Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

so sanh thiết chế pháp lý của ASEAN với WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.05 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Sự tồn tại và phát triển của Cộng đồng ASEAN (AC) đang ngày càng
có tác động mạnh mẽ, đa chiều đến sự phát triển của các nước trong khu
vực. Hiện nay, Cộng đồng có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ. Nghiên cứu về cơ
cấu tổ chức của AC sẽ góp phần có cái nhìn đúng đắn và giúp chúng ta hiểu
biết sâu sắc hơn về Cộng đồng này. Cùng với đó, việc nghiên cứu sẽ đạt hiệu
quả cao hơn khi đặt cơ cấu tổ chức của AC trong mối liên hệ với thiết chế
pháp lý của Liên minh châu Âu (EU).
NỘI DUNG
I. Khái quát về Cộng đồng ASEAN (AC)và Liên minh châu Âu (EU):
1. Khái quát về cộng đồng ASEAN:
Ý tưởng về một cộng đồng ASEAN được đưa ra trong Tầm nhìn ASEAN
2020 năm 1997. Tuy nhiên, văn kiện này mới chỉ dừng lại đến ý tưởng mà chưa
đưa ra khái niệm chính thức nào về Cộng đồng ASEAN.
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9 năm 2003 đã thông qua Tuyên bố hòa
hợp ASEAN (Tuyên bố Bali II). Với những quy định về mục tiêu và cấu trúc của
từng cộng đồng cấu thành Cộng đồng ASEAN, Tuyên bố là văn bản pháp lí đầu
tiên chính thức ghi nhận khái niệm cộng đồng ASEAN và những định dạng cụ
thể của nó.
Nhằm hiện thực hóa mục tiêu thành lập AC, Chương trình hành động Viên
Chăn (VAP) đã được các nhà lãnh đạo ASEAN thông qua tại Hội nghị cấp cao
lần thứ mười năm 2004.
Tiếp đó, các bản kế hoạch tổng thể xây dựng từng cộng đồng trong Cộng
đồng ASEAN, bao gồm Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC, Kế hoạch tổng thể
xây dựng APSC và Kế hoạch tổng thể xây dựng ASCC cùng được ký kết trong
năm 2009. Đây chính là cơ sở pháp lí để ASEAN triển khai xây dựng mỗi cộng
đồng, qua đó hiện thực hóa mục tiêu về một Cộng đồng ASEAN.
Như vậy, có thể hiểu Cộng đồng ASEAN là liên kết của các quốc gia
ASEAN trên cơ sở một hệ thống thiết chế và thể chế pháp lí, bao gồm ba trụ cột
Cộng đồng chính trị - an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa – xã


1


hội, nhằm xây dựng ASEAN trở thành một tổ chức quốc tế năng động, thịnh
vượng, vững mạnh và bản sắc chung.
2. Khái quát về Liên minh châu Âu (EU):
Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu (tiếng Anh: European Union),
viết tắt là EU, là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên
thuộc Châu Âu. Liên minh châu Âu được thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào
ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC). Với hơn 500 triệu
dân, Liên minh châu Âu chiếm 30% (18,4 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP danh
nghĩa và khoảng 22% (15,2 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP sức mua tương đương
của thế giới.
Liên minh châu Âu đã phát triển một thị trường chung thông qua hệ thống
luật pháp tiêu chuẩn áp dụng cho tất cả các nước thành viên nhằm đảm bảo sự
lưu thông tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn. EU duy trì các chính
sách chung về thương mại, nông nghiệp, ngư nghiệp và phát triển địa phương. 16
nước thành viên đã chấp nhận đồng tiền chung, đồng Euro, tạo nên khu vực đồng
Euro. Liên minh châu Âu đã phát triển một vai trò nhất định trong chính sách đối
ngoại, có đại diện trong Tổ chức Thương mại Thế giới, G8, G-20 nền kinh tế
lớn và Liên hiệp quốc. Liên minh châu Âu đã thông qua việc bãi bỏ kiểm tra hộ
chiếu bằng Hiệp ước Schengen giữa 22 quốc gia thành viên và 3 quốc gia không
phải là thành viên Liên minh châu Âu.
Là một tổ chức quốc tế, Liên minh châu Âu hoạt động thông qua một hệ
thống chính trị siêu quốc gia và liên chính phủ hỗn hợp. Những thể chế chính trị
quan trọng của Liên minh châu Âu bao gồm Ủy ban châu Âu, Hội đồng Liên
minh châu Âu, Hội đồng châu Âu, Tòa án Công lý Liên minh châu Âu và Ngân
hàng Trung ương châu Âu.
Từ khi ra đời cho đến nay, Liên minh châu Âu đã lớn mạnh hơn về số lượng
cũng như chất lượng thông qua việc tăng cường thẩm quyền của Liên minh châu

