Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.95 KB, 58 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ly hôn là một hiện tượng xã hội xuất hiện ngày càng nhiều trong thời
gian gần đây. Khi cuộc sống vợ chồng rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì ly hôn là
lối thoát cho cuộc sống bế tắc, không còn tình cảm của hai vợ chồng.
Nhưng hậu quả pháp lý mà nó để lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến đối
tượng vốn là niềm hạnh phúc của hai vợ chồng - đó là những đứa con. Những
đứa trẻ cần được sự yêu thương, chăm sóc của cả cha và mẹ trong một gia đình
êm ấm . Khi cha,mẹ ly hôn chúng phải chịu cảnh gia đình tan nát, nếu không có
sự bảo vệ tốt cho đối tượng này, thì sẽ rất dễ đánh mất cả tuổi thơ và tương lai.
Vì vậy, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những đứa con sau khi vợ chồng
ly hôn đã và đang được xã hội quan tâm.
Để bảo vệ quyền và lợi ích của đối tượng dễ bị tổn thương này, chúng ta
cần một cơ chế đồng bộ từ các quy định chặt chẽ của pháp luật đến giai đoạn thi
hành án trong xuốt thời gian đối tượng này được bảo vệ theo qui định của pháp
luật.
Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản pháp luật liên quan ra đời đã góp
phần tích cực và quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly
hôn với những nội dung cơ bản như quy định về nguyên tắc giao con cho ai nuôi
là vì quyền lợi mọi mặt của con; quy định về mức cấp dưỡng, phương thức cấp
dưỡng nuôi con, quyền thăm nom con; quy định về việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con khi quyền lợi mọi mặt của con không được đảm bảo, …
Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn
còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do nhiều nguyên nhân khác nhau. Để
nghiên cứu vấn đề được rõ hơn, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Phương

1


Lan, Tôi mạnh dạn chọn đề tài : ‘‘Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con


khi cha mẹ ly hôn’’ làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2.

Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nhằm làm sáng tỏ những những qui định của Luật hôn nhân và gia
đình hiện hành về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ
ly hôn, cũng như việc áp dụng những qui định này trên thực tế,góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích của con được thực hiện tốt hơn, đồng thời đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện các qui định của luật hôn nhân và gia đình hiện hành về
vấn đề này.

3.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của con khi cha,mẹ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 và các vản bản pháp luật liên quan .
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam và các Văn bản pháp luật liên
quan về bảo vệ quyền và lợi ích của con sau khi cha mẹ ly hôn.

4.

Phương pháp ngiên cứu.
Luận văn sử dụng một số biện pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin, Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh,
thống kê,...được vận dụng để thực hiện đề tài này.

2



5.

Kết cấu của luận văn.

Luận văn chia làm ba chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
con khi cha mẹ ly hôn.
Chương 2: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo
pháp luật hiện hành.
Chương 3: Một số vấn đề vướng mắc trong việc thực hiện việc bảo vệ bảo vệ
quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn và một số kiến nghị.

3


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN.
1.1.Ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn.
1.1.1. Khái niệm ly hôn.
Hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa được xác lập giữa nam và nữ trên
cơ sở tự do, tự nguyện. Đây chính là yếu tố quyết định đến độ bền vững của
quan hệ hôn nhân mà họ xác lập. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì
những mâu thuẫn nhất định mà họ không thể sống chung với nhau được nữa. Để
giải phóng vợ chồng cũng như các thành viên khác thoát khỏi những bế tắc, mâu
thuẫn trong cuộc sống gia đình không thể hòa giải này, vấn đề ly hôn được đặt
ra. Ly hôn là mặt trái của một cuộc hôn nhân, nhưng nó cũng là cách giải thoát
cho vợ chồng cũng như các thành viên khác trong gia đình khi quan hệ vợ chồng
chỉ còn là hình thức.

Pháp luật hôn nhân luôn coi trọng quyền tự do hôn nhân bao hàm cả tự do
kết hôn cũng như ly hôn. Đảm bảo quyền tự do ly hôn là một nội dung quan
trọng của nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ đã được ghi nhận tại Điều 64
Hiến pháp Việt Nam năm 1992 và được cụ thể hoá tại Điều 2 Luật HN&GĐ
năm 2000. Tuy nhiên, tự do ly hôn không phải là tự do một cách tuỳ tiện mà
phải dựa vào những căn cứ luật định. Đó là khi quan hệ vợ chồng lâm vào “tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt được’’(Khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000).
Pháp luật không bắt buộc nam nữ kết hôn khi họ không yêu nhau thì cũng
không bắt buộc họ phải chung sống với nhau khi không còn tình cảm. Ly hôn là
cơ hội mới để người vợ, người chồng có thể làm lại cuộc đời, thoát khỏi đau
khổ. Bởi vì bản chất của ly hôn ‘‘chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn
nhân này chỉ là một cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và
4


giả dối’’(1) và bởi vì: ‘‘Tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm tan rã những
mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những
cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội
văn minh’’(2) . Đứng trên quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa Mac - Lê nin, Khoản
8 Điều 8 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 quy định: ‘‘ Ly hôn là việc chấm
dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của
vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng’’.
Như vậy ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng.
Nhưng không có nghĩa làm chấm dứt các quan hệ khác như quan hệ huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng. Do đó, đứng trên tầm vĩ mô thì việc giải quyết ly
hôn không những cần xem xét lợi ích của vợ, chồng mà còn cần tính đến quyền
lợi của con cái trong quan hệ hôn nhân đó, giúp giải quyết ly hôn chính xác, đem
lại hiệu quả tích cực, thúc đẩy các quan hệ hôn nhân phát triển phù hợp với đạo
đức xã hội chủ nghĩa, phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội.

