Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bình luận các qui định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp; ý kiến pháp lí nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.2 KB, 16 trang )

A.

LỜI MỞ ĐẦU

Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đối với
đời sống kinh tế xã hội, thuế đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản
lý, điều tiết sản xuất kinh doanh cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát
triển. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do
chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật. Trước
năm 1990, ở Việt Nam có một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất,
kinh doanh gọi là thuế lợi tức. Đến ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua
Luật thuế TNDN thay thế cho Luật thuế lợi tức, Luật này có hiệu lực từ ngày
01/01/1999. Tiếp đó, ngày 17/6/2003, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua Luật thuế TNDN sửa đổi để thay thế cho Luật thuế TNDN năm
1997, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2004. Qua các lần sửa đổi, Luật thuế TNDN
ngày càng trở nên có hiệu quả và thu được nhiều thành tựu khả quan, nhưng bên cạnh
đó vẫn còn một số nhược điểm còn tồn tại. Để khắc phục những nhược điểm này,
ngày 06/06/2008, Quốc hội nước ta một lần nữa thông qua Luật thuế TNDN năm
2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
Luật thuế TNDN 2008 mới ban hành có nhiều thay đổi trong đó tiêu biểu là
những thay đổi quan trọng về đối tượng nộp thuế. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này em
xin đi sâu vào việc: “Bình luận các qui định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp; ý kiến pháp lí nhằm thực thi tốt
pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp”
A.
I.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm và đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.1.


Khái niệm.
Căn cứ vào đối tượng nộp thuế thu nhập, hệ thống luật thực định về thuế ở các

nước phân chia thuế thu nhập ra làm hai loại: thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập
cá nhân. Ở Việt Nam, thuế thu nhập cũng được phân chia thành hai loại là thuế TNDN
và thuế thu nhập cá nhân. Cách phân chia thuế thu nhập của Việt Nam hiện nay cơ bản
giống các nước khác dựa vào tiêu chí đối tượng nộp thuế thu nhập để phân chia.Có
thể đưa ra một khái niệm được pháp luật Việt Nam và nhiều nước khác thừa nhận:
[1]


Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu đánh vào lợi nhuận của
các doanh nghiệp và tổ chức kinh doanh nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp
lý giữa các tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập, góp phần
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
1.2.
Đặc điểm.
Qua định nghĩa trên, ta có thể đưa ra một số đặc điểm của thuế TNDN như sau:
-

Thuế TNDN là thuế trực thu, đánh vào thu nhập chịu thuế trong kì của các

doanh nghiệp, đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là các doanh nghiệp, các nhà
đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đồng thời cũng là người chịu thuế.
-

Thuế TNDN mang đầy đủ tính chất của thuế trực thu, thường mang tính lũy

tiến, đảm bảo công bằng xã hội.
-


Thuế TNDN đánh vào thu nhập chịu thuế của các cơ sở kinh doanh nên nó

phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu
tư. Thuế TNDN được xác định trên cơ sở thu nhập chịu thuế, nên chỉ khi các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư kinh doanh có lợi nhuận mới phải nộp thuế TNDN.
-

Thu nhập được hình thành thông qua quá trình phân phối lần đầu và phân

phối lại thu nhập quốc dân.
2.
-

Vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách

nhà nước:
Phạm vi áp dụng của thuế thu nhập doanh nghiệp rất rộng. Nó khai thác
nguồn thu từ các đối tượng nộp thuế có tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
đem lại thu nhập trên mọi lĩnh vực, mọi địa bàn. Mặt khác, cùng với xu hướng tăng
trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt động kinh doanh ngày càng được mở rộng,
hiệu quả kinh doanh cao nên lợi nhuận cũng cao, tích lũy nội bộ từ doanh nghiệp
ngày càng nhiều sẽ tạo nguồn thu về thuế TNDN cho ngân sách quốc gia ngày càng
lớn.
-

Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để Nhà nước thực

hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội:

[2]


Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta, tất cả các thành phần kinh tế
đều có quyền tự do kinh doanh và bình đằng trên cơ sở pháp luật. Các doanh nghiệp
với lực lượng lao động có tay nghề cao, năng lực tài chính mạnh thì doanh nghiệp đó
sẽ có ưu thế và có cơ hội để nhận được thu nhập cao; ngược lại các doanh nghiệp với
năng lực tài chính, lực lượng lao động bị hạn chế sẽ nhận được thu nhập thấp, thậm
chí không có thu nhập. Ðể hạn chế nhược điểm đó, Nhà nước sử dụng thuế thu nhập
doanh nghiệp làm công cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể có thu nhập cao, đảm
bảo yêu cầu đóng góp của các chủ thể kinh doanh vào ngân sách Nhà nước được
công bằng, hợp lý.
-

Thuế TNDN là công cụ quan trọng để góp phần khuyến khích thúc đẩy sản xuất

kinh doanh phát triển theo chiều hướng kế hoạch, chiến lược, phát triển toàn diện của
Nhà nước. Công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng điều tiết
các hoạt động kinh tế xã hội.
Thuế suất hợp lí và các ưu đãi về thuế trong đầu tư có tác động rất lớn đối với
các quyết định đầu tư hay mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là công cụ
quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế. Thông qua hệ thống thuế
suất ưu đãi và các chế độ miễn giảm tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, định hướng cho
các nhà đầu tư trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần khuyến khích đầu tư
nhằm đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lí theo ngành và theo địa bàn. Thông qua các hình
thức hỗ trợ về thuế với các cơ sở mới thành lập hoặc gặp khó khăn trong kinh doanh
thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
II.

BÌNH LUẬN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ THU NHẬP

DOANH NGHIỆP THEO LUẬT THUẾ TNDN.
1. Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp
luật trước khi có luật thuế TNDN 2008
Ở Việt Nam trước năm 1990 thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất

kinh doanh gọi là thuế lợi tức. Thuế này chỉ áp dụng cho kinh tế ngoài quốc doanh
còn các doanh nghiệp quốc doanh thì áp dụng chế độ trích nộp lợi nhuận. Kể từ sau
năm 1990 Nhà nước Việt Nam thực hiện công cuộc cải cách căn bản hệ thống thuế.
Trong đó chế độ thuế lợi tức mới được ban hành áp dụng thống nhất đối với tổ
chức cá nhân kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập được từ hoạt
[3]


động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, trong luật thuế lợi
tức Việt Nam ban hành 1990 không có phân biệt đối tượng cư trú và đối tượng
không cư trú. Trải qua quá trình áp dụng, Luật thuế lợi tức đã thu được nhiều kết
quả hơn so với chế độ cũ. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm gây ảnh
hưởng không nhỏ đến tiến trình phát triển của nền kinh tế nước ta: thuế lợi tức
không bao quát các khoản thu nhập của cơ sở kinh doanh gây thắc mắc cho đối
tượng nộp thuế là các nhà đầu tư nước ngoài, phạm vi điều chỉnh hạn hẹp, tạo ra
sự bất bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ nộp thuế trong các thành phần kinh tế
(mức thuế suất chênh lệch phân biệt rõ giữa doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài).
Ngày 10/5/1997 Quốc hội thông qua luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay
cho thuế lợi tức có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1999. So với thuế lợi tức thì đối tượng
nộp thuế theo luật thuế TNDN 1997 đã có sự thay đổi. Theo Điều 1 Luật này, đối
tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp gồm tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ (dưới đây gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập đều phải
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, trừ đối tượng quy định tại Điều 2 của Luật này
(Hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ

sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản không thuộc diện nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp, trừ hộ gia đình và cá nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn có
thu nhập cao theo quy định của Chính phủ). Sau 4 năm thực hiện, Luật thuế TNDN
góp phần khuyến khích phát triển sản xuất, thu hút đầu tư quốc tế, hướng các tổ
chức cá nhân đầu tư vào đúng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, Luật thuế TNDN vẫn còn một số
tồn tại: vẫn còn sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, chế độ kê khai nộp thuế còn nhiều thủ tục phức tạp chưa
nâng cao tính tự giác của đối tượng nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ của mình..
Để khắc phục những tồn tại nêu trên của Luật thuế TNDN 1997, ngày
17/6/2003 Quốc hội thông qua Luật thuế TNDN mới có hiệu lực từ ngày 1/1/2004.
Đối tượng nộp thuế theo quy định của luật thuế TNDN 2003 hầu như không có sự
thay đổi khi so với luật thuế TNDN 1997.
[4]


Ngày 21/11/2007 Quốc hội thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân trong đó
các đối tượng là cá nhân, hộ kinh doanh trước kia thuộc đối tượng nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp nay được chuyển sang thực hiện theo Luật thuế thu nhập cá
nhân. Ngày 3/6/2008 Quốc hội ban hành luật thuế TNDN mới có hiệu lực từ ngày
1/1/2009 thay luật thuế TNDN 2003. Cụ thể:
2.

Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật thuế TNDN

2008.
Theo quy định của luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008, các đối tượng nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 :
“Người nộp thuế
1. Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất,

kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật này
(sau đây gọi là doanh nghiệp), bao gồm:
a) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài
(sau đây gọi là doanh nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú hoặc không có cơ
sở thường trú tại Việt Nam;
c) Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã;
d) Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam;
đ) Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.”
2.1.

Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam

Theo quy định tại Điểm a, khoản 1, Điều 2 nghị định số 124/2008/NĐ-CP quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
và điểm 1.1 thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và hướng
dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì
doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam là doanh nghiệp
[5]


được thành lập và hoạt động theo: Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước,
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật
kinh doanh bảo hiểm, Luật chứng khoán, Luật dầu khí, Luật thương mại và các văn
bản pháp luật khác dưới các hình thức: Công ty cổ phần; Công ty trách nhiệm hữu
hạn; Công ty hợp danh; Doanh nghiệp tư nhân; Doanh nghiệp Nhà nước; Văn
phòng Luật sư, Văn phòng công chứng tư; Các bên trong hợp đồng hợp tác kinh
doanh; Các bên trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, xí nghiệp liên doanh

dầu khí, Công ty điều hành chung.
Các doanh nghiệp này nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam
và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam. (Theo Điểm a, Khoản 2, Điều 2,
Luật Thuế TNDN 2008)
2.2.

Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở

thường trú tại Việt Nam
Theo điểm b, khoản 1, Điều 2 nghị định số 124/2008/NĐ-CP quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và điểm 1.4
thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 thì doanh nghiệp nước
ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp là doanh
nghiệp được thành lập theo pháp luật nước ngoài có cơ sở hoặc không có cơ sở
thường trú tại Việt Nam
Khoản 3 Điều 2 Luật TTNDN 2008 đã chỉ rõ : Cơ sở thường trú của doanh
nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh doanh mà thông qua cơ sở này, doanh
nghiệp nước ngoài tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh
doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập, bao gồm:
-

Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải,

hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt
Nam;
- Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp;

[6]



- Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công
hay một tổ chức, cá nhân khác;
- Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài;
- Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp
đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm quyền ký kết
hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc
giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong trường hợp Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết có quy định khác về cơ sở thường trú thì thực hiện
theo quy định của Hiệp định đó.
Đối tượng này nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như sau :
-

Đối với doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam
+ Nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu

thuế phát sinh ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó;
+ Nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản thu
nhập này không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú;
- Đối với doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp
thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.
2.3. Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã
Theo Thông tư số 130/2008/TT-BTC thì đối tượng nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp gồm có các tổ chức được tổ chức và thành lập theo Luật Hợp tác xã. Như vậy,
các tổ chức đó có thể là các Hợp tác xã, các Liên hiệp Hợp tác xã, Liên minh Hợp tác
xã…Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế hoạt động theo nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Luật Hợp tác xã.
Ngoài ra Khoản 2 Điều 16 Luật Hợp tác xã năm 2003 quy định: “Hợp tác xã
được thành lập doanh nghiệp trực thuộc theo quy định của pháp luật.”