Âu.
II. Bình luận về cơ cấu tổ chức của Cộng đồng ASEAN (AC):
1. Cơ cấu tổ chức
1.1. Hội nghị cấp cao – ASEAN Sumit
2


Hội nghị cấp cao ASEAN (hay còn gọi là Hội nghị thượng đỉnh) bao gồm
các nguyên thủ quốc gia hoặc những người đứng đầu chính phủ của các quốc gia
thành viên. Hội nghị cấp cao tiến hành họp 2 lần một năm và do quốc gia thành
viên giữ chức chủ tịch ASEAN chủ trì và tổ chức, ngoài ra Hội nghị cấp cao se
được nhóm họp bất thường khi cần thiết. Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của
ASEAN
1.2. Hội đồng điều phối
Hội đồng điều phối ASEAN bao gồm các ngoại trưởng ASEAN, họp ít nhất
2 lần một năm. Hội đồng điều phối ASEAN se được các quan chức cao cấp liên
quan hỗ trợ.
1.3. Các hội đồng Cộng đồng
Các hội đồng Cộng đồng bao gồm Hội đồng Cộng đồng chính trị – an ninh,
Hội đồng cộng đồng kinh tế, Hội đồng cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN. Mỗi
quốc gia thành viên se chỉ định một đại diện quốc gia tham dự cuộc họp của Hội
đồng Cộng đồng ASEAN, trực thuộc mỗi Hội đồng Cộng đồng se có các cơ
quan chuyên ngành cấp bộ trưởng.
Mỗi Hội đồng Cộng đồng họp ít nhất 2 lần 1 năm và do Bộ trưởng có liên
quan của mỗi quốc gia thành viên giữ cương vị Chủ tịch ASEAN chủ trì. Mỗi
Hội đồng Cộng đồng ASEAN se được hỗ trợ bởi các quan chức cao cấp có liên
quan.
1.4. Các cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng
Các cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng ASEAN là các thiết chế trực
thuộc các Hội đồng Cộng đồng (Hội đồng Cộng đồng chính trị – an ninh có 6 cơ

quan, Hội đồng Cộng đồng kinh tế có 14 cơ quan, Hội đồng Cộng đồng văn hóa
– xã hội có 17 cơ quan trực thuộc. Mỗi cơ quan chuyên ngành cấp Bộ trưởng
trong phạm vi chức năng của mình có thể giao cho các quan chức cao cấp và các
cơ quan trực thuộc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được nêu trong Phụ lục 1
của Hiến chương.
1.5. Tổng thư kí và Ban thư kí
- Tổng thư kí ASEAN
Tổng thư kí ASEAN do Hội nghị cấp cao bổ nhiệm với nhiện kì 5 năm và
không được tái bổ nhiệm. Tổng thư kí được lựa chọn trong số công dân của quốc
gia thành viên ASEAN dựa theo thứ tự luân phiên, có tính đến sự liêm khiết,
3