1.1.2.Hậu quả pháp lý của ly hôn đến quyền và lợi ích của con khi cha
mẹ ly hôn.
Từ thời sơ khai, khi con người mới bắt đầu xuất hiện con người đã biết tổ
chức sống thành quần thể với nhau theo quan hệ ruột thịt, họ chăm sóc, nuôi
dưỡng lẫn nhau đặc biệt là đối với con cái. Đó là một nghĩa vụ tự nhiên của con
người. Dần dần khi hình thái xã hội ngày càng được nâng cao, hình thái nguyên
thủy, bầy đàn được thay thế bằng hình thái gia đình thì trách nhiệm của cha mẹ
đối với con cái cũng không hề thay đổi. Và khi nhà nước ra đời, thì nghĩa vụ
chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ được luật hóa thành nghĩa vụ pháp lý. Nghĩa
vụ này không liên quan đến quan hệ hôn nhân có còn tồn tại hay không.
Sau sự kiện ly hôn thì quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng chấm dứt, nhưng
không có nghĩa là chấm dứt tất cả các quan hệ gia đình bao gồm cả quan hệ
huyết thống và nuôi dưỡng mà hôn nhân đem lại. Trong quan hệ giữa cha, mẹ
1()
2()

C.Mac và PH.Anghen:Toàn tập, nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.234
Lê nin: về quyền dân tộc tự quyết, Toàn tập, NXB tiến bộ, Matxcova, 1980, T.25, tr.335

5


đối với con cái thì quyền và nghĩa vụ không có gì thay đổi, mà chỉ thay đổi cách
thức thực hiện quyền và nghĩa vụ đó của người không trực tiếp nuôi dưỡng mà
thôi.
Theo đó, cha mẹ sau khi ly hôn vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trông nom,
chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn
tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình ( Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Đây là
những nghĩa vụ không đơn thuần phát sinh dựa trên cơ sở quan hệ tình cảm ruột

thịt mà là nghĩa vụ pháp định.
Nhưng xuất phát từ việc sau khi ly hôn thì cha mẹ không cùng chung sống
với nhau nữa, do đó đặt ra vấn đề pháp lý “ ai sẽ là người trực tiếp nuôi con, để
quyền và lợi ích của con được đảm bảo”. Vì vậy theo Điều 92 luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 quy định: vợ chồng có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi
con và quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng sau khi ly hôn đối với con. Còn nếu vợ
chồng không tự thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Tòa án sẽ căn cứ
vào quyền lợi về mọi mặt của con, để giao con cho bên nào trực tiếp nuôi
dưỡng, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Và về nguyên tắc con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, nếu
các bên không có thỏa thuận nào khác.
Cần thấy rằng, sau khi ly hôn, hoàn cảnh gia đình ly tán sẽ ảnh hưởng rất
nhiều đến sự phát triển bình thường của các con chưa thành niên hoặc đã thành
niên bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình. Do vậy, khi quyết định giao con cho ai trực
tiếp nuôi dưỡng, tòa án cần phải xem xét các yếu tố như tư cách đạo đức, hoàn
cảnh công tác, điều kiện kinh tế, thời gian chăm sóc của mỗi bên vợ chồng,..để
quyết định giao con cho người có thể chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con một
cách tốt nhất.

6


Bên nào không trực tiếp nuôi dưỡng thì có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Theo hướng dẫn tại nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao cũng đã khẳng định “ Đây là nghĩa vụ
của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh
tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con”. Như vậy cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của người không trực tiếp
nuôi con, không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác, không thể chuyển giao cho

người khác, cũng như không phụ thuộc vào khả năng kinh tế của người trực tiếp
nuôi dưỡng. Tuy nhiên, nếu người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người
không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng là hoàn toàn tự nguyện và họ có đầy đủ khả
năng, điều kện nuôi dưỡng con thì tòa án không buộc bên kia phải cấp dưỡng
nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền được thăm nom con,
nhưng nếu họ lạm dụng quyền thăm nom con để cản trở, hoặc gây ảnh hưởng
xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp
nuôi con có quyền yêu cầu tòa án hạn chế quyền thăm nom con của họ.
Mặt khác, tuy các bên đã thỏa thuận hoặc tòa án đã quyết định người trực
tiếp nuôi con là vợ hoặc chồng, nhưng trong hoàn cảnh cần thiết vì lợi ích của
con, và theo yêu cầu của các bên thì tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi
con, nếu con từ chín tuổi trở lên thì cần phải xem xét đến nguyện vọng của con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện khi người trực tiếp nuôi
dưỡng không đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của con.
Như vậy theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì khi vợ
chồng đã ly hôn, mỗi bên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và quyền đối với con
chung không phân biệt con đẻ hay con nuôi ( khoản 5 Điều 2 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000), nhằm bảo vệ hợp pháp quyền và lợi ích của con, cũng chính
là nhằm bảo vệ thế hệ trẻ- tương lai của đất nước.