[7]


Điều 9 Nghị định 177/2005/NĐ-CP về thành lập doanh nghiệp trực thuộc hợp tác
xã : “Hợp tác xã được thành lập doanh nghiệp trực thuộc theo mô hình công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên theo quy định của Luật Doanh nghiệp".
Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã nộp thuế giống như Doanh
nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam.
II.4.

Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam
Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam là các

đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài công lập có sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
có thu nhập trong tất cả các lĩnh vực. Các đơn vị này nộp thuế giống như Doanh
nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2.5. Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập
-

Đối tượng nộp thuế đối với các khoản tiền tài trợ từ nước ngoài, cụ thể là:

Trước thời điểm 01/01/2004, khoản tiền tài trợ Công ty mẹ ở nước ngoài tài trợ
cho Công ty con tại Việt Nam nhằm gánh chịu một phần chi phí (không phải chi
thưởng cho nhân viên) tại Việt Nam thì khoản tiền này không thuộc đối tượng phải
chịu thuế GTGT và không tính thuế TNDN.
Công ty con tại Việt Nam phải loại ra khỏi chi phí khoản chi phí do công ty mẹ
ở nước ngoài đã gánh chịu khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. Nếu khoản tiền
này được dùng để chi thưởng cho nhân viên thì Công ty sẽ không được hạch toán
vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.
Các khoản chi cho người lao động phù hợp với hợp đồng lao động, quy chế

công ty có tính chất tiền lương, tiền công được hạch toán vào chi phí hợp lý. Các
khoản tiền chi thưởng cho nhân viên không được hạch toán vào chi phí hợp lý của
công ty khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.
- Đối tượng nộp thuế là các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế:
+ Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn, Khu kinh tế, Khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập
mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát
[8]


triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước,
sản xuất sản phẩm phần mềm.
Các doanh nghiệp này được áp dụng mức thuế suất 10% trong 15 năm, miễn
tối đa 4 năm, giảm thuế 50% tối đa 9 năm tiếp theo.
+ Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế,
văn hoá, thể thao và môi trường được áp dụng thuế suất 10% trong suốt thời hạn
hoạt động. Nếu là doanh nghiệp mới thành lập thì được miễn thuế tối đa 4 năm,
giảm 50% thuế tối đa 9 năm tiếp theo.
+ Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế
- xã hội khó khăn được áp dụng thuế suất 20% trong thời gian 10 năm, được miễn
thuế tối đa 2 năm và giảm 50% tối đa 4 năm tiếp theo.
+ Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân được áp dụng thuế
suất 20% suốt thời gian hoạt động.
Ưu đãi thuế không áp dụng đối với: Thu nhập khác; thu nhập từ tìm kiếm
thăm dò khai thác dầu khí và tài nguyên quý hiếm khác; thu nhập từ kinh doanh
trò chơi có thưởng, cá cược theo quy định của pháp luật.
+ Bỏ ưu đãi thuế suất đối với doanh nghiệp mới thành lập trong Khu công
nghiệp và một số ngành thuộc danh mục lĩnh vực ngành nghề ưu đãi đầu tư quy
định tại Nghị định số 108/2006/NĐ-CP.
- Đối tượng được giảm thuế :

+ Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, vận tải được
giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tương ứng với số tiền thực chi thêm
cho lao động nữ hướng dẫn tại tiết a điểm 2.10 mục IV Phần C Thông tư 130/2008
nếu hạch toán riêng được.
+ Doanh nghiệp sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số được giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp phải nộp tương ứng với số tiền thực chi thêm cho lao động
[9]


là người dân tộc thiểu số hướng dẫn tại tiết b điểm 2.10 mục IV Phần c Thông tư
130/2008 nếu hạch toán riêng được.
- Doanh nghiệp nước ngoài, tổ chức nước ngoài sản xuất kinh doanh tại Việt
Nam không theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp hoặc có thu nhập phát sinh tại
Việt Nam nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng dẫn riêng của Bộ Tài chính.
3.

Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp theo luật thuế TNDN 2008.

Các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN theo luật thuế TNDN năm 2008 đạt
được những ưu điểm như :
-

Luật Thuế TNDN năm 2008 đã quy định lại đối tượng nộp thuế TNDN, các đối
tượng là cá nhân, hộ kinh doanh đang đang nộp thuế TNDN được chuyển sang nộp
thuế theo Luật Thuế thu nhập cá nhân do Quốc hội mới ban hành ngày
21/11/2007. Do đó, đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật Thuế TNDN năm 2008 chỉ
bao gồm các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Quy định này đã
khắc phục được các hạn chế của Luật thuế TNDN năm 2003 về đối tượng nộp thuế,
đó là:

+ Tên gọi của Luật mới đã phù hợp với nội dung của Luật. Trước đây, tên gọi
“Luật thuế TNDN năm 2003” không bao hàm được các cá nhân, hộ cá thể kinh
doanh. Đến nay, khi cá nhân, hộ gia đình đã chuyển sang là đối tượng nộp thuế của
thuế thu nhập cá nhân, thì tên gọi “Luật thuế TNDN” đã hoàn toàn phù hợp với nội
dung của Luật.
+ Việc loại trừ cá nhân hành nghề độc lập và hộ cá thể kinh doanh ra khỏi đối
tượng nộp thuế TNDN là phù hợp với thông lệ quốc tế, vì những đối tượng này theo
tính chất thì phải là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân ở nước ta
+ Quy định này đã đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế với nhau
và giữa các thành viên trong xã hội, khuyến khích lao động sáng tạo, nâng cao
năng suất lao động, phù hợp với nguyên tắc đối xử bình đẳng của các tổ chức quốc
tế.
[10]


+ Ngoài ra, quy định này còn tránh trường hợp một cá nhân vừa có thu nhập
từ kinh doanh và vừa có thu nhập từ tiền lương và các khoản thu nhập khác mà bị
điều chỉnh bởi hai luật thuế khác nhau, khắc phục được sự phức tạp và không phù
hợp với thông lệ quốc tế.
+ Mặt khác, đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN năm 2008 không
bao gồm các cá nhân có tài sản cho thuê, tài sản chuyển nhượng.
-

Môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi, trong thực tế vào

thời điểm năm 2008, các doanh nghiệp thường có cơ sở kinh doanh ở nhiều địa
phương khác nhau và ở những nơi này, chính quyền địa phương phải cung cấp
nhiều dịch vụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh như : bệnh viện, trường học, nhà ở
công nhân, vệ sinh môi trường, trật tự trị an… nhưng không có nguồn thu thuế vì
nguồn thu thuế thu nhập doanh nghiệp đã được đóng tại nơi doanh nghiệp có trụ

sở chính. Luật thuế TNDN đã quy định lại đối tượng đóng thuế theo hướng tạo điều
kiện cho ngân sách địa phương có nguồn thu thuế từ các cơ sở sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp đóng tại địa bàn của mình : Trường hợp doanh nghiệp có cơ sở
sản xuất (bao gồm cả cơ sở gia công, lắp ráp) hạch toán phụ thuộc hoạt động tại
địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác với địa bàn nơi doanh nghiệp
đóng trụ sở chính thì số thuế được tính nộp ở nơi có trụ sở chính và ở nơi có cơ sở
sản xuất.
Tuy có nhiều ưu điểm nhưng luật thuế TNDN năm 2008 vẫn còn tồn tại những
hạn chế về đối tượng nộp thuế TNDN. Sau khi tìm hiểu một số tài liệu cũng như ý kiến
đánh giá của các luật gia, em xin đưa ra một số hạn chế như sau:
-