năng lực, kinh nghiệm, chuyên môn và sự cân bằng về giới. Tổng thư kí là quan
chức hành chính cao cấp nhất của ASEAN, được hỗ trợ bởi bốn Tổng thư kí với
hàm thứ trưởng. Các phó Tổng thư kí se chịu trách nhiệm trước Tổng thư kí
trong việc thực thi chức trách của mình. Bốn phó Tổng thư kí se không cùng
quốc tịch với Tổng thư kí và đến từ 4 quốc gia thành viên khác nhau
- Ban thư kí ASEAN
Ban thư kí ASEAN bao gồm Tổng thư kí và các nhân viên khác, tùy theo
yêu cầu đặt ra. Tổng thư kí và các nhân viên Ban thư kí thực thi nhiệm vụ vì lợi
ích của ASEAN mà không nhân dân bất kì chính phủ nào.
- Ban thư kí ASEAN quốc gia
Mỗi quốc gia thành viên ASEAN thành lập một Ban thư kí ASEAN quốc
gia đóng vai trò là đầu mối quốc gia trong các hoạt động liên quan đến ASEAN.
1.6. Ủy ban đại diện thường trực bên cạnh ASEAN
Mỗi quốc gia thành viên ASEAN bổ nhiệm một đại diện thường trực có
hàm đại sứ bên cạnh ASEAN đặt tại Jakarta. Ủy ban đại diện thường trực bao
gồm các vị sứ của đại sứ của quốc gia.
1.7. Ủy ban ASEAN ở nước thứ ba và các tổ chức quốc tê

Ủy ban ASEAN ở các nước thứ 3 có thể được thành lập tại các nước ngoài
khối ASEAN, bao gồm người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao của các
quốc gia thành viên ASEAN tại quốc gia đó. Các ủy ban tương tự có thể được
thành lập bên cạnh các tổ chức quốc tế. Các ủy ban này se thúc đẩy lợi ích và
bản sắc ASEAN tại nước chủ nhà và các tổ chức quốc tế.Thủ tục hoạt động của
các ủy ban này se do Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN quy định vụ thể.
Ngoài các cơ quan trên, Hiến chương còn quy định se thành lập một Cơ
quan nhân quyền hoạt động theo Quy chế do Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
quyết định để thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, phù
hợp với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương.
2. Bình luận về cơ cấu tổ chức của AC:
Cơ cấu tổ chức của AC ngày càng đảm bảo cho bộ máy của ASEAN thực
hiện có hiệu quả các tôn chỉ, mục đích đã đề ra trong Hiến chương.
Thứ nhất, tất cả các thiết chế pháp lý của AC đều đã được thể chế hoá ngay
trong Hiến chương. Đồng thời, chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan này cũng
được quy định chi tiết và cụ thể ở ngay trong Hiến chương chứ không cần các

4


thoả thuận riêng biệt khác như trước đây (điển hình như các quy định về chức
năng, nhiệm vụ của hội nghị cấp cao, Tổng thư kí và Ban thư kí).
Thứ hai, cơ cấu tổ chức của AC theo mô hình "chóp quyền lực", vừa đảm
bảo sự tập trung (bên cạnh hội nghị cấp cao là cơ quan quyền lực cao nhất, còn
có các cơ quan điều phối như: Hội đồng điều phối để phối hợp với các hội đồng
Cộng đồng ASEAN nhằm tăng cường tính đồng bộ về chính sách, hiệu quả và
hợp tác giữa các cơ quan này; 3 hội đồng cộng đồng có trách nhiệm đảm bảo
việc thực hiện các quyết định của ASEAN liên quan đến cộng đồng mình, điều
phối các hoạt động của cộng đồng, đồng thời báo cáo lên Hội nghị cấp cao
ASEAN về những hoạt động thuộc phạm vi của cộng đồng mình phụ trách...),

