là người đại diện theo pháp luật của họ. Vì vậy, khái niệm “người
tham gia giao dịch” có thể được hiểu, ngoài 2 chủ thể theo cách hiểu thông thường
(chủ thể của hợp đồng và người kí kết hợp đồng) còn bao gồm cả đối tượng này.
15


Với cách suy luận như vậy, khi áp dụng điều kiện về “người tham gia giao dịch có
năng lực hành vi dân sự” trong trường hợp này thì người tham gia giao dịch với tư
cách chủ sở hữu của tài sản là đối tượng giao dịch nếu bị mất NLHVDS, không có
NLHVDS sẽ đương nhiên không thể đáp ứng điều kiện về “người tham gia giao
dịch có năng lực hành vi dân sự”. Suy cho cùng, những giao dịch loại này theo các
điều kiện quy định tại Điều 122 BLDS 2005 sẽ không bao giờ được coi là hiệu lực,
điều đó đã gián tiếp tước quyền tham gia giao dịch của người bị mất NLHVDS và
người không có NLHVDS dù sự tham gia đó chỉ là tham gia một cách gián tiếp
thông qua người đại diện, giám hộ.
Để giải quyết vấn đề này thì BLDS 2005 nên bổ sung nội dung để giải thích rõ
khái niệm “người tham gia giao dịch” có tính đến đặc thù trong các GDDS của
người không có NLHVDS và người bị mất NLHVDS như đã phân tích ở trên. Có
như vậy, mới tạo ra cách hiểu thống nhất và điều kiện thuận lợi cho các chủ thể bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, hạn chế tối đa sự tùy tiện trong việc áp
dụng pháp luật.
2. Cần phải xác định rõ ranh giới của sự “tự nguyện” và “mất tự nguyện”
trong quy định về điều kiện “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”
Khái niệm “tự nguyện” được đưa ra ở đây rất mơ hồ, chung chung, gây khó
khăn và tùy tiện trong quá trình áp dụng luật. Chẳng hạn, việc tham gia giao dịch
của một bên không có lợi thế về sức mạnh thị trường do sức ép của một bên có vị
thế mạnh trên thị trường, hay giao dịch giữa một bên là cấp dưới trực tiếp buộc
phải tham gia giao dịch vì sợ “uy thế” của cấp trên có bị coi là không đáp ứng điều

kiện “hoàn toàn tự nguyện” theo quy định của Điều 122 vẫn là một vấn đề còn bỏ
ngỏ. Việc một bên chủ thể dùng lợi thế thị trường, quyền lực thương mại để ép
buộc một hoặc các bên chủ thể khác tham gia và thực hiện GDDS rất có thể được
ngụy biện là sự thỏa thuận, thương lượng, đánh đổi lợi ích giữa các bên. Ở cấp độ
16


mất tự nguyện nghiêm trọng, có thể nhận biết dễ dàng như việc một bên chủ thể
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực với bên kia nhằm đạt mục đích trong GDDS thì
đương nhiên giao dịch này sẽ vô hiệu và chủ thể thực hiện hành vi ép buộc có thể
sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự. Ở cấp độ dân sự và thương mại,
do có sự giao thoa, khó phân biệt giữa ép buộc và thỏa thuận cho nên rất cần phải
có một khái niệm để chỉ ra những dấu hiệu của sự ép buộc, mất tự nguyện khi các
bên chủ thể thực hiện một GDDS.
Vì vậy, để giải quyết vấn đề này, BLDS 2005 cần phải quy định một tiêu chí
để xác định giới hạn cụ thể của sự tự nguyện và mất tự nguyện khi các chủ thể
tham gia vào một GDDS.
3. Sửa đổi điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch
Quy định này hiện nay đang gây nhiều tranh cãi và thực tế không bảo vệ được
lợi ích hợp pháp của những người ngay tình, đôi khi tạo ra kẽ hở cho một số đối
tượng lợi dụng để yêu cầu tuyên bố GDDS vô hiệu nhằm phục vụ các lợi ích, mục
đích cá nhân một bên chủ thể.
Theo quy định tại Điều 134 BLDS 2005 “Trong trường hợp pháp luật quy định
hình thức GDDS là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo
thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong
một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.Quy định
này trên thực tế chỉ có ý nghĩa trong trường hợp cả hai bên chủ thể của giao dịch
đều có thiện chí mong muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, trường hợp

này hầu như khó có thể xảy ra, bởi việc tuyên bố vô hiệu là do yêu cầu của một
trong các bên, do đó, khi họ đã nộp đơn yêu cầu tuyên bố vô hiệu có nghĩa là họ
17