7


1.2. Khái niệm bảo vệ và các cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
con khi cha mẹ ly hôn.
1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn.
Việc bảo vệ quyền và lợi ích của con đã được ghi nhận đầu tiên tại Điều 65
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa đổi bổ
xung năm 2001 ghi nhận: Trẻ em được gia đình, nhà nước và xã hội bảo vệ ,

chăm sóc và giáo dục. Và được cụ thể hóa tại Khoản 6 Điều 2 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000, thành một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân
và gia đình “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ ..., trẻ em,..”.
Con cái trong trường hợp cha mẹ ly hôn là một trường hợp cụ thể cần được bảo
vệ theo khoản 6 Điều 2 của luật này.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con
khi cha mẹ ly hôn chưa được làm sáng tỏ một cách cụ thể mà được tiếp cận chủ
yếu ở những cách thức hay phương pháp bảo vệ nhất định.
Theo từ điển “ Tiếng Việt thông dụng” (3) thì bảo vệ có nghĩa là che chở, giữ
gìn, là chống lại mọi sự xâm hại. Suy rộng ra, có thể hiểu bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn có nghĩa là làm cho quyền và lợi ích
của con không bị xâm hại, hạn chế ,khắc phục tác động xấu do hậu quả của ly
hôn ảnh hưởng tới trẻ cũng như những hành vi xâm phạm tới quyền và lợi ích
của con cần phải được xử lý.
1.2.2. Cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn.
Khi cha mẹ ly hôn, con cái là đối tượng dễ bị tổn thương nhất, do vậy việc
bảo vệ quyền và lợi ích cho con khi cha mẹ ly hôn là việc làm cần thiết . Nhưng
bảo vệ như thế nào, bằng những phương pháp gì cho hiệu quả.
Để bảo vệ đối tượng này tốt nhất thì cần có một cơ chế, cách thức bảo vệ
toàn diện, trước hết cần được pháp luật ghi nhận ( hệ thống văn bản có giá trị
hiệu lực và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước). Mặt khác, việc

8


ghi nhận này chỉ có ý nghĩa khi những quyền và lợi ích của con phải được thực
hiện tốt trên thực tế.
Hay nói cách khác thì phương thức cơ bản nhất để quyền và lợi ích của con
khi cha mẹ ly hôn chính là việc bảo vệ bằng pháp luật. “ Đảm bảo bằng pháp
luật, một trong các điều kiện quan trọng nhất để quyền con người được thực

hiện” [ 29, 50]. Điều này càng có ý nghĩa khi các quyền và lợi ích của con bị
xâm hại, bởi xuất phát từ tính cưỡng chế của pháp luật. Vì thế, để bảo vệ tốt
quyền và lợi ích của con khi cha mẹ ly hôn trước hết, chúng ta phải có một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ.
Nhưng chỉ ghi nhận các quyền và lợi ích của con khi cha mẹ ly hôn bằng
pháp luật là chưa đủ, mà các quyền và lợi ích của con cần phải được tôn trọng
và đảm bảo thực thi trên thực tế .Trước hết việc bảo vệ này phải xuất phát từ
chính người cha, người mẹ của những đứa trẻ trong việc tự giác thực hiện các
quyền và nghĩa vụ mà pháp luật ghi nhận cho họ. Nhưng trên thực tế không
phải bậc làm cha, làm mẹ nào cũng ý thức được trách nhiệm của mình đối với
con cái sau khi chấm dứt quan hệ hôn nhân. Do vậy, cần đề cao vai vai trò của
các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc áp dụng các biện pháp chế tài buộc
người cha, người mẹ phải nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ cũng đồng thời là
quyền của họ.
1.3. Sự cần thiết của việc phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi
cha mẹ ly hôn.
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” là câu nói bao hàm đầy đủ ý
nghĩa về trẻ em. Trẻ em là tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân
tộc, mỗi cộng đồng, mỗi họ tộc và mỗi gia đình. Trong nhiều thập kỷ qua,
việc chăm sóc trẻ em ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đã được quan tâm .
Trong đó, Việt nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế
giới phê chuẩn công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày

9


20/2/1990. Từ đó đến nay, các quyền của trẻ em đã được luật hóa trong các
văn bản của pháp lý của Vệt Nam.
Theo điều 65 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ xung năm 2001 qui định : “
trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”.

Quyền của trẻ em còn được cụ thể hóa thành luật cụ thể: Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, cũng như trong các luật và văn bản pháp
luật liên quan.
Xuất phát từ quyền trẻ em được pháp luật bảo vệ, các quyền và lợi ích
của con cũng được pháp luật quy định một cách cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích
chung của nhà nước, của gia đình, của toàn xã hội “ các thành viên trong
gia đình có quyền hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau phù hợp với truyền
thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam . Con cháu chưa thành niên
được hưởng sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà; con cháu có bổn
phận kính trọng, chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà; cha mẹ có
trách nhiệm nuôi dậy con thành những công dân tốt” (Điều 41 Bộ luật dân
sự năm 2005; Điều 64 Hiến pháp năm 1992).
Trên tinh thần đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc hội
Khóa X thông qua ngày 09/06/2000 đã có quy định cụ thể về quyền và lợi
ích của con khi cha mẹ ly hôn một cách hệ thống và tương đối đầy đủ. Theo
điều 92 luật HN&GĐ năm 2000 có qui định “ sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn
có nghĩa vụ, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên bị tàn tật,
mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình”.
Gia đình là nơi gắn kết giữa các thành viên , là nơi thể hiện sự yêu
thương, gắn bó với nhau. Gia đình cũng là môi trường đầu tiên và tốt nhất cho
việc chăm sóc, giáo dục trẻ, bảo đảm cho các em trở thành công dân có ích cho
xã hội. Nhưng khi cha mẹ ly hôn thì gia đình không thể nào tránh khỏi ly tán
giữa các thành viên. Sự chăm sóc, giáo dục của gia đình đối với các em bây giờ