vừa đảm bảo sự chuyên sâu, chuyên trách (như trong mỗi hội đồng cộng đồng lại
có các cơ quan chuyên ngành cấp Bộ trưởng trực thuộc, mỗi cơ quan chuyên
ngành này lại có các cơ quan chuyên trách cấp dưới giúp việc...).
Thứ ba, sự phân công, phân nhiệm và mối quan hệ giữa các cơ quan trong
AC cũng được xác định rõ ràng, chặt che; đặc biệt là mối quan hệ giữa cơ quan
hoạch định chính sách với các cơ quan chấp hành, giữa cơ quan điều phối với cơ
quan thực hiện, giữa cơ quan trụ cột với cơ quan chuyên ngành và giữa cơ quan
cấp trên với cơ quan trực thuộc... Trong tất cả các cơ quan của AC chỉ duy nhất
Hội nghị cấp cao là cơ quan hoạch định chính sách, các cơ quan còn lại đều là
các cơ quan điều phối, điều hành và chấp hành. Điều này chắc chắn se làm tăng
hiệu quả, hiệu lực trong thực tế triển khai các quyết định, chính sách của AC.
Thứ tư, khoảng cách giữa các kì họp của các hội đồng đã được rút ngắn hơn
rất nhiều so với trước. Hội nghị cấp cao, Hội đồng điều phối, 3 Hội đồng cộng
đồng đều họp ít nhất 2 lần trong 1 năm so với trước đây là 3 năm một lần của hội
nghị cấp cao và mỗi năm một lần của các Hội nghị bộ trưởng. Và vì vậy, se giúp
cho các cơ quan này (nhất là hội nghị cấp cao với tư cách là cơ quan hoạch định
chính sách cao nhất) có khả năng phản ứng nhanh nhạy, kịp thời và thường
xuyên hơn đối với các vấn đề đặt ra.
Thứ năm, nhấn mạnh vị trí của Tổng thư kí, các phó Tổng thư kí và Ban
thư kí - cơ quan hành chính thường trực nhằm thúc đẩy việc xây dựng Cộng
5


đồng ASEAN và các hoạt động khác của ASEAN đi vào thiết thực và hiệu quả
hơn.
III. So sánh với các thiết chế pháp lý của Liên minh châu Âu (EU)
1. Hệ thống các thiết chế pháp lý của Liên minh châu Âu:
1.1. Hội đồng châu Âu:
Gồm người đứng đầu các Nhà nước hoặc Chính phủ quốc gia thành viên,
chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, chủ tịch Ủy ban thành viên. Họp 4 lần trong 1

năm.
1.2. Nghị viện châu Âu:
Gồm 736 thành viên do công dân các nước thành viên trực tiếp bầu ra theo
quy tắc tỷ lệ với dân số và hình thức phổ thông, hoạt động theo nhóm chính trị.
1.3. Hội đồng bộ trưởng châu Âu:
Gồm đại diện cấp bộ trưởng của các quốc gia thành viên, thành phần của
Hội đồng bộ trưởng tại mỗi cuộc họp là bộ trưởng phụ trách các vấn đề liên
quan. Ngoài ra còn có hệ thống cơ quan giúp việc: Ủy ban đặc biệt về nông
nghiệp; Ủy ban đại diện thường trực; Các nhóm công tác; Tổng thư ký.
1.4. Ủy ban châu Âu:
Gồm 27 thành viên, trong đó mỗi quốc gia có 1 thành viên, có nhiệm kỳ 5
năm. Gồm 1 chủ tịch và 5 phó chủ tịch, có 1 phó chủ tịch là đại diện cấp cao của
EU về chính sách đối ngoại và an ninh chung, và chỉ chịu trách nhiệm trước
Nghị viện châu Âu. Thành viên của Ủy ban hoạt động độc lập với quốc gia, chỉ
phục vụ lợi ích của cộng đồng.
1.5. Tòa án châu Âu
Được chia làm 2 loại : Tòa công lý châu Âu và Tòa chung châu Âu
* Tòa công lý châu Âu
- Gồm 27 thẩm phán và 8 công tố viên do Chính phủ các quốc gia thành
viên bổ nhiệm, có nhiệm kỳ : 8 năm và có thể tái bổ nhiệm
- Các thẩm phán bầu ra Chánh tòa với nhiệm kỳ 3 năm và có thể tái bổ
nhiệm
- Cơ cấu : 2 phân tòa
+ 1 phân tòa gồm 5 Thẩm phán, 1 Chánh án với nhiệm kỳ 3 năm
+ 1 phân tòa gồm 3 Thẩm phán, 1 Chánh án với nhiệm kỳ 1 năm
* Tòa chung châu Âu
Gồm 27 Thẩm phán và không có công tố viên do các quốc gia thành viên
bổ nhiệm với nhiệm ký 6 năm và có thể tái bổ nhiệm.
1.6. Ngân hàng trung ương châu Âu :
6