mong muốn hợp đồng đó không được tiếp tục thực hiện nữa. Chẳng hạn, khi giao
dịch có đối tượng là bất động sản, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cần
phải bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, nếu các bên thiết lập hợp đồng mua bán bằng giấy viết tay chưa có công
chứng, chứng thực, rõ ràng đã vi phạm về mặt hình thức. Thông thường đối với bất
động sản khi thấy giá trị tài sản tăng cao, bên bán thường là bên mong muốn hợp
đồng đó bị vô hiệu để được lấy lại tài sản thực tế mình đã bán, do vậy, họ thường
lợi dụng việc vi phạm về mặt hình thức để yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu và họ
sẽ không hợp tác với bên mua để cùng ra công chứng chứng thực bản hợp đồng
theo yêu cầu của Tòa án. Hậu quả là việc yêu cầu hoàn thiện về mặt hình thức của
Tòa án sẽ không có giá trị và sẽ tạo cơ hội cho bên có hành vi làm lợi bất chính do
muốn lấy lại tài sản thực tế đã bán khi giá trị của tài sản tăng cao. Chính vì vậy,
theo chúng tôi, để ngăn chặn hiện tượng này, cần phải yêu cầu các bên hoàn thiện
về mặt hình thức, nếu họ vẫn cố tình không tuân thủ thì cần phải coi là giao dịch đó
có hiệu lực. Bên cạnh đó, để đảm bảo các bên có thái độ nghiêm túc tuân thủ hình
thức khi ký kết hợp đồng, pháp luật cũng nên có chế tài về mặt hành chính đối với
các bên (chẳng hạn phạt tiền) đối với trường hợp không tuân thủ về mặt hình thức.
4. Cần sửa đổi nội dung khái niệm “đe dọa” trong giao dịch dân sự bị coi là vô
hiệu do bị đe dọa
Theo quy định tại Điều 132 “Khi một bên tham gia GDDS do bị lừa dối hoặc bị
đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố GDDS đó là vô hiệu”. Theo đó, khái
niệm “đe dọa” được hiểu là “hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho
bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình”.


18


Với quy định này, BLDS 2005 đã giới hạn chủ thể bị tác động do hành vi đe
dọa của bên kia làngười tham gia giao dịch hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
người tham gia giao dịch. Theo chúng tôi, quy định như trên chưa bao quát, bởi lẽ
trên thực tế, không phải chỉ có những đối tượng như cha, mẹ, vợ, chồng, con hoặc
bản thân bị đe dọa xâm hại về tính mạng, sức khỏe… mới làm ảnh hưởng đến quyết
định giao kết hợp đồng của một bên, có những trường hợp mặc dù không có quan
hệ như trên, nhưng có mối quan hệ đủ để họ phải hy sinh quyền lợi riêng để bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của người khác vẫn có
khả năng tác động một cách trực tiếp, thông qua đó ép buộc họ phải tham gia giao
dịch. Việc giới hạn về đối tượng có khả năng bị xâm hại như trên là chưa bao quát,
chưa phản ánh được đúng thực tế các mối quan hệ đa dạng trong đời sống xã hội.
Do vậy, cần phải quy định theo hướng xem xét khả năng tác động của sự đe dọa đó
đến chủ thể tham gia giao dịch mà không nên liệt kê các đối tượng bị đe dọa phải
gánh chịu thiệt hại như quy định trong Điều 132, BLDS 2005 hiện nay.
5. Cần sửa đổi điều kiện mục đích và nội dung của giao dịch “không trái đạo
đức xã hội” thành “không xâm phạm trật tự công cộng”
Theo quy định tại Khoản 1 (b) Điều 122, GDDS phải đáp ứng điều kiện “mục
đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội”. Tuy nhiên, khái niệm đạo đức xã hội mặc dù đã được định nghĩa ở
Điều 128 “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng” nhưng vẫn còn rất
mơ hồ và thiếu tính cụ thể. Vấn đề xác định thế nào là chuẩn mực đạo đức trong
thực tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố và quan điểm của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng
và thậm chí ở mỗi giai đoạn có thể có cách hiểu khác nhau. Có thể thấy, mục đích
của quy định này là để bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch, quyền và
lợi ích hợp pháp của những người liên quan cũng như lợi ích chung của xã hội. Vì

vậy nên sửa đổi nội dung này theo hướng thay cụm từ “không trái đạo đức xã hội”
19


thành “không xâm phạm trật tự công cộng”. Cách quy định này phù hợp với thông
lệ quốc tế (pháp luật của Pháp, Nhật Bản đã quy định rất cụ thể về điều kiện này),
vừa dễ dàng chứng minh hơn so với việc quy về chuẩn mực đạo đức để xác định
một giao dịch có vô hiệu do vi phạm về mặt đạo đức hay không mà vẫn đạt được
mục đích của pháp luật trong việc bảo vệ lợi ích chung của xã hội.

KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của xã hội, hợp đồng dân sự ngày càng phát triển đa
dạng và phức tạp. Cùng với đó là những khó khăn trong việc giải quyết các tranh
chấp liên quan đến hợp đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự là một trong
những nội dung cơ bản, quyết định sự ổn định , tính hợp lý, tính hiệu quả của các
giao dịch dân sự. Chính vì có vai trò quan trọng đó, trong thời gian tới chúng ta cần
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về hợp đồng nói chúng và điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng nói riêng.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2006.
2. Bộ luật dân sự 2005
3. Ths. Ls. Lê Kim Giang, Hợp đồng dân sự và các tranh chấp thường gặp, Nxb
tư pháp, Hà Nội, 2011
4. Bộ tư pháp, Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS, Nxb.

CTQG, 1997.
5. Website: www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com
www.sinhvienluat.vn

21


MỤC LỤC
trang

LỜI NÓI ĐẦU

1

NỘI DUNG
I. Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự
1. Khái niệm hợp đồng dân sự
2. Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng

1
1
1
2

II. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp

4

luật dân sự Việt Nam
1. Chủ thể tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự

a. Chủ thể tham gia hợp đồng là cá nhân
b. Chủ thể tham gia hợp đồng là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
2. Mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp

5
5
6
7

luật, không trái với đạo đức xã hội
3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
4. Hình thức hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong

8
12

trường hợp pháp luật có quy định
III. Nhận xét đối với quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của

14

hợp đồng dân sự và phương hướng hoàn thiện

KẾT LUẬN

20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

21


22



×