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị định của Chính phủ số 124/2008 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
(NĐ số124/2008/NĐ-CP) thì doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là đối tượng nộp thuế.
Tuy nhiên, có thể thấy DNTN có nhiều điểm khác biệt với các loại hình doanh nghiệp
khác, là loại hình doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân. DNTN đơn thuần chỉ là
một cơ sơ sản xuất kinh doanh của một cá nhân, khi thành lập doanh nghiệp, chủ
DNTN không phải chuyển tài sản cũng như vốn đầu tư cho doanh nghiệp. Tài sản của
[11]


DNTN cũng không tách biệt với tài sản của chủ doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh
của DNTN cũng chính là hoạt động kinh doanh của chủ DNTN. Bản chất của DNTN
là cá nhân kinh doanh, chính vì vậy khi xem xét đối tượng thu nhập doanh nghiệp của
DNTN. Một vấn đề cơ bản được đặt ra là DNTN hay chủ DNTN là đối tượng nộp
thuế thu nhập? Pháp luật hiện hành chưa quy định triệt để mối quan hệ giữa thuế thu
nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân của chủ DNTN, nếu theo quy định của
pháp luật hiện hành cùng một khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh của
DNTN, chủ sở hữu DNTN vừa phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp vừa phải nộp

thuế thu nhập cá nhân nếu thỏa mãn các điều kiện phải đóng thuế.
-

Điểm đ khoản 1 Điều 2, NĐ số124/2008/NĐ-CP “Tổ chức khác ngoài tổ chức quy
định tại các điểm a, b, c, d khoản này có hoạt động sản xuất kinh doanh và có thu
nhập chịu thuế theo quy định của điều 3 Nghị định này”. Ở nước ta hiện nay có các tổ
chức thuộc hội khuyến nông, hội khuyến học, hội người cao tuổi hội bảo trợ người tàn
tật, các tổ chức phi chính phủ của nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam (Hội
đồng Anh, cộng đồng pháp ngữ…) Đây là các tổ chức có nhiều những hoạt động tích
cực tham gia vào các lĩnh vực của đời sống, xã hội cung cấp một số dịch vụ công
mang tính từ thiện, tự nguyện (đào tạo, tư vấn đời sống, pháp luật, hoạt động giao lưu,
phát triển văn hóa, nghiên cứu khoa học…). Thu nhập từ hoạt động của các tổ chức
này được sử dụng cho các mục đích, tôn chỉ được pháp luật thừa nhận như nêu trên
mà không có phân chia. Tuy nhiên, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản
hướng dẫn hiện hành chưa quy định rõ về đối tượng nộp thuế và chính sách điều tiết
thu nhập đối với các tổ chức có thu nhập không chia mà áp dụng chung cơ chế, chính
sách điều tiết như doanh nghiệp nên phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển các hoạt
động của các tổ chức đó.

-

Theo khoản 2 Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008, điểm (b), (c) và (d), các
tổ chức nước ngoài phải nộp thuế tại Viêt Nam đối với các khoản thu nhập phát sinh
từ Việt Nam cho dù các tổ chức này có hay không có cơ sở thường trú ở Việt Nam và
khoản thu nhập có phát sinh thông qua cơ sở thường trú hay không. Luật đã phân biệt
ba trường hợp khác nhau nên rất khó hiểu. Vì Việt Nam sẽ đánh thuế tất cả các nguồn
thu nhập mà các tổ chức nước ngoài nhận được từ Việt Nam nên định nghĩa “cơ sở
thường trú” trong khoản 3 Điều 2 Luật thu nhập doanh nghiệp không những không
[12]



cần thiết mà còn có thể tạo ra nhầm lẫn. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” được định
nghĩa trong khoản 3 Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 có phạm vi áp
dụng rộng hơn so với phạm vi của thuật ngữ này được sử dụng trong hầu hết các Hiệp
định tránh Đánh thuế hai lần ký giữa Việt Nam với các nước. Ví dụ (1): Luật quy định
rằng địa điểm xây dựng của một doanh nghiệp thành lập theo pháp luật nước ngoài
cũng có thể được coi là một cơ sở thường trú. Trong khi đó, rất nhiều Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần (ví dụ như Hiệp định tránh đánh thuế hai lần ký với Malaysia và
Singapore) không coi địa điểm xây dựng là cơ sở thường trú trừ phi địa điểm đó tồn
tại ít nhất 6 tháng. Quy định này chưa rõ ràng, về lý thuyết Luật cũng như quyền đánh
thuế của các quốc gia, điều này dễ gây nên các cách diễn giải khác nhau và không cần
thiết.
-