Cơ cấu gồm có Hội đồng điều hành (cơ quan quyết định cao nhất), Ban
quản trị, Hội đồng chung.
1.7. Kiểm toán châu Âu :
Gồm 27 thành viên do Hội đồng bổ nhiệm với nhiệm kỳ 6 năm và có thể
được tái bổ nhiệm. Ngoài ra còn có kiểm toán viên, biên dịch viên, thành viên
khác.
1.8. Các cơ quan chuyên ngành:
Gồm có Ủy ban kinh tế xã hội châu Âu, Ủy ban vùng, Ngân hàng đầu tư
châu Âu.
2. So sánh cơ cấu tổ chức của cộng đồng ASEAN (AC) với các thiết
chế pháp lý của Liên minh châu Âu (EU).
2.1. Giống nhau:
Cộng đồng ASEAN và Liên minh châu Âu đều tổ chức theo cấu trúc hình
chóp quyền lực, đều có cơ quan hoạch định chính sách và các cơ quan chấp
hành. Giống như tổ chức quốc tế truyền thống khác như ASEAN, EU cũng có
những thiết chế có sự tham gia của mỗi nước thành viên đại diện cho quyền lợi
của nước mình như Hội đồng châu Âu có nhiệm vụ xác định mục tiêu phát triển,
hoạch định đường lối chính trị chung và những ưu tiên trong hoạt động của EU.
Quyết định của Hội đồng châu Âu được thông qua trên cơ sở đa số tuyệt đối
hoặc đồng thuận.
2.2. Khác nhau:
Thứ nhất, về cách thức tổ chức:
Sự khác nhau giữa hai tổ chức về cơ cấu thể chế là đương nhiên. Nhưng
sự khác biệt quyết định không phải ở cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ mà ở
tính chất của toàn hệ thống. Trong khi hệ thống tổ chức của AC gồm những cơ
cấu có sự tham gia của mỗi nước thành viên đại diện cho quyền lợi của nước
mình thì hệ thống tổ chức của EU không chỉ có vậy, EU có những thiết chế
mang tính chất siêu quốc gia, tiêu biểu là Ủy ban châu Âu, mà ở đó đại diện của

các nước thành viên hoạt động là vì lợi ích chung của cả cộng đồng. Các thiết
chế hiện nay của EU chưa phải là một “nhà nước” với những đặc điểm truyền
thống nhưng đã hình thành mối quan hệ chặt che giữa cấp độ liên minh và các
7