10


cũng có sự thay đổi. Cụ thể đứa trẻ chỉ được sống chung với cha hoặc mẹ của
chúng. Đây là những mất mát to lớn về mặt tình cảm, sự yêu thương, chăm sóc,

giáo dục cũng như vật chất của cha hoặc mẹ, gây nên những tổn thương tâm lý
không nhỏ cho trẻ.
Mặt khác, đối tượng được pháp luật bảo vệ khi cha mẹ ly hôn “con chưa
thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình”, là những đứa con chưa phát
triển hoàn thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Do vậy, những đối tượng này
cần được bảo vệ, chăm sóc giáo dục từ phía các bậc cha mẹ, nhà trường và
toàn xã hội.
Ở các chủ thể này, hầu như đều là đối tượng không thể tự mình bảo vệ
các quyền và lợi ích mà pháp luật quy định. Việc bảo vệ các quyền và lợi ích
cho con cần được thực hiện trước tiên từ chính người cha, người mẹ. Nhưng
không phải ai cũng nghĩ và tự giác thức hiện được như vậy, mà nhiều trường
hợp chính người làm cha làm mẹ này lại là người xâm phạm đến quyền và lợi
ích của con. Một thực tế rất phổ biến là người không trực tiếp nuôi con không
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con hoặc người trực tiếp nuôi con có hành vi
ngăn cấm người kia thăm nom con, thậm chí không nhận tiền cấp dưỡng nuôi
con từ người kìa, nhằm để trả thù nhau. Các hành vi trả thù này của cha, mẹ đã
xâm phạm đến quyền và lợi ích của con được pháp bảo vệ.
Và một thực tế, trẻ sống trong các gia đình ly hôn thường bị những tổn
thương về mặt tâm lý. Cụ thể, những đứa trẻ này thường hay mặc cảm trong
cuộc sống hàng ngày, ngại tiếp xúc, kín kẽ khi nói về bản thân và gia đình
không trọn vẹn của mình. Những trẻ có cha mẹ ly hôn phải chịu nhiều thiệt thòi
so với các bạn bè đồng lứa, hơn nữa, chúng vẫn còn chưa thể tự lo được cho
mình. Vì vậy, chúng ta rất cần có sự quan tâm đặc biệt đến đối tượng này. Hơn
nữa, chúng đang trong quá trình phát triển về nhân cách và nhận thức, rất cần
được dạy đỗ, chỉ bảo, định hướng của cha, mẹ. Đây cũng là lứa tuổi dễ bị lợi
11


dụng, dễ sa vào cạm bẫy nên cần sự quan tâm, sự định hướng của cha, mẹ. Do

những thiệt thòi không dễ bù đắp, những nguy cơ mà các em dễ đi vào con
đường phạm pháp, bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ có cha mẹ ly hôn là một việc
làm rất cần thiết.

12


CHƯƠNG 2
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA
MẸ LY HÔN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Đối tượng được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích khi cha mẹ ly hôn.
Ly hôn đem lại lối thoát cho người cha người mẹ thoát khỏi cuộc sống bế
tắc, nhưng mặt hạn chế của ly hôn đã để lại hậu quả tâm lý không nhỏ cho
những đứa con, đặc biệt là những đứa con chưa phát triển hoàn chỉnh về thể chất
và tinh thần . Đây là đối tượng dễ bị tổn thương nhất, ảnh hưởng không nhỏ đến
tương lai, sự phát triển tâm sinh lý của trẻ sau này. Do vậy, đây là đối tượng
được pháp luật bảo vệ khi cha mẹ ly hôn.
Theo khoản 1 Điều 92 luật HN&GĐ năm 2000 quy định “ sau khi ly hôn,
vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa
thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”
Như vậy không phải bất kỳ người con nào cũng được pháp luật bảo vệ khi
cha mẹ ly hôn. Theo điều luật trên thì khi cha mẹ ly hôn chỉ có con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mới được pháp luật bảo
vệ .
Theo Bộ luật dân sự năm 2005 thì “ người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên”( Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005). ở lứa tuổi này, các
em có quyền được nhận sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của cha mẹ vì chúng
còn ngây thơ, chưa thể tự lo cho bản thân được. xuất phát từ quyền trẻ em theo

công ước về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên, thì Trẻ có cha mẹ ly hôn
cũng có quyền được hưởng những quyền mà mọi trẻ em được hưởng như học
tập, vui chơi, sự quan tâm, chăm sóc… Đây là lứa tuổi chưa phát triển hoàn
chỉnh về tâm lý lẫn sinh lý. Chúng chưa đủ sức khoẻ và trình độ tham gia vào
các quan hệ lao động phức tạp để tự nuôi sống bản thân.
13


Hơn nữa pháp luật cũng quy định chúng chưa có quyền và nghĩa vụ đầy
đủ của một công dân độc lập. Rất nhiều trường hợp chúng cần có người đại diện
để thực hiện các giao dịch dân sự hoặc tham gia vào các quan hệ pháp luật khác.
Vì vậy, chúng chưa thể tự sống một cuộc sống độc lập và rất cần sự nuôi dưỡng,
dìu dắt của người thân đặc biệt là cha mẹ. Nuôi con là trách nhiệm của cha mẹ
nhưng đó không phải là nghĩa vụ suốt đời. Bởi vì khi con đã thành niên, trừ
những trường hợp ngoại lệ, họ hoàn toàn có khả năng nuôi sống bản thân mình.
Đây là điểm mới mang tính phù hợp hơn giữa Luật HN&GĐ năm 2000 với Luật
HN&GĐ năm 1986 chỉ quy định chung chung về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng con cái‘‘Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng giáo dục con, chăm
lo việc học tập và sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo
đức". ( Điều 19 Luật HN&GĐ năm 1986 ).
Theo Khoản 1 Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000 thì “ Các con đã thành
niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình” cũng thuộc đối tượng được pháp luật bảo vệ
khi cha mẹ ly hôn.
Căn cứ theo Bộ luật dân sự năm 2005, những đối tượng trên là những
người về độ tuổi đã thoả mãn quy định của pháp luật là một công dân độc lập
nhưng họ lại bị khiếm khuyết về thể chất hoặc nhận thức và điều khiển hành vi
nên không có khả năng lao động. họ Không có khả năng lao động đồng nghĩa
với việc không tự tạo ra thu nhập để tự lo cho cuộc sống của mình, trừ trường
hợp đặc biệt. Do vậy, Pháp luật vẫn quy định trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc

của cha mẹ cho những đối tượng này. Đây là quy định thể hiện tính nhân văn
sâu sắc, tính nhân đạo của pháp luật. Bởi vì, nếu chỉ dựa vào đạo đức, trách
nhiệm của cha mẹ, quyền lợi của những người con này không phải lúc nào cũng
được đảm bảo.
Theo Pháp lệnh người tàn tật năm 1998 quy định : người tàn tật là người
‘‘… bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện
dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho
14


lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn’’. Nhưng không phải mọi người
con đã thành niên bị tàn tật cha mẹ đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà chỉ những
người không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Còn đối
với những người đã đủ mười tám tuổi, bị tàn tật nhưng vẫn lao động tạo ra thu
nhập hoặc tuy bị tàn tật không có khả năng lao động nhưng vẫn có tài sản nuôi
được bản thân ( do được thừa kế, được tặng cho theo Bộ luật dân sự năm 2005)
thì khi đến tuổi thành niên, thì cha mẹ không còn nghĩa vụ nuôi dưỡng theo luật
định.
Đối với người mất năng lực hành vi dân sự khi cha mẹ ly hôn pháp luật
hôn nhân cũng đặt ra vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Theo Điều 22 Bộ
luật dân sự năm 2005 quy định “ khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình thì theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định”.
Như vậy những đối tượng được pháp luật bảo vệ khi cha mẹ ly hôn bao
gồm “ con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi
dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”
(Khoản 1 Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000) . Đây là quy định mang tính nhân
văn sâu sắc, hợp pháp hóa các quyền được chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đối
với tất cả các con, miễn là con chung của cha mẹ, không phân biệt người con đó

có khỏe mạnh, có vấn đề về tâm thần hay không, không phân biệt con trai hay
con gái, con đẻ hay con nuôi, con trong giá thú, hay con ngoài giá thú ( khoản 5
Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Vậy vấn đề đặt ra là, theo khoản 1 điều 92 Luật HN&GĐ, đối tượng được
pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của con khi cha mẹ ly hôn có bao gồm cả
trường hợp đã thành niên, không mất năng lực hành vi dân sự nhưng không có
khả năng lao động?

15


Trên thực tế đối tượng này khá phổ biến ở nước ta, như trường hợp cha
mẹ ly hôn mà có con đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng, trung học
và dậy nghề. Các em khi tham gia học tập tại các cấp bậc trên, tuy đã có tư cách
công dân đầy đủ nhưng thời gian giành hết cho việc học tập, nghiên cứu làm
hạn chế khả năng lao động. đồng thời khoản tiền để chu cấp cho việc học tập
của con ở các trường đại học, cao đẳng, .... này cũng rất tốn kém. Do vậy, các
đối tượng này cũng rất cần được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích khi cha mẹ ly
hôn.
2.2. Nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau
khi ly hôn.
Quan hệ pháp luật giữa cha,mẹ và con phát sinh dựa trên quan hệ huyết
thống và quan hệ nuôi dưỡng. việc chấm dứt quan hệ hôn nhân hay không không
ảnh hưởng đến quan hệ cũng như các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ với con
cái. Cả cha và mẹ đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ yêu
thương,chăm sóc, giáo dục các con chung. Theo Điều 92 Luật HN&GĐ năm
2000 quy định “ sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm
sóc, giáo dục ,nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật,
mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình”. Đối với con chưa thành niên , con đã thành niên bị tàn tật, bị

năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình thì những nghĩa vụ đó của cha, mẹ không đơn thuần phát sinh từ quan
hệ quan hệ tình cảm, ruột thịt mà là nghĩa vụ pháp định. Như vậy, dù không
cùng chung sống nhưng nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con vẫn được
đặt ra cho cả người trực tiếp nuôi con và người không trực tiếp nuôi con. Tuy
nhiên, việc chăm lo cho cuộc sống hằng ngày của con do người trực tiếp nuôi
con đảm nhiệm. Quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của
người không trực tiếp nuôi con được thể hiện qua việc cấp dưỡng cho con, việc

16


thăm nom con, cũng như nghĩa vụ đại diện và chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho con theo quy định của pháp luật.
Quy định như vậy hoàn toàn hợp lý với Điều 12 Luật BVCS&GDTE năm
2004 quy định : ‘‘Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể
chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức’. Khoản 1 Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2000
quy định : ‘‘Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều
kiện cho con học tập ’’. Điều này cũng phù hợp với quy định của Luật
BVCS&GDTE : ‘‘ Trẻ em có quyền được học tập’’ (Khoản 1 Điều 16). Bên
cạnh đó, ‘‘cha mẹ hướng dẫn chọn nghề, tôn trọng quyền chọn nghề, quyền
tham gia hoạt động xã hội của con’’(Khoản 2 Điều 37 Luật HN&GĐ năm
2000). Tuy nhiên, khi cha mẹ ly hôn có thể ảnh hưởng đến việc học tập của các
con. Do sự thay đổi về môi trường sống, sự thiếu thốn tình cảm có thể kéo theo
những hậu quả không tốt cho sự phát triển tâm sinh lý của trẻ sau này bao gồm
cả việc học tập của con. Vì vậy việc quyết định giao con cho ai trực tiếp nuôi
dưỡng cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng, tất cả phải vì quyền lợi của con.
2.3.Xem xét giải quyết vấn đề người trực tiếp nuôi con khi cha mẹ ly hôn.
Quan hệ hôn nhân và gia đình thực chất cũng là quan hệ dân sự. Do vậy
trong việc giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung và quan hệ xác