Do các quy định về thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam khá thông thoáng cho nên các
doanh nghiệp mà thành lập ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp này thực hiện việc
đăng kí thành lập theo đúng trình tự thủ tục được pháp luật quy định nhưng thực chất
lại không có bất kì hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà chỉ được thành lập với mục
đích duy nhất là mua bán hóa đơn do bộ tài chính phát hành để hợp thức hóa các hàng
hóa trôi nổi trên thị trường để chiếm đoạt tiền thuế giá trị gia tăng đồng thời trốn thuế
thu nhập doanh nghiệp. Còn nhiều kẽ hở trong luật khiến các đối tượng nộp thuế vẫn
có thể lợi dụng để trốn thuế, gian lận thuế hiện tượng phổ biến là khai thấp giá bán và
số lượng hàng hóa, để ngoài sổ kế toán những khoản thu đáng lẽ phải đánh thuế, sử
dụng hóa đơn giả, hóa đơn “đen”, khai gian loại hàng chịu thuế suất cao sang loại chịu
thuế thấp.
III.

ĐỀ XUẤT Ý KIẾN VỀ VIỆC THỰC THI TỐT PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU
NHẬP DOANH NGHIỆP.
- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn hiện hành nên quy


định một cách triệt để mối quan hệ giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập
cá nhân của chủ DNTN; và rõ hơn về đối tượng nộp thuế và chính sách điều tiết thu
nhập đối với các tổ chức có thu nhập không chia như đã nói ở trên.
-

Luật cần định nghĩa khái niệm “thu nhập phát sinh từ Việt Nam” và lấy đó

làm cơ sở đánh thuế đối với doanh nghiệp thành lập theo pháp luật nước ngoài.
[13]


-

Xem xét để điều chỉnh định nghĩa “cơ sở thường trú” sao cho không có sự

khác biệt hay không đồng nhất giữa luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các Hiệp định
tránh đánh thuế hai lần. Điều này cũng góp phần tạo sự bình đẳng trong việc áp thuế
giữa các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng lợi và những nhà đầu tư nước ngoài
không được hưởng lợi từ Hiệp định đánh thuế hai lần ký kết với Việt Nam.
- Thuế suất phản ánh mức độ điều tiết của nhà nước. Xác định lại mức thuế suất
TNDN theo hướng giảm thấp là một trong những giải pháp làm giảm động cơ trốn
thuế, gian lận thuế của các doanh nghiệp không những vậy nó còn khuyến khích, động
viên ý thức tự giác của doanh nghiệp nộp thuế. Mối lo về thất thu ngân sách khi hạ
thuế không có cơ sở, bởi lẽ, ngày càng có nhiều doanh nghiệp mới thành lập và đi vào
hoạt động và nguồn thu cho ngân sách từ thuế sẽ được cân đối.
- Chính sách thuế là một trong những chính sách nhạy cảm nhất vì nó liên quan
trực tiếp đến quyền lợi của đối tượng nộp thuế. Vì vậy công tác tuyên truyền cần phải
được coi trọng để cộng đồng doanh nghiệp hiểu được bản chất của thuế thu nhập
doanh nghiệp từ đó nâng cao tính tự giác nộp thuế của các doanh nghiệp, nghiêm