nước thành viên, có các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự khác biệt đó
xuất phát tư bản chất hợp tác của mỗi tổ chức
Cơ cấu tổ chức và hoạt động của EU là một nội dung hêt sức phức tạp so
với cơ cấu tổ chức của AC, do bộ máy của Liên minh là sự kết hợp và pha trộn
giữa cách thức tổ chức bộ máy của các tổ chức quốc tế (với sự xuất hiện của Ủy
ban châu Âu, Hội đồng châu Âu) và cách thức tổ chức bộ máy của một nhà nước
liên bang (với sự xuất hiện của Nghị viện châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu
Âu), hay như ngay trong chức năng hoạt động của các cơ quan đã thể hiện sự
pha trộn rõ rệt: Tòa án châu Âu vừa giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia
thành viên như 1 tòa án quốc tế, vừa giải quyết các tranh chấp trong các lĩnh vực
hiến pháp, hành chính, dân sự, thương mại… như một tòa án quốc gia.
Thứ hai, về số lượng các cơ quan:
Hệ thống các thiết chế của EU gồm có các thiết chế pháp lý chính là: Hội
đồng châu Âu, Hội đồng bộ trưởng châu Âu, Nghị viện châu Âu, Ủy ban châu
Âu, Tòa án châu Âu, Ngân hàng trung ương châu Âu, Kiểm toán châu Âu và các
cơ quan chuyên ngành. Tòa án châu Âu là một thể chế rất đặc thù và quan trọng
của EU, nó vừa có tính chất như tòa án quốc tế, vừa có tính chất như tòa án quốc
gia. Nhiệm vụ của Tòa án là duy trì hiệu lực của các Hiệp ước, luật pháp của
Cộng đồng, xem xét sự tương thích giữa luật của EU với luật quốc gia thành
viên, của các điều ước quốc tế với Hiệp ước của EU; giải quyết các tranh chấp
liên quan đến các thể chế, các nước thành viên, của cá nhân và doanh nghiệp
So với EU, AC không có tòa án tư pháp để theo dõi và thực thi pháp luật
chung của Hiệp hội, chưa có 1 cơ quan hành chính độc lập, đủ mạnh để giám sát
việc thực thi các chính sách…Cho đến nay, AC vẫn duy trì sự lỏng lẻo về mặt

thể chế, một bộ máy điều hành phi tập trung.
Thứ ba, về tổ chức của từng thiết chế:
Khác với AC, hệ thống tổ chức của EU là một thiết chế ngày càng chặt
che được hình thành và phát triển qua các Hiệp ước: Hiệp ước Paris(1951), Hiệp
ước Rome(1957), Đạo luật châu Âu thống nhất (1986), Hiệp ước Maastricht
(1992), Hiệp ước Amsterdam (1997), Hiệp ước Nice (2001), Hiệp ước thiết lập
8


Hiến pháp (2004), Hiệp ước Lisbon (2007), theo hướng tạo ra một châu Âu
thống nhất theo kiểu liên bang.
Đặt trong mối quan hệ so sánh với EU thì trong các cơ quan của AC vẫn
chưa có nhiều các cơ quan hoạt động thường kỳ (chỉ có 2 cơ quan là Ủy ban đại
diện thường trực và Ban thư ký so với các cơ quan còn lại chỉ tiến hành họp theo
định kỳ hoặc khi cần thiết). Điều này một mặt khiến cho mối liên kết giữa các cơ
quan của Hiệp hội còn lỏng lẻo, mặt khác do chỉ hoạt động theo cơ chế kỳ họp
nên có thể se làm hạn chế khả năng chỉ đạo, điều hành của các cơ quan này trước
những biến động, khó khăn bất thường
Nhìn chung, Hiệp ước Lisbon có hiệu lực làm cho quyền năng chủ thể luật
quốc tế mà 27 quốc gia thành viên trao cho EU ngày càng lớn hơn nhiều so với
quyền năng chủ thể luật quốc tế của ASEAN hiện tại và của AC trong tương lai.
Theo Hiến chương ASEAN, AC vẫn là một tổ chức liên chính phủ. Điểm phát
triển của AC so với ASEAN là ở chỗ, trong AC mức độ liên kết khu vực sâu sắc
hơn và có nền tảng pháp lý vững chắc hơn. Trong khi cơ sở pháp lý của ASEAN
là Tuyên bố Băng Cốc 1967, thì cơ sở pháp lý của AC là Hiến chương ASEAN –
một văn kiện có tính thể chế cao hơn. Đó cũng là điểm khác so với EU, bởi vì
thực tế cho thấy mô hình hợp tác của EU được hình thành và phát triển qua các
thời kỳ đều dựa trên cơ sở một hệ thống pháp luật vững chắc, trong khi ASEAN
thiếu điều này.
Với Hiến chương, ASEAN đã có bước tiến trong việc định khung hợp tác