định người trực tiếp nuôi con nói riêng, tòa án cần phải tôn trọng sự thỏa thuận
của các bậc cha, mẹ (Theo khoản 2 Điều 92 Luật HN&GĐ qui định). Nhưng
không phải cha mẹ muốn thỏa thuận thế nào cũng được, mọi thỏa thuận của cha
mẹ xác định người trực tiếp nuôi dưỡng đều phải căn cứ vào mọi quyền lợi của
con. Nếu xét thấy thỏa thuận chưa hợp lý, quyền lợi của con chưa được đảm bảo
thì Tòa án cần phải xem xét để điều chỉnh cho đúng vì lợi ích của con. Tránh
trường hợp cha mẹ thỏa thuận việc ai nuôi con nhằm chốn tránh trách nhiệm,
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của con. trong trường hợp đặc biệt, Tòa án
có thể quyết định giao con cho ông bà hoặc những người thân thích khác nuôi

17


dưỡng, giáo dục nếu xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ tư cách hay không có
điều kiện thực tế chăm sóc, nuôi dưỡng,giáo dục con.
Sau khi ly hôn, hầu như các bậc cha mẹ đều “ tranh giành” với nhau
quyền nuôi con, không bên nào chịu bên nào, mà con cái chỉ có thể sống với cha
hoặc mẹ của chúng .Trong trường hợp đặc biệt, khi cha mẹ không đủ tư cách thì
con cái có thể được những người thân thích như, anh, chị, ông bà nội, ông bà
ngoại của người được nuôi dưỡng( Điều 48, Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2000).
Việc tòa án xác định ai là người trực tiếp nuôi con trong trường hợp này, cần
phải căn cứ vào các nhu cầu cần thiết của con “..các điều kiện cho sự phát triển
về thể chất, đảm bảo việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh
thần” (Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật HN&GĐ năm 2000). Việc ở cùng ai ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển tâm lý, nhân cách, thể chất của con. Do vậy vấn đề đầu tiên để bảo vệ
quyền và lợi ích cho con là xác định người trực tiếp nuôi dưỡng.
Theo khoản 2 Điều 92 Luật HN&GĐ qui định “ vợ, chồng thể thỏa thuận
về người trực tiếp nuôi con, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định
giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt

của con như điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng của người
cha, người mẹ, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu không có
thỏa thuận khác.”
Xuất phát từ nhu cầu chăm sóc con đặc biệt trong thời gian đầu, về
nguyên tắc, con dưới 3 tuổi được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên
không có thỏa thuận khác( Khoản 2 Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000). Như vậy
có thể hiểu nếu các bên không có thỏa thuận người trực tiếp nuôi con thì về

18


nguyên tắc con dưới ba tuổi sẽ do mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xuất phát từ thiên
chức làm mẹ, pháp luật quy định như thế bởi ở lứa tuổi này, chỉ có người mẹ
mới chăm sóc con mình một cách tốt nhất. Tòa án chỉ giao con dưới ba tuổi cho
người cha nếu người mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con
hoặc từ chối nuôi dưỡng.
Đây là quy định rất có ý nghĩa khi đảm bảo quyền được chăm sóc của đối
tượng đặc biệt- con dưới ba tuổi. Ở độ tuổi này đứa trẻ rất cần sự chăm sóc của
người mẹ, do vậy nếu người mẹ có thu nhập ổn định, có điều kiện chăm sóc giáo
dục thì đứa con dưới ba tuổi sẽ giao cho người trực tiếp nuôi dưỡng là tốt nhất.
Ngoài ra, trong trường hợp con đủ chín tuổi trở nên khi cha mẹ quyết
định giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, tòa án cần phải xem xét nguyện vọng
của con (khoản 2 Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000). Nội dung của quy định còn
được cụ thể hóa tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP : ‘‘... nếu con từ đủ chín tuổi
trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về
nguyện vọng được sống trực tiếp với ai’’. Như vậy, pháp luật đã tốn trọng ý kiến
của con cái, coi ý kiến chọn ở với ai là một trong những yếu tố để tòa án quyết
định giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng. Bởi ở lứa tuổi này, các em đã có độ

nhận thức nhất định, biết người nào quan tâm, chăm sóc mình nhiều hơn. Đây là
một điểm rất hợp lý tiến bộ và hợp lý trong quy định của pháp luật So với Luật
HN&GĐ năm 1959 và 1986 .Xung quanh giải quyết vấn đề xác định người trực
tiếp nuôi con đều hướng đến đối tượng chính là đứa con. Tất cả các yếu tố để
Tòa xem xét ai là người trực tiếp nuôi dưỡng đều dựa trên các quyền và lợi ích
của con, phải xem xét cẩn thận đến nguyện vọng của con . Điều này là hoàn toàn
chính đáng và nó cũng phù hợp với tinh thần của Điều 12 Công ước Liên hợp
quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam là quốc gia thành viên : ‘‘Các quốc gia
thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng
của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả mọi vấn đề