chỉnh thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật. Việc
tuyên truyền cần phải được quảng bá rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng, ở nơi có nhiều khu công nghiệp. Chiến lược tuyên truyền phải được lập thành
kế hoạch và sắp xếp rõ ràng. Song song với việc tuyên truyền , nên bổ sung việc áp
dụng các biện pháp khen thưởng, biểu dương những đối tượng thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ nộp thuế.
- Các hành vi vi phạm hình sự trong lĩnh vực thuế nói chung và thuế thu nhập
doanh nghiệp nói riêng có mức độ nguy hiểm lớn cho xã hội. Các hành vi này có thể
do cả tổ chức và cá nhân thực hiện nhưng pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay mới
chỉ quy định vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân ( Điều 161 Bộ luật
hình sự sửa đổi bổ sung 2009) chứ chưa thừa nhận việc truy cứu hình sự với pháp
nhân. Điều này đã tạo ra sự bất bình đẳng trong việc xử lí vi phạm về thuế. Bộ luật
hình sự nên có thêm quy định về việc truy cứu trách nhiệm của pháp nhân khi pháp
nhân có hành vi vi phạm về thuế.
-

Tăng cường chế tài đối với các hành vi vi phạm buộc các doanh nghiệp tự

giác chấp hành, đảm bảo tính răn đe. Mức xử phạt cả về hành chính và hình sự hiện
[14]


nay đều không đạt được yêu cầu phòng ngừa và trừng phạt ( phạt 5 lần số tiền trốn
thuế; khung hình phạt cao nhất cho tội trốn thuế là 7 năm tù). Phải có thái độ kiên
quyết thì mới có thể nâng cao việc thực thi tốt pháp luật về thuế thu nhập doanh
nghiệp.
- Tăng cường công tác kiếm tra, kiểm soát hóa đơn, chứng từ mua vào bán ra
của các doanh nghiệp nhằm phát hiện kịp thời những sai phạm, hạn chế tối đa thiệt hại
do trốn thuế gây ra. Khuyến khích cá nhân lấy hóa đơn khi mua hàng đồng thời bắt
buộc mỗi nơi khi bán hàng đều phái xuất hóa đơn giá trị gia tăng.

-

Nâng cao sự phối hợp giữa cơ quan chức năng đặc biệt là cơ quan đăng kí

kinh doanh và cơ quan thuế trong việc kiểm soát các doanh nghiệp mới thành lập,
tránh tình trạng lợi dụng quy định miễn thuế cho doanh nghiệp mới thành lập; sửa đổi
bổ sung những quy định của pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp theo hướng vừa
tạo môi trường kinh doanh thông thoáng vừa quản lí được tình hình hoạt động của
doanh nghiệp từ đó hạn chế tối đa tình trạng doanh nghiệp mà.
- Đảm bảo tính thống nhất giữa pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp với các
đạo luật thuế khác trong cơ cấu hệ thống pháp luật thuế. Đảm bảo tính công bằng
trong việc nộp thuế của tất cả mọi đối tượng.
C. KẾT BÀI
Qua bài viết trên đây, ta đã phần nào tìm hiểu rõ hơn về các đối tượng nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế TNDN 2008.Luật thuế TNDN năm 2008 ra đời
đã đáp ứng được yêu cầu của đông đảo các doanh nghiệp là tạo ra một mặt bằng pháp
lý chung về thuế TNDN cho mọi thành phần kinh tế (trừ cá nhân, hộ kinh doanh cá
thể), không phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài; thực sự tạo ra sự canh tranh bình đẳng; đáp ứng nguyên tắc không phân
biệt đối xử tạo điều kiện cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế đặc biệt khi
Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế cần
khắc phục, và nhà nước cần quan tâm hơn nữa về các vấn đề như đào tạo đội ngũ cán
bộ hoạch định chính sách thuế giỏi về chuyên môn, am hiểu về lĩnh vực thuế; xây
dựng mối quan hệ vững chắc giữa cơ quan hoạch định chính sách thuế TNDN với
doanh nghiệp và các cơ quan chức năng có liên quan;… Có như vậy, pháp luật về thuế
nói chung và đối tượng nộp thuế nói riêng mới ngày một hoàn thiện hơn.
[15]


[16]




×