của mình. Đó là mô hình Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột cộng đồng về
chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội, phản ánh bao quát nội dung hợp
tác toàn diện của ASEAN. Khung hợp tác này hoàn toàn khác so với EU. Khung
hợp tác của EU là 3 trụ cột bao gồm 1 trụ cột cộng đồng và 2 trụ cột liên chính
phủ. Người ta ví cấu trúc của EU như một ngôi đền Hy lạp điển hình, với mỗi trụ
cột đại diện cho một khu vực chính sách nhất định và có một khuôn khổ thể chế
duy nhất cho cả ba trụ cột. Về trụ cột cộng đồng, EU không thay thế các cộng
đồng mà nó bao hàm các cộng đồng: ECSC (hiện nay không còn do hết hiệu lực
sau 50 năm), Euratom và EEC. Trụ cột này liên quan đến các lĩnh vực(chủ yếu là
9


kinh tế) mà trong đó các quốc gia thành viên hạn chế chủ quyền của mình để trao
cho các thiết chế của Liên minh nhằm thực hiện các chính sách chung như chính
sách nông nghiệp chung, chính sách thương mại chung…Hai trụ cột liên chính
phủ thuộc lĩnh vực chính trị

bao gồm Chính sách an ninh và đối ngoại

chung(CFSP) và Chính sách hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và nội vụ(CJHA). Về
bản chất, 2 trụ cột này chỉ là cơ chế hợp tác liên chính phủ của các quốc gia có
chủ quyền, chủ yếu trên cơ sở đồng thuận. Điểm khác biệt duy nhất của các cơ
chế hợp tác liên chính phủ này là chúng được thiết lập và hoạt động với sự trợ
giúp của các thiết chế liên minh. Theo Hiệp ước Lisbon, các trụ cột liên chính
phủ cũng có sự điều chỉnh khi mà một số mảng hợp tác đã được chuyển sang trụ
cột cộng đồng
Như vậy, ba trụ cột cộng đồng của ASEAN không hẳn giống như trụ cột
cộng đồng hay trụ cột liên chính phủ của EU. Bởi vì, trụ cột cộng đồng của
ASEAN không có sự chuyển dịch chủ quyền của quốc gia thành viên cho cộng
đồng như các trụ cột cộng đồng của EU, nó cũng được thiết lập và hoạt động với

sự trợ giúp của các thiết chế cộng đồng như các trụ cột liên chính phủ của EU.
Các trụ cột cộng đồng của A được chia tách theo các lĩnh vực riêng biệt nhưng
các trụ cột của EU không hẳn vậy. Mô hình hợp tác mới của ASEAN thực chất
còn thấp hơn nhiều so với EU về mức độ, trình độ liên kết, điều này do những
yếu tố đặc thù của khu vực chi phối, song nó cũng khẳng định bước tiến mới
trong hợp tác ASEAN.
2.3. Nguyên nhân của sự khác biệt:
Về động cơ ra đời: Trên cơ sở “ nhận thức được sự tồn tại của các mối
quan tâm lẫn nhau và các vấn đề chung giữa các nước Đông Nam Á và tin
tưởng vào sự cần thiết phải tăng cường hơn nữa các mối đoàn kết sẵn có trong
khu vực; mong muốn xây dựng một nền tảng vững chắc cho hành động chung
nhằm thúc đẩy hợp tác ở khu vực Đông Nam Á” (Tuyên bố Băng Cốc), ngày
08/08/1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời. Như vậy động
cơ ra đời và khởi nguồn hợp tác của ASEAN là hợp tác, liên kết về chính trị, an
ninh. Khác với ASEAN, động cơ ra đời và khởi nguồn hợp tác của EU trước hết
10