19


có tác động đến trẻ em, những quan điểm của trẻ em được coi trọng một cách
thích ứng với tuổi và độ trưởng thành của các em’’.
Nhưng cũng xuất phát từ chính lứa tuổi vẫn còn non nớt, thiếu chín chắn
và đặc biệt theo quy định của pháp luật đủ chín tuổi vẫn chưa phải độ tuổi thành
niên, chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ( chưa có khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi một của mình một cách đầy đủ )”. Nhằm tạo điều kiện tốt
nhất cho con phát triển về thể chất cũng như tinh thần thì tòa án khi hỏi ý kiến
của con cũng cần phải xem xét thêm các yếu tố khác.Do vậy ý kiến của con khi
đủ chín tuổi chỉ là một trong các yếu tố quyết định đến việc ai là người nuôi con.
Bởi trên thực tế thì các con khi được hỏi muốn ở với ai, đa số chúng không biết
trả lời thế nào hoặc trả lời một cách lung mung ,theo cảm tính “ở với ai cũng
được ,không ở với ai hết, ở với cả hai”. Vì vậy, sự lựa chọn của con cũng chỉ là
một yếu tố để Toà án ‘‘xem xét’’, cùng với các yếu tố khác đã tạo nên tính hợp
lý của pháp luật.
2.4.Cấp dưỡng cho con sau khi cha mẹ ly hôn.
Sau khi ly hôn, Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con được đặt ra đối với người

không trực tiếp nuôi dưỡng “người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con”( khoản 1 Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000). Nghĩa vụ cấp
dưỡng này không phụ thuộc vào người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế
hay không , người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con (Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP). Pháp luật quy định như vậy xuất
phát từ trách nhiệm chăm lo, chăm sóc lẫn nhau giữa người cha, người mẹ đối
với con chung mà do chính mình sinh ra, nuôi dưỡng. Tuy pháp luật không quy
định cụ thể nhưng có thể hiểu ngầm trách nhiệm cấp dưỡng chỉ được áp dụng
đối với con chung của cha mẹ. Theo luật HN7&GĐ năm 2000 thì quan hệ
cha,mẹ, con được xác định theo nguyên tắc suy đoán (Điều 63 Luật HN&GĐ
năm 2000). Do vậy, người cha, người mẹ nào muốn không phải thực hiện nghĩa
vụ nuôi con mà không phải con chung của mình thì phải chứng minh trước tòa.

20


Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không
trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Tòa án cần phải giải thích cho
họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con.Nếu xét thấy việc họ không yêu
cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì
tòa án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con ( Nghị quyết 02/2000/ NQHĐTP).
2.4.1. Xác định mức cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn.
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha,mẹ đối với con sau khi ly hôn gắn liền với
nhân thân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, không thể thay thế bằng nghĩa vụ
khác và không thể chuyển giao cho người khác( Khoản 1 Điều 50 Luật HN7GĐ
năm 2000). Nó thể hiện trách nhiệm của cha, mẹ đối với con cái, cũng như “
không loại trừ khả năng người tham gia quan hệ cấp dưỡng( cha hoặc mẹ đối
với con) suy nghĩ rằng, việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là nhằm củng cố, duy
trì tình cảm, sự yêu thương, quý mến lẫn nhau giữa hai người”3. Ngoài tính

nhân thân nghĩa vụ cấp dưỡng còn mang tính tài sản.Khi thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng luôn có sự chuyển giao một lợi ích vật chất từ người có nghĩa vụ cấp
dưỡng sang người được cấp dưỡng.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con sau khi cha mẹ ly hôn,
Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định nghĩa vụ cấp dưỡng của cha,mẹ
đối với con sau khi ly hôn: “khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con
chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có khả năng để tự nuôi mình có nghĩa vụ
cấp dưỡng nuôi con. Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thỏa thuận; nếu không
thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết”. Cụ thể hóa Điều luật trên Nghị
quyết 02/2000/NQ-HĐTP quy định “ tiền cấp dưỡng cho con bao gồm những
chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thỏa
thuận. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tùy vào từng
Đinh Thị Mai Phương ( chủ biên). Bình luận khoa học Luật HN&GĐ năm 2000.Nxb chính trị quốc gia
Hà Nội-2004.
3

21


trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng
nuôi con cho hợp lý.” Như vậy, các bên có thể thỏa thuận mức cấp dưỡng cụ thể
cho con, dựa trên mức sinh hoạt trung bình tại địa phương , bao gồm các chi phí
cho việc ăn mặc, khám chữa bệnh, học hành và các chi phí khác đảm bảo cho
con một cuộc sống tối thiểu ở địa phương đó. Nếu các bên không thỏa thuận
được về mức cấp dưỡng cho con thì Tòa án sẽ căn cứ vào khả năng thực tế của
mỗi bên, vào mức sống của từng địa phương để quyết định mức cấp dưỡng nuôi
con cho hợp lý. Tòa án chỉ can thiệp nếu như các bên không thỏa thuận được
mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn. Đây là quy định cũng rất hợp lý của
pháp luật, tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên để xác định mức cấp

dưỡng cụ thể, phù hợp nhất cho con cũng như người cha, người mẹ có nghĩa vụ
cấp dưỡng.
Nhưng xuất phát từ thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thường khá
dài. Trong khoảng thời gian này cả bên được cấp dưỡng và bên có nghĩa vụ cấp
dưỡng đều có những thay đổi nhất định về điều kiện kinh tế cũng như nhu cầu
thiết yếu. Do đó khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc
thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì
yêu cầu Tòa án giải quyết ( Khoản 2 Điều 53 Luật HN&GĐ năm 2000). Đây là
quy định mang tính hợp lý, vì không ai có thế đoán trước được tương lai các bên
trong quan hệ cấp dưỡng này có thay đổi nhiều về điều kiện kinh tế, nhu cầu
thiết yếu hay không.
2.4.2. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được hiểu là cách thức, biện
pháp mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng tiến hành thực hiện. Luật HN&GĐ năm
2000 quy định phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho tất cả các trường
hợp có nghĩa vụ cấp dưỡng nói chung và nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với
con cái sau khi ly hôn nói riêng. Theo đó“ Việc cấp dưỡng có thể thực hiện định
kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm hoặc một lần” ( Điều 54 Luật HN&GĐ năm
2000). Cụ thể hóa Điều luật này Điều 18 Khoản 1 Nghị định 70 /2001/NĐ-CP
22