là từ lĩnh vực kinh tế. Nhìn về lịch sử, cả ASEAN và EU đều bị ảnh hưởng bởi
chiến tranh lạnh nhưng EU ra đời trong bối cảnh và động cơ khác ASEAN. Một
Tây Âu đổ nát sau chiến tranh mà nước gây chiến (Đức) là nước lớn nhất nằm
ngay giữa châu Âu, nên nguyện vọng được sống trong hòa bình vĩnh viễn và hóa
giải mối hận thù truyền thống giữa 2 quốc gia lớn nhất châu Âu nằm cận kề nhau
là Đức và Pháp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của EEC. Mặt khác,
với sức ép của 2 siêu cường kinh tế lúc bấy giờ là Liên Xô và Mỹ đã thúc đẩy sự
hợp tác kinh tế giữa các nước Tây Âu.
Đặc điểm chính trị, tôn giáo, văn hóa của các quốc gia trong AC có nhiều
điểm khác EU. ASEAN là sự hợp tác của các nước đang phát triển vừa thoát
khỏi chế độ thuộc địa, phụ thuộc, đa dạng về văn hóa tôn giáo. Từ năm 1995, với
sự gia nhập của Việt Nam, ASEAN bắt đầu có sự khác biệt về chế độ chính trị và

sự chênh lệch lớn về trình độ kinh tế. Trong khi đó, các nước EU có nguồn gốc
lịch ssử, văn hóa và ngôn ngữ khá tương đồng nên EU dễ dàng thiết lập một thể
chế thống nhất và liên kết chặt che.
Điểm khác biệt sâu xa cho sự ra đời của EU và AC chính là ở ý tưởng liên
kết. Khác với người dân Đông Nam Á luôn muốn chung sống hòa bình, “thống
nhất trong đa dạng”, người dân châu Âu đã nuôi dưỡng ý tưởng thống nhất châu
Âu từ thởi khá xa xưa và khi hội đủ điều kiện chi việc hiện thực hóa ý tưởng và
nguyện vọng đó thì sự ra đời của EU là tất yếu. Quá trình liên kết châu Âu thực
chất là quá trình tái liên kết, tái hội nhập châu Âu trong điều kiện mới. Quá trình
này tuy gặp một số khó khăn nhưng rõ ràng diễn ra tương đối thuận lợi, ít gặp
phải vật cản từ phía nội tại của châu Âu. Do vậy mà trong hơn 50 năm tồn tại,
EU luôn bộc lộ xu hướng phát triển chung là ngày càng thu hẹp tính chất là một
tập hợp các quốc gia có chủ quyền, mở rộng theo hướng liên kết siêu quốc gia.
Có le đây là điểm khác biệt cơ bản nhất quy định mọi sự khác nhau giữa mô hình
hợp tác của EU và AC.
KẾT LUẬN
Đến nay, ASEAN đã đi được một chặng đường khá dài trên con đường
phát triển của mình, các mục tiêu đề ra từ Tuyên bố Băng Cốc cho đến các hội
11


nghị cấp cao đều đang được ASEAN thực hiện. So với EU thì AC vẫn còn
khoảng cách khá xa. Trong xu hướng khu vực hoá ngày càng sâu rộng với nhiều
khác biệt, từ những bước đi đầu tiên cho đến thực chất của quá trình liên kết, AC
cần hoàn thiện hơn về cơ cầu tổ chức để Cộng đồng ngày càng vững chắc, đạt
được những mục tiêu đã đề ra.

12




×