đã hướng dẫn cụ thể “ người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng
hoặc giám hộ của người đó thỏa thuận về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng bằng tiền hoặc tài sản. Nghĩa vụ cấp dưỡng được ưu tiên theo phương
thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm hoặc hàng năm”. Như vậy nghĩa
vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con cái được pháp luật tôn trọng ý kiến thỏa
thuận của các bên ( bên được cấp dưỡng hoặc giám hộ của người được cấp
dưỡng đối và người có nghĩa vụ cấp dưỡng). Các bên có thể thỏa thuận cấp
dưỡng bằng tiền hay bằng tài sản có thể bao gồm các sản phầm nông sản, thủy

sản,... mà chính người có nghĩa vụ cấp dưỡng tạo ra . Các bên cũng hoàn toàn có
thể thỏa thuận được khoảng thời gian cấp dưỡng trong phạm vi quy định của
pháp luật “ thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc
một lần” phù hợp với tính chất ngề nghiệp của người có nghĩa vụ cấp dưỡng
hoặc nhu cầu của người được cấp dưỡng . Nhưng yêu tiên thực hiện nghĩa vụ
theo phương thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm hoặc hàng năm[23].
Việc Tòa án cho phép các bên thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo phương
thức thỏa thuận đã thực sự đảm bảo quyền và lợi ích các bên của quan hệ cấp
dưỡng, đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện thuận lợi. Trong trường hợp
các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng
định kỳ hàng tháng ( Điểm C Mục 11 nghị quyết 02/2000/ NQ- HĐTP). Đây là
cách thức thực hiện nghĩa vụ đều đặn cho các nhu cầu thiết yếu cho con với số
tiền hoặc tài sản hợp lý nhất đối với cả người cấp dưỡng và người được cấp
dưỡng. Vì thông thường số tiền cấp dưỡng hàng tháng chỉ dao động từ ba trăm
đến một triệu Việt Nam đồng. Với số tiền này, người có nghĩa vụ cấp dưỡng có
khả năng thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, mặt khác cấp dưỡng hàng tháng cũng
đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện đều đặn bảo vệ quyền lợi tốt hơn
cho con.
2.4.3. Đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con sau khi
ly hôn .
23


Đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện cho con sau khi cha, mẹ ly
hôn góp phần không nhỏ cho việc bảo đảm quyền và lợi ích của con. Nhưng
hiện tại, bên cạnh những bậc cha, mẹ có ý thức tự nguyện thì vẫn còn không ít
các trường hợp thiếu thiện chí thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Vì vậy,
việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện trên thực tế, góp
phần tạo nên ý nghĩa thiết thực của các quy định pháp luật về đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của con sau khi cha, mẹ ly hôn.

Các quy định của pháp luật luôn khuyến khích những bậc làm cha, làm
mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho sau khi ly hôn tự giác thực hiện nghĩa vụ của
mình. Đối với các trường hợp cha,mẹ không tự giác thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng của mình đối với con thì sẽ bị Tòa án buộc phải thực hiện. Theo Điều 55
Luật HN&GĐ năm 2000 và khoản 1 Điều 20 Nghị định số 70/ 2001/NĐ-CP:
trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng thì theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của
người được cấp dưỡng, Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ,
Viện kiểm sát, Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Ngày thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có thể do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được thì ngày thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được tính từ ngày
ghi trong bản án, quyết định của tòa án. Kể từ ngày được Tòa án quy định trong
Bản án, hoặc thỏa thuận, nếu người cha, người mẹ có trách nhiệm cấp dưỡng
vẫn không tự nguyện thực hiện thì người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ
của người được cấp dưỡng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án buộc người có
nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ [20].Trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, người phải
thi hành nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì cơ quan thi
hành án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế( Điều 46 Luật Thi hành án dân
sự). Theo Điểm c khoản Điều 78,79, 80,81,82,83 Luật thi hành án dân sự, biện
pháp cưỡng chế được áp dụng trong trường hợp này có thể cưỡng chế bàng cách
24


khấu trừ thu nhập, khấu trừ vào tài khoản, thu tiền từ hoạt động kinh doanh, thu
hồi giấy tờ có giá, trừ tiền, kê biên tài sản,....
Song song với việc ban hành các biện pháp cưỡng chế buộc người có
nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện đối với con sau khi cha mẹ ly hôn, Pháp luật
còn có quy định về hình thức xử phạt đối với người vi phạm pháp luật về nghĩa

vụ cấp dưỡng. Điều 107 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định “ người nào vi phạm
...., không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc có các hành vi vi phạm pháp luật
về hôn nhân và gia đình thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường...” [21]. Điều 12 nghị định số 87/2001/NĐ-CP của chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vự hôn nhân và gia đình quy định “Phạt cảnh cáo
hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với hành vi từ chối hoặc
trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cha mẹ, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly
hôn theo quy định của pháp luật.”.

Trong trường hợp nhất định, người cha,

người mẹ không chịu thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự “ Người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng
thực tế để thực hiện cấp dưỡng mà cố ý hoặc chốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn
vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến hai năm” ( Điều 152 Bộ luật Hình sự năm 1999).
Như vậy, các quy định của pháp luật về đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng cho
con của cha mẹ sau khi ly hôn tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh, góp phần đảm
bảo việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng này trên thực tế.
2.5.Quyền thăm nom con sau khi cha mẹ ly hôn.
Điều 12 Luật BVCS&GDTE quy định : ‘‘Trẻ em có quyền được chăm
sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức’’. Khoản 1
Điều 36 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định : ‘‘ Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền
cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên
bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không
